Trong kết quả điều tra “Thực trạng và hiệu quả sản
xuất ngành Trồng trọt” do Bộ Nông nghiệp và Phát triểnnông thôn thực hiện có các chỉ
tiêu doanh thu, lao động làm
việc, diện tích từng cây, chi phí
sản xuất (gồm chi phí vật chất,
chi phí dịch vụ và chi phí lao
động) cho từng loại cây trồng.
Số liệu đó cho phép tính toán các
chỉ tiêu năng suất như năng suất
lao động, năng suất cây trồng,
năng suất tính theo từng loại chi
phí riêng biệt và tổng hợp chung
về chi phí, lợi nhuận làm ra từ 1
đồng chi phí cho từng loại cây
trồng được điều tra. Tuy nhiên
để tính toán các chỉ tiêu năng
suất nói trên cho từng loại cây,
nhất là tổng hợp cho nhiều loại
cây trồng để đặc trưng chung
cho ngành trồng trọt thì phải có
số liệu về một số chỉ tiêu liên
quan ở tổng thể chung để làm
quyền số tính toán vì số liệu ở
trên thu được là kết quả của điều
tra chọn mẫu.
Theo kết quả Tổng điều tra
Nông thôn, nông nghiệp và thủy
sản ở khu vực doanh nghiệp và
hợp tác xã Nông nghiệp có thu
thập và tổng hợp các chi tiêu về
doanh thu thuần, lợi nhuận trước
thuế, nguồn vốn sản xuất và lao
động làm việc Trên cơ sở các
chỉ tiêu đó có thể tính toán được
các chỉ tiêu năng suất vốn, năng
suất lao động tính bằng giá trị
tăng thêm, lợi nhuận làm ra từ
nghìn đồng tiền vốn cho riêng
khu vực doanh nghiệp hoặc hợp
tác xã hay chung cho cả hai khu
vực này. Riêng ở trang trại có thể
tính toán được chỉ tiêu năng suất
lao động.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, các cơ quan
chức năng cần nghiên cứu để lựa chọn các chỉ tiêu năng
suất cần thiết và gọi là “các chỉ tiêu năng suất hướng
dẫn”, có giải thích rõ về nội dung, phương pháp tính, ý
nghĩa của từng chỉ tiêu, chỉ rõ nguồn thông tin, cách khai
thác và xử lý số liệu để tính toán cũng như điều kiện áp
dụng của mỗi chỉ tiêu năng suất đó để những cơ quan
thực tế, những người dùng tin có cơ sở để áp dụng tính
toán các chỉ tiêu này một cách thống thống nhất, bảo
đảm tính so sánh khi có yêu cầu.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các chỉ tiêu năng suất trong nông nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
CÁC CHỈ TIÊU NĂNG SUẤT
TRONG NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
PGS.TS Tăng Văn Khiên*
ThS. Lê Hoàng Minh Nguyệt**
Tóm tắt:
Năng suất nông nghiệp là động lực chính cho sự phát triển của ngành nông nghiệp, là
nguồn gốc cho sự cải thiện đời sống nông dân và có ý nghĩa chính sách quan trọng. Trong giai
đoạn hiện nay, nguồn cung cấp thực phẩm có ý nghĩa quan trọng để đáp ứng những thách
thức của việc tăng dân số toàn cầu, những thay đổi về thu nhập và chế độ ăn uống. Năng suất
nông nghiệp liên quan trực tiếp đến an ninh lương thực, giá cả và giảm ngh o đặc biệt ở các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu về năng suất nông nghiệp và các
chỉ tiêu năng suất trong nông nghiệp luôn là một trong những vấn đề quan trọng.
1. Năng suất là gì?
Quá trình sản xuất xã hội đòi hỏi phải có
3 yếu tố tham gia: lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động. Lao động (con
người) sử dụng tư liệu lao động, công cụ lao
động tác động vào đối tượng lao động để tạo
ra sản phẩm vật chất và dịch vụ nhằm đáp
ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của cá
nhân và xã hội. Mối quan hệ giữa một bên là
lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao
động được sử dụng trong quá trình sản xuất
kinh doanh và một bên là sản phẩm được tạo
ra trong quá trình đó được gọi là năng suất.
Theo ngôn ngữ hiện đại phần lao động
+ đối tượng lao động + tư liệu lao động đã
sử dụng trong quá trình sản xuất được gọi là
“đầu vào”. Còn sản phẩm tức là kết quả sản
xuất được tạo ra tương ứng với đầu vào đã
được sử dụng gọi là “đầu ra”. Năng suất chính
là quan hệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào.
Vậy năng suất hiểu một cách khái quát chính
là quan hệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào.
* Viện Năng suất Việt Nam
** Đại học Kinh tế Quốc dân
Quan hệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào
thường được thể hiện dưới dạng công thức
sau:
Đầu ra: Đầu vào = Năng suất
(Hoặc) Đầu ra = Năng suất x Đầu vào
Chỉ tiêu đầu ra có thể tính bằng các sản
phẩm hiện vật theo đơn vị tính tự nhiên như
vải tính bằng mét, thóc tính bằng tấn, nước
mắm tính bằng lít v.v hoặc tính bằng giá trị
như giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, doanh
thu, lợi nhuận. Chỉ tiêu đầu vào có thể biểu
hiện dưới dạng nguồn lực hoặc dưới dạng chi
phí và có thể chỉ tính riêng cho từng yếu tố
đầu vào hoặc tính tổng hợp chung cho nhiều
yếu tố đầu vào.
Nếu xét theo phạm vi tính toán của yếu
tố đầu vào sẽ có năng suất bộ phận (bằng
chỉ tiêu đầu ra là kết quả sản xuất chia cho
từng bộ phận của yếu tố đầu vào như chi phí
vật chất, vốn sản xuất, lao động v.v...) và
năng suất tổng hợp chung (bằng chỉ tiêu đầu
ra là kết quả sản xuất chia cho tổng các yếu
tố đầu vào như chi phí vật chất cộng với chi
41
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
phí sử dụng lao động hoặc vốn
sản xuất cộng với số lượng lao
động v.v).
Nếu xét theo tính chất của
yếu tố đầu vào ta sẽ có năng
suất tính theo chi phí (bằng đầu
ra là kết quả sản xuất chia cho
các yếu tố đầu vào dưới dạng chi
phí như chi phí vật chất, chi phí
sử dụng lao động hoặc tổng chi
phí vật chất và lao động), và
năng suất tính theo nguồn lực
(bằng đầu ra là kết quả sản xuất
chia cho các yếu tố đầu vào dưới
dạng nguồn lực như vốn sản
xuất, lao động làm việc, máy
móc thiết bị, đất đai dùng trong
sản xuất). Năng suất tính theo
nguồn lực cũng có thể tính riêng
cho từng loại nguồn lực riêng
biệt hoặc tổng hợp của hai hay
nhiều loại nguồn lực.
Như vậy, cứ một chỉ tiêu
đầu ra so sánh với một chỉ tiêu là
yếu tố đầu vào có liên quan sẽ
tính được một chỉ tiêu năng suất.
2. Các chỉ tiêu năng suất
trong nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành
kinh tế cụ thể trong hệ thống các
ngành tạo nên toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, do vậy việc tính
toán các chỉ tiêu năng suất trong
nông nghiệp cũng có những đặc
điểm chung giống như khi tính
năng suất chung của nền kinh tế
quốc dân. Bên cạnh đó hoạt
động sản xuất nông nghiệp lại có
những đặc điểm riêng (ở đây chỉ
nói đến những đặc điểm riêng
liên quan đến tính toán các chỉ tiêu năng suất).
Ngành sản xuất nông nghiệp có hai hoạt động chính
là trồng trọt và chăn nuôi. So với những ngành hoạt động
khác như công nghiệp, các ngành dịch vụ thì hoạt động
nông nghiệp, nhất là trồng trọt có đặc điểm là chủng loại
sản phẩm sản xuất ra ít hơn, thuần nhất hơn và dễ xác
định được ở phạm vi của yếu tố đầu vào trong quan hệ
với chỉ tiêu đầu ra do đầu vào tạo ra. Trong sản xuất
Nông nghiệp một số ngành có thể tính được các chỉ tiêu
năng suất mà chỉ tiêu đầu ra là sản phẩm hiện vật với
đơn vị tính tự nhiên. Tuy nhiên, Nông nghiệp thường có
trình độ hạch toán thấp hơn một số ngành khác, cho nên
có một số chỉ tiêu đầu vào và đầu ra khác phải yêu cầu
theo dõi, cập nhật thường xuyên để có cơ sở tính toán
năng suất thì lại bị hạn chế, chẳng hạn xác định các loại
chi phí, tính giá thành sản phẩm, tính toán lợi nhuận Có
thể phân chia năng suất trong nông nghiệp như sau:
2.1. Năng suất tính theo nguồn lực
Xét theo từng yếu tố nguồn lực, có thể chia thành
năng suất vốn; năng suất lao động; năng suất cây trồng;
năng suất thiết bị máy móc;
Năng suất vốn, vốn ở đây có thể là vốn sản xuất nói
chung gồm cả vốn cố định và vốn lưu động hoặc riêng
từng loại vốn cố định và vốn lưu động. Chỉ tiêu năng suất
vốn có thể tính cho ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi
hay chung cho cả nông nghiệp ở các cấp độ phạm vi
doanh nghiệp, tỉnh, thành phố hoặc chung cả nước.
Đơn vị tính: đồng/1000đ.
Năng suất lao động:
Đơn vị tính: triệu - 1000 đ/ng-TGLV. Thời gian làm
việc ở đây có thể là ngày công hoặc giờ công. Chỉ tiêu
NSLĐ có thể tính riêng cho từng ngành trồng trọt, ngành
42
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
chăn nuôi hay chung cho cả
Nông nghiệp ở các cấp độ:
doanh nghiệp (trang trại); tỉnh,
thành phố hoặc chung cả nước.
Năng suất cây trồng (tính
theo yếu tố đầu vào là diện tích)
- Năng suất cây trồng tính
bằng hiện vật:
Đơn vị tính: tạ - tấn/ha. Chỉ
tiêu này tính cho từng loại cây
trồng hàng năm như lúa, ngô
hoặc cây trồng lâu năm như vải,
cà phê ở các cấp độ: doanh
nghiệp (trang trại), tỉnh, thành
phố và chung cả nước.
- Năng suất cây trồng tính
bằng giá trị:
Đơn vị tính: Triệu đồng/ha.
Chỉ tiêu này áp dụng cho ngành
trồng trọt, nhưng trong một số
trường hợp trồng trọt có kết hợp
với chăn nuôi thì được tính cả giá
trị sản phẩm là vật nuôi như nuôi
gà, vịt, nuôi cá Chỉ tiêu năng
suất cây trồng tính theo giá trị có
thể tính ở các cấp độ: Doanh
nghiệp (trang trại), tỉnh, thành
phố và chung cả nước.
Năng suất thiết bị máy móc,
thường được tính bằng chỉ tiêu
đầu ra là kết quả sản xuất là chỉ
tiêu hiện vật và đầu vào là số
lượng hoặc thời gian làm việc
của máy móc, thiết bị.
Đơn vị tính: Đơn vị tự nhiên/máy, giờ máy. Chỉ tiêu
này áp dụng ở cấp độ doanh nghiệp (trang trại).
Lợi nhuận làm ra từ một đơn vị tiền vốn sản xuất:
Đơn vị tính: đồng/1000 đồng. Vốn sản xuất ở đây là
vốn cố định, vốn lưu động hoặc chung cả vốn cố định và
vốn lưu động bình quân năm. Chỉ tiêu này chủ yếu áp
dụng ở cấp độ doanh nghiệp (trang trại).
Lợi nhuận làm ra từ một đơn vị lao động
Đơn vị tính: Triệu đồng/người - TGLV. Lao động ở
đây có thể là người hoặc đơn vị thời gian lao động làm
việc như ngày công, giờ công Chỉ tiêu này áp dụng chủ
yếu ở cấp độ doanh nghiệp (trang trại).
*) Tính tổng hợp chung cho các loại nguồn lực
Do các yếu tố đầu vào có giá trị sử dụng cũng như
đơn vị tính khác nhau nên không thể tổng hợp bằng cách
cộng các yếu tố lại để tính mức năng suất tổng hợp
chung như tính mức năng suất cho từng yếu tố. Do vậy
đối với loại năng suất này chỉ tính tốc độ tăng năng suất
và được gọi là tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng
hợp (viết tắt tiếng Anh là TFP).
Công thức khái quát tính tốc độ tăng năng suất các
nhân tố tổng hợp (ở đây không trình bày theo văn bản
mà giới thiệu khái quát cho dễ hiểu) như sau:
Tốc độ
tăng TFP
=
Tốc độ tăng
kết quả sản
xuất
-
Tốc độ tăng kết quả
sản xuất do tăng
các yếu tố đầu vào
43
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
Trong nông nghiệp tốc độ
tăng TFP (về mặt lý thuyết) có
thể tính cho cấp độ toàn ngành
Nông nghiệp hoặc từng ngành cụ
thể như trồng trọt, chăn nuôi ở
các cấp độ tỉnh, thành phố hoặc
phạm vi toàn quốc và ở cấp độ
từng doanh nghiệp.
2.2. Tính năng suất theo
chi phí
Năng suất tính theo chi phí
nghĩa là yếu tố đầu vào là toàn
bộ chi phí được kết chuyển vào
sản phẩm để tạo ra sản phẩm
đó. Chi phí được tính bằng giá
trị. Do đó các chỉ tiêu đầu ra
cũng được tính bằng giá trị (lưu
ý là sản phẩm đầu ra và chi phí
đầu vào phải được tính theo
cùng một thời giá và thường
cùng là giá thực tế).
*) Tính theo từng yếu tố chi
phí
Giá trị tăng thêm làm ra từ
một đơn vị chi phí vật chất:
Đơn vị tính: đồng/1000đ.
Chỉ tiêu này có thể tính cho toàn
ngành nông nghiệp hoặc từng
ngành cụ thể như trồng trọt,
chăn nuôi ở các cấp độ doanh
nghiệp (trang trại) hoặc mỗi tỉnh,
thành phố hoặc toàn quốc.
Giá trị tăng thêm làm ra từ
một đơn vị chi phí lao động:
Đơn vị tính: đồng/1000 đ. Chỉ tiêu này có thể áp
dụng cho toàn ngành nông nghiệp hoặc riêng ngành
trồng trọt và chăn nuôi ở các cấp độ doanh nghiệp (trang
trại) hoặc mỗi tỉnh, thành phố và chung cả nước.
Lợi nhuận làm ra từ một đơn vị chi phí vật chất:
Đơn vị tính: đồng/1000 đ. Chỉ tiêu này có thể áp
dụng cho toàn ngành nông nghiệp hoặc riêng ngành
trồng trọt và chăn nuôi ở các cấp độ doanh nghiệp (trang
trại) hoặc mỗi tỉnh, thành phố và chung cả nước.
Lợi nhuận làm ra từ một đơn vị chi phí lao động:
Đơn vị tính: đồng/1000 đ. Chỉ tiêu này có thể áp
dụng cho toàn ngành nông nghiệp hoặc riêng ngành
trồng trọt và chăn nuôi ở các cấp độ doanh nghiệp (trang
trại) hoặc mỗi tỉnh, thành phố và chung cả nước.
*) Tính theo tổng các yếu tố chi phí
Giá trị sản xuất làm ra từ một đơn vị chi phí
Đơn vị tính: đồng/1000 đ. Chỉ tiêu này được áp
dụng tính toán cho toàn ngành nông nghiệp hoặc riêng
ngành trồng trọt và chăn nuôi ở các cấp độ doanh nghiệp
(trang trại) hoặc mỗi tỉnh, thành phố và chung cả nước.
Giá trị tăng thêm làm ra từ một đơn vị chi phí:
Đơn vị tính: đồng/1000đ. Chỉ tiêu này áp dụng tính
toán cho toàn ngành nông nghiệp hoặc riêng ngành trồng
trọt và chăn nuôi ở các cấp độ doanh nghiệp (trang trại)
hoặc mỗi tỉnh, thành phố và chung cả nước.
Lợi nhuận làm ra từ một đơn vị chi phí
44
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
Đơn vị tính: đồng/1000đ.
Chỉ tiêu này được áp dụng tính
toán cho toàn nông nghiệp hoặc
riêng ngành trồng trọt và chăn
nuôi ở các cấp độ doanh nghiệp
(trang trại) hoặc mỗi tỉnh, thành
phố và chung cả nước.
3. Thực tế tính toán
năng suất trong nông nghiệp
ở Việt Nam
Theo quy định trong hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia;
hệ thống chỉ tiêu thống kê tỉnh,
huyện, xã; hệ thống chỉ tiêu
thống kê ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn và một số
hệ thống chỉ tiêu thống kê khác
thì trong hoạt động nông nghiệp
hiện nay có các chỉ tiêu năng
suất sau đây:
3.1. Chỉ tiêu năng suất
một số cây trồng chủ yếu (chỉ
tiêu số 80 mã số 0803 thuộc hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia
ban hành năm 2016)
Chỉ tiêu năng suất cây trồng
chủ yếu nói lên một đơn vị diện
tích gieo trồng hoặc thu hoạch
làm ra bao nhiêu sản phẩm tính
bằng đơn vị hiện vật. Công thức
tính năng suất cây trồng có sự
khác nhau giữa cây hàng năm và
cây lâu năm.
Đối với cây hàng năm có hai
loại năng suất: (i) Năng suất gieo
trồng là năng suất tính cho toàn
bộ diện tích gieo trồng gồm cả
diện tích mất trắng; (ii) Năng
suất thu hoạch là năng suất chỉ tính trên diện tích thu
hoạch không bao gồm diện tích mất trắng.
Đối với cây lâu năm chỉ tính năng suất đối với những
diện tích cho sản phẩm bất kể trong vụ, năm đó có cho
sản phẩm hay không (còn gọi là diện tích đã đưa vào sản
xuất kinh doanh), không bao gồm diện tích trồng mới,
diện tích đang trong thời kỳ kiến thiết cơ bản chưa đưa
vào sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu năng suất một số cây trồng chủ yếu được
tính cho từng loại cây trồng hàng năm như năng suất lúa
cả năm và năng suất lúa từng vụ), năng suất ngô, năng
suất khoai (khoai lang), năng suất sắn, năng suất mía,
năng suất bông và tính cho từng loại cây trồng lâu năm
như năng suất cà phê, năng suất hạt tiêu, năng suất hạt
điều Năng suất các cây trồng chủ yếu ở phạm vi toàn
quốc đều có phân tổ theo các tỉnh, thành phố và ở phạm
vi các tỉnh, thành phố đều có phân tổ theo huyện, thị.
Như vậy số liệu về chỉ tiêu năng suất một số cây trồng
chủ yếu tính bằng đơn vị hiện vật có được ở 3 cấp độ:
toàn quốc, tỉnh/thành phố và huyện. Trong Niên giám
Thống kê của Tổng cục Thống kê cũng như Niên giám
Thống kê của các Cục Thống kê tỉnh, thành phố đã tính
toán và công bố số liệu về năng suất các cây trồng hàng
năm như lúa, khoai, sắn ở phạm vi toàn quốc cũng như
các tỉnh, thành phố; và trong Niên giám Thống kê của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngoài năng suất
các cây trồng hàng năm còn tính toán và công bố số liệu
về năng suất một số loại loại cây trồng lâu năm như năng
suất cà phê, năng suất hạt tiêu, năng suất hạt điều, năng
suất ch búp tươi trong đó có cả năng suất các cây ăn
quả như thanh long
3.2. Chỉ tiêu giá trị sản phẩm thu hoạch trên
một ha đất trồng trọt và nuôi trồng thủy sản (chỉ
tiêu mã số 0601 thuộc hệ thống chỉ tiêu ngành Kế hoạch
và Đầu tư).
Chỉ tiêu giá trị sản phẩm thu hoạch trên một ha đất
trồng trọt và nuôi trồng thủy sản (viết gọn là chỉ tiêu giá
trị sản phẩm thu hoạch trên một ha sử dụng) nói lên một
đơn vị diện tích trồng trọt và nuôi trồng thủy sản đã tạo
ra bao nhiêu đồng giá trị sản phẩm và đây là chỉ tiêu
năng suất phản ánh hiệu quả tổng hợp các loại sản phẩm
của việc sử dụng đất.
45
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
Chỉ tiêu giá trị sản phẩm thu
hoạch trên một ha sử dụng có
thể áp dụng cho sản xuất kết
hợp trồng trọt với nuôi trồng
thủy sản hoặc riêng cho từng
hoạt động trồng trọt (kể cả cây
trồng hàng năm và cây trồng lâu
năm) hay riêng cho hoạt động
nuôi trồng thủy sản.
Chỉ tiêu giá trị sản phẩm thu
hoạch trên một ha đất trồng trọt
và mặt nước nuôi trồng thủy sản
đã được tính toán và công bố
trên Niên giám Thống kê của
Tổng cục Thống kê và Niên giám
Thống kê của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn hàng năm.
3.3. Chỉ tiêu năng suất
lao động xã hội
Chỉ tiêu năng suất lao động
xã hội nói lên 1 đơn vị lao động
đã làm ra bao nhiêu đơn vị tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) đối với
toàn quốc và đơn vị tổng sản
phẩm trên địa bàn tỉnh, thành
phố (GRDP). Đây là chỉ tiêu năng
suất phản ánh hiệu quả sử dụng
lao động sống. Do tử số của chỉ
tiêu năng suất được tính bằng
tiền nên đã phản ánh một cách
tổng hợp và khái quát kết quả
làm ra từ một đơn vị lao động.
Chỉ tiêu năng suất lao động
xã hội được phân tổ và tính toán
cho các ngành kinh tế cấp I,
trong đó có ngành Nông - Lâm
nghiệp - Thủy sản (còn gọi là
khu vực kinh tế Nông - Lâm
nghiệp - Thủy sản). Hàng năm,
chỉ tiêu năng suất lao động xã
hội trên đây theo giá thực tế và
và phân tổ đến ngành tế cấp I
(ngành Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản) được Tổng cục
Thống kê tính toán trên phạm vi toàn quốc và các Cục
Thống kê tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tính toán
trên phạm vi tỉnh, thành phố và công bố đều đặn trên
Niên giám Thống kê hàng năm. Tuy nhiên chỉ tiêu năng
suất lao động xã hội nếu có tính toán và phân tổ theo
ngành kinh tế thì đó mới là tính năng suất lao động đến
ngành kinh tế cấp I (chung cho cả ngành hay khu vực
Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản) chứ chưa có số liệu để tính
năng suất lao động riêng cho từng ngành Nông nghiệp.
3.4. Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp
Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) là
chỉ tiêu năng suất phản ánh khái quát và đích thực về
hiệu quả sử dụng vốn và lao động; Đây cũng là chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng và phát
triển bền vững. Theo quy định của Tổng cục Thống kê,
chỉ tiêu Tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ
tính chung cho toàn nền kinh tế ở phạm vi quốc gia,
nhưng có yêu cầu phân tổ theo ngành kinh tế cấp I,
trong đó có ngành (còn gọi là khu vực kinh tế) Nông -
Lâm nghiệp - Thủy sản (xem chỉ tiêu 8.2.2 “Tốc độ tăng
năng suất các nhân tố tổng hợp” thuộc mục tiêu 8 trong
bộ chỉ tiêu phát triển bền vững của Việt Nam do Tổng cục
Thống kê ban hành đầu năm 2019). Như vậy tốc độ tăng
năng suất các nhân tố tổng hợp cũng như chỉ tiêu năng
suất lao động xã hội (đã nói ở trên) mới chỉ yêu cầu tính
đến ngành kinh tế cấp I (tính chung cho khu vực Nông -
Lâm nghiệp - Thủy sản) chứ chưa yêu cầu tính đến
ngành kinh tế cấp II, tức là tính đến nông nghiệp.
Khác với năng suất lao động, chỉ tiêu tốc độ tăng
năng suất các nhân tố tổng hợp có phương pháp tính và
quá trình xử lý số liệu phức tạp hơn nhiều. Chính vì vậy
mặc dù chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng
hợp đã có trong hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia gần
10 năm lại đây, nhưng cho đến nay Tổng cục Thống kê
vẫn chưa tính toán được chỉ tiêu này một cách thường
xuyên và công bố định kỳ trên Niên giám Thống kê hàng
năm của Tổng cục. Thực tế Tổng cục Thống kê đã có tính
toán tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp, nhưng
chỉ thực hiện khi có yêu cầu thật cần thiết và mới tính
chung cho toàn nền kinh tế.
46
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
3.5. Tỷ trọng (tỷ phần)
đóng góp của các yếu tố vốn,
lao động và năng suất các
nhân tố tổng hợp vào tốc độ
tăng trưởng chung
Đây là chỉ tiêu đi k m chỉ
tiêu TFP và được tính toán trên
cơ sở số liệu đã có từ kết quả
tính toán chỉ tiêu TFP. Vì vậy, chỉ
tiêu TFP tính được ở phạm vi cụ
thể đến đâu, thì chỉ tiêu tỷ trọng
đóng góp của các yếu tố vốn, lao
động và năng suất các nhân tố
tổng hợp vào tốc độ tăng trưởng
chung cũng được tính toán ở
phạm vi cụ thể đến đó (thực tế
khi công bố số liệu về tốc độ
tăng TFP thì cũng công bố kết
quả tỷ trọng đóng góp của các
yếu tố vốn, lao động và tăng TFP
vào tốc độ tăng trưởng chung).
Ngoài những chỉ tiêu năng
suất theo quy định của Nhà nước
đối với các cấp, các ngành nhất
thiết phải tính toán và công bố
định kỳ hàng năm như đã trình
bày ở trên, thì trong thực tế tùy
thuộc vào điều kiện số liệu đã có
hoặc khai thác, tổng hợp từ các
cuộc điều tra Thống kê như Tổng
điều tra Nông thôn, nông nghiệp
và thủy sản (do Tổng cục Thống
kê tiến hành 5 năm 1 lần) hay
một số cuộc điều tra thống kê
khác như điều tra thực trạng và
hiệu quả sản xuất ngành Trồng
trọt, điều tra thực trạng hoạt
động của các loại hình tổ chức
sản xuất trong nông nghiệp (do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tiến hành) mà các cơ
quan chức năng hoặc nhà nghiên
cứu, cán bộ hoạt động thực tiễn
tiến hành tính toán các chỉ tiêu năng suất như năng suất
lao động, năng suất vốn, lợi nhuận làm ra từ một đồng
vốn sản xuất, lợi nhuận làm ra từ một đồng chi phí sản
xuất phục vụ cho yêu cầu đánh giá phân tích kết quả
điều tra hoặc yêu cầu khác một cách riêng biệt.
4. Một số đề xuất về tính toán chỉ tiêu năng
suất trong nông nghiệp Việt Nam
Từ thực trạng nói trên, cần tăng cường tính toán và
đưa vào áp dụng các chỉ tiêu năng suất cho nông nghiệp
có 2 mức độ.
Thứ nhất, bắt buộc phải tính toán các chỉ tiêu năng
suất bổ sung thêm, đặc biệt là chỉ tiêu năng suất lao
động. Hiện nay, toàn nền kinh tế Việt Nam có chỉ tiêu
năng suất lao động xã hội. Khi tính chỉ tiêu này có yêu
cầu phân tổ theo ngành cấp I, trong đó có tính cho
ngành (khu vực kinh tế) Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản,
nhưng chưa có tính cho đến ngành cấp II là riêng Nông
nghiệp, Lâm nghiệp hay Thủy sản.
Thứ hai, bổ sung thêm các chỉ tiêu năng suất có tính
chất hướng dẫn áp dụng
Các chỉ tiêu năng suất lao động có thể tính toán và
áp dụng đến các ngành trồng trọt và chăn nuôi cũng như
áp dụng trực tiếp cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên để áp
dụng được chỉ tiêu này đến cấp độ nào thì các cơ quan
chức năng phải có văn bản hướng dẫn cách xác định lao
động và nhất là tính toán chỉ tiêu giá trị tăng thêm để
tính NSLĐ vì hiện nay ở các doanh nghiệp cũng như các
ngành phân cấp nhỏ hơn (cấp III, cấp IV) chưa có quy
định tính toán chỉ tiêu giá trị tăng thêm.
Cùng với chỉ tiêu doanh thu thuần và lao động làm
việc có trong kết quả điều tra doanh nghiệp ở Niên giám
Thống kê của Tổng cục Thống kê còn có số liệu về vốn
sản xuất kinh doanh, lợi nhuận trước thuế, thu nhập của
người lao động của các doanh nghiệp được tổng hợp
riêng cho ngành Nông nghiệp và các hoạt động dịch vụ
liên quan. Nguồn số liệu này có thể xử lý để tính toán các
chỉ tiêu năng suất vốn tính bằng giá trị tăng thêm, lợi
nhuận làm ra từ một đơn vị vốn sản xuất, lợi nhuận làm
ra từ một đơn vị chi phí về lao động
Trong kết quả điều tra “Thực trạng và hiệu quả sản
xuất ngành Trồng trọt” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển
47
Hướng tới kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập ngành Thống kê và 45 năm Ngày thành lập Viện Khoa học Thống kê
nông thôn thực hiện có các chỉ
tiêu doanh thu, lao động làm
việc, diện tích từng cây, chi phí
sản xuất (gồm chi phí vật chất,
chi phí dịch vụ và chi phí lao
động) cho từng loại cây trồng.
Số liệu đó cho phép tính toán các
chỉ tiêu năng suất như năng suất
lao động, năng suất cây trồng,
năng suất tính theo từng loại chi
phí riêng biệt và tổng hợp chung
về chi phí, lợi nhuận làm ra từ 1
đồng chi phí cho từng loại cây
trồng được điều tra. Tuy nhiên
để tính toán các chỉ tiêu năng
suất nói trên cho từng loại cây,
nhất là tổng hợp cho nhiều loại
cây trồng để đặc trưng chung
cho ngành trồng trọt thì phải có
số liệu về một số chỉ tiêu liên
quan ở tổng thể chung để làm
quyền số tính toán vì số liệu ở
trên thu được là kết quả của điều
tra chọn mẫu.
Theo kết quả Tổng điều tra
Nông thôn, nông nghiệp và thủy
sản ở khu vực doanh nghiệp và
hợp tác xã Nông nghiệp có thu
thập và tổng hợp các chi tiêu về
doanh thu thuần, lợi nhuận trước
thuế, nguồn vốn sản xuất và lao
động làm việc Trên cơ sở các
chỉ tiêu đó có thể tính toán được
các chỉ tiêu năng suất vốn, năng
suất lao động tính bằng giá trị
tăng thêm, lợi nhuận làm ra từ
nghìn đồng tiền vốn cho riêng
khu vực doanh nghiệp hoặc hợp
tác xã hay chung cho cả hai khu
vực này. Riêng ở trang trại có thể
tính toán được chỉ tiêu năng suất
lao động.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, các cơ quan
chức năng cần nghiên cứu để lựa chọn các chỉ tiêu năng
suất cần thiết và gọi là “các chỉ tiêu năng suất hướng
dẫn”, có giải thích rõ về nội dung, phương pháp tính, ý
nghĩa của từng chỉ tiêu, chỉ rõ nguồn thông tin, cách khai
thác và xử lý số liệu để tính toán cũng như điều kiện áp
dụng của mỗi chỉ tiêu năng suất đó để những cơ quan
thực tế, những người dùng tin có cơ sở để áp dụng tính
toán các chỉ tiêu này một cách thống thống nhất, bảo
đảm tính so sánh khi có yêu cầu.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2016), Nghị định số 97/2016/NĐ-CP
quy định nội dung chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ
tiêu thống kê quốc gia, ngày 01/07/2016;
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010),
Quyết định số 3201/QĐ/BNN-KH ban hành hệ thống chỉ
tiêu thống kê ngành Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, ngày 26/11/2010;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2017), Thông tư số
05/2017/TT-BKHĐT ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê
ngành Kế hoạch và Đầu tư, ngày 30/11/2017;
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Thông tư số
03/2019/TT-BKHĐT ban hành Bộ chỉ tiêu thống kê phát
triển bền vững của Việt Nam, ngày 22/01/2019;
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thông (2018),
Báo cáo kết quả điều tra thực trạng và hiệu quả sản xuất
ngành Trồng trọt;
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2019),
Báo cáo kết quả điều tra thực trạng hoạt động của các
loại hình tổ chức sản xuất trong Nông nghiệp;
7. Tổng cục Thống kê (2018), Báo cáo Tổng điều tra
Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản, NXB Thống kê
năm 2018;
8. Tổng cục Thống kê (1998), Báo cáo tóm tắt kết
quả nghiên cứu của đề tài khoa học “Nghiên cứu và áp
dụng các chỉ tiêu năng suất”;
9. Tăng Văn Khiên (2018), Tốc độ tăng năng suất
các nhân tố tổng hợp - Phương pháp tính và ứng dụng,
NXB Thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_chi_tieu_nang_suat_trong_nong_nghiep_o_viet_nam.pdf