Chương này trình bày về các công cụ tài chính phái sinh có thể sử dụng như là những công cụ quản lý rủi ro tài chính. Học xong chương này sinh viên có thể: · Hiểu được khái niệm và những tính chất của từng công cụ phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng giao sau và hợp đồng quyền chọn.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2030 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các công cụ tài chính phái sinh - Công cụ quản lý rủi ro tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2 :
CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH – CÔNG CỤ QUẢN LÝ RỦI RO TÀI CHÍNH
MỤC TIÊU
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH
CÁC CÔNG CỤ PHÁI SINH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
CÂU HỎI ÔN TẬP
BÀI TẬP THỰC HÀNH
BÀI TẬP TỰ RÈN LUYỆN
MỤC TIÊU
Chương này trình bày về các công cụ tài chính phái sinh có thể sử dụng như là những công cụ quản lý rủi ro tài chính. Học xong chương này sinh viên có thể:
Hiểu được khái niệm và những tính chất của từng công cụ phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng giao sau và hợp đồng quyền chọn.
Biết được mục tiêu và công dụng của từng loại hợp đồng tài chính phái sinh.
Biết phân biệt sự khác nhau và ưu nhược điểm của từng loại công cụ tài chính phái sinh.
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH
Hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau
Định nghĩa
Về cơ bản, hai loại hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau đều là hợp đồng mua hay bán một số lượng nhất định đơn vị tài sản cơ sở ở một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày thanh toán hợp đồng hay ngày đáo hạn. Thời gian từ khi ký hợp đồng đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của hợp đồng. Giá xác định áp dụng trong ngày thanh toán hợp đồng gọi là giá kỳ hạn (nếu là hợp đồng kỳ hạn) hay giá tương lai (nếu là hợp đồng giao sau).
Tại thời điểm ký kết hợp đồng kỳ hạn, không hề có sự trao đổi tài sản cơ sở hay thanh toán tiền. Hoạt động thanh toán xảy ra trong tương lai tại thời điểm xác định trong hợp đồng. Vào lúc đó, hai bên thoả thuận hợp đồng buộc phải thực hiện nghĩa vụ mua bán theo mức giá đã xác định, bất chấp giá thị trường lúc đó là bao nhiêu đi nữa.
Ví dụ 1: Minh họa hợp đồng kỳ hạn
Vào ngày 1/09, A ký hợp đồng kỳ hạn mua của B 10 tấn cà phê kỳ hạn 3 tháng (tức là vào ngày 1/12) với giá 925USD/tấn. B được gọi là người bán trong hợp đồng kỳ hạn, A là người mua trong hợp đồng kỳ hạn. Sau 3 tháng B phải bán cho A 10 tấn cà phê với giá 925USD/tấn và A phải mua 10 tấn cà phê của B với giá đó, cho dù giá cà phê trên thị trường sau ba tháng là bao nhiêu đi nữa.
Thỏa thuận mua bán theo hợp đồng kỳ hạn thực ra phát sinh rất nhiều trong đời sống kinh tế hàng ngày. Tuy nhiên, những dạng thỏa thuận như vậy chỉ là hợp đồng giao dịch không chính thức chứ chưa thực sự hình thành thị trường hay sở giao dịch tập trung.
Phân biệt giữa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau
Có thể nói hợp đồng giao sau là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa về loại tài sản cơ sở mua bán, số lượng các đơn vị tài sản cơ sở mua bán, thể thức thanh toán, và kỳ hạn giao dịch. Hợp đồng kỳ hạn không được chuẩn hóa, các chi tiết của hợp đồng do hai bên đàm phán và thoả thuận cụ thể. Một số điểm khác biệt cơ bản giữa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau có thể liệt kê như sau:
Hợp đồng giao sau được thỏa thuận và mua bán thông qua người môi giới. Hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên của hợp đồng.
Hợp đồng giao sau được mua bán trên thị trường tập trung. Hợp đồng kỳ hạn trên thị trường phi tập trung.
Hợp đồng giao sau được tính hàng ngày theo giá thị trường (marking to market). Hợp đồng kỳ hạn được thanh toán vào ngày đáo hạn.
Cơ chế mua bán hợp đồng giao sau
Như đã trình bày ở trên, hợp đồng kỳ hạn được thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên của hợp đồng. Điều này không đúng đối với các hợp đồng giao sau. Nhà đầu tư muốn mua hay bán hợp đồng giao sau sẽ liên lạc với công ty môi giới. Công ty môi giới sẽ chỉ thị cho người mua bán trên sàn giao dịch thực hiện lệnh mua hay bán hợp đồng giao sau.
Mua HĐ giao sau
Công ty thanh toán bù trừ
Bán HĐ giao sau
Tiền
Tiền
Tài sản cơ sở
Tài sản cơ sở
Hoạt động giao dịch được thực hiện thông qua một tổ chức trung gian gọi là công ty thanh toán bù trừ (clearing house) theo sơ đồ sau:
Đối với hợp đồng kỳ hạn, mọi khoản lãi hay lỗ của hợp đồng đều được thanh toán vào lúc đáo hạn. Ngược lại, đối với hợp đồng giao sau, các khoản lãi hay lỗ được tính hàng ngày và ghi có hay ghi nợ vào tài khoản bảo chứng của các bên mua/bán hợp đồng, theo sự biến động của giá tương lai (marking to market daily). Việc tính toán này là để loại trừ một phần rủi ro cho công ty thanh toán bù trừ trong trường hợp một bên của hợp đồng không có khả năng thanh toán khi đáo hạn.
Ví dụ 2: Minh họa giao dịch hợp đồng giao sau
Vào ngày 28/2, A ký một hợp đồng giao sau mua 100 cổ phiếu XYZ với giá tương lai là F0 = 80.000đ/cổ phiếu. Để hạn chế rủi ro, Sở giao dịch yêu cầu khi ký hợp đồng, A phải ký quỹ một khoản tiền trong tài khoản bảo chứng tại công ty thanh toán bù trừ. Ví dụ, mức bảo chứng (margin) là 1 triệu đồng. Sau mỗi ngày, nếu có lãi, thì khoản lãi sẽ được cộng vào tài khoản; còn nếu lỗ thì cũng sẽ bị trừ vào tài khoản. Nếu giá trị trong tài khoản bảo chứng giảm xuống tới một mức giới hạn, ví dụ là 0,8 triệu đồng, gọi là mức bảo chứng duy trì (maintenance margin) thì nhà đầu tư sẽ được yêu cầu ký quỹ thêm tiền cho đạt mức bảo chứng 1 triệu đồng ban đầu, còn nếu không thì công ty bảo chứng sẽ “đóng” toàn bộ hay một phần giá trị hợp đồng giao sau của nhà đầu tư để đảm bảo mức bảo chứng được thỏa mãn.
Hàng ngày, trong thời hạn hợp đồng, công ty thanh toán bù trừ sẽ ghi nhận giá cổ phiếu trên thị trường so với giá hôm trước xem A lãi hay lỗ để tiến hành ghi nợ hoặc ghi có vào tài khoản bảo chứng. Công việc này gọi là “mark to market”. Chẳng hạn trong ví dụ trên đây, tùy theo tình hình giá cổ phiếu XYZ trên thị trường, công ty thanh toán bù trừ thực hiện ghi nhận giá cả và thanh toán trên tài khoản bảo chứng của A như sau:
Ví dụ 2: Minh họa giao dịch hợp đồng tương lai (tt)
Ngày
Giá cổ phiếu XYZ
Lời (lỗ) hàng ngày
Giá trị trong t/k bảo chứng
28/2
80.000
1.000.000 đồng
1/3
89.000
100(89000 – 80.000)
1.900.000
2/3
90.000
100(90.000 – 89.000)
2.000.000
3/3
80.000
100(80.000 – 90.000)
1.000.000
4/3
77.000
100(77.000 – 80.000)
700.000
Giá trị xuống dưới 0,8 triệu đồng; ký quỹ thêm 300.000 đồng để đạt 1 triệu đồng
5/3
70.000
100(70.000 – 77000)
300.000
Giá trị xuống dưới 0,8 triệu đồng; ký quỹ thêm 700.000 đồng để đạt 1 triệu đồng
6/3
77.800
100(77.800 – 70.000)
1.780.000
7/3
77.600
100(77.600 – 77.800)
1.760.000
8/3
78.200
100(78.200 – 77.600)
1.820.000
9/3
88.600
100(88.600 – 78.200)
2.860.000
10/3
98.400
100(98.400 – 88.600)
3.840.000
...
Giá trị nhận được của hai bên trong hợp đồng giao sau
F
Giá tài sản cơ sở khi đáo hạn
Giá trị người mua nhận được
ST
ST-F
Người mua trong hợp đồng giao sau phải mua tài sản cơ sở với mức giá xác định trong tương lai và sẽ được lợi nếu giá tài sản trên thị trường tăng lên. Người bán trong hợp đồng giao sau phải bán tài sản cơ sở với mức giá xác định trong tương lai và sẽ được lợi nếu giá tài sản trên thị trường giảm xuống. Giả sử X là người mua và Y là người bán trong hợp đồng giao sau. Theo hợp đồng, X phải mua 1 đơn vị tài sản cơ sở (ví dụ là 1kg gạo) với giá tương lai F (5.000đ) vào thời điểm đáo hạn T (sau 3 tháng).
Giá trị nhận được đối với người mua (X):
Sau 3 tháng, khi hợp đồng đáo hạn, giá gạo trên thị trường là ST. Theo hợp đồng, X phải mua gạo với giá F. X có thể bán gạo ra thị trường với ST. Giá trị X nhận được là (ST – F), được biểu diễn bởi đường 450 đi lên ở hình bên. Nếu ST>F, X được lợi từ hợp đồng; nếu ST<F, X bị lỗ từ hợp đồng.
Ví dụ, ST=6.000đ. Theo hợp đồng giao sau, X mua 1 kg gạo với giá F=5.000đ. Ngay lập tức X có thể bán ra thị trường với giá 6.000đ, và thu về khoản lợi ròng của A là ST – F = 1.000đ. Ngược lại, nếu ST = 4.000đ, thì X vẫn phải mua 1 kg gạo với giá F=5.000đ do hợp đồng ràng buộc, trong khi mua ở thị trường thì chỉ mất 4000đ. Vậy, khoản lợi ròng của A là ST – F = -1.000đ, hay X bị lỗ 1.000đ.
F
Giá tài sản cơ sở khi đáo hạn
Giá trị người bán nhận được
ST
F-ST
Giá trị nhận được đối với người bán (Y):
Theo hợp đồng, Y phải bán 1kg gạo với giá F. Y có thể bán gạo ra thị trường với ST. Giá trị Y nhận được từ hợp đồng là (F - ST), được biểu diễn bởi đường 450 đi xuống ở hình bên. Nếu STF, Y bị lỗ từ hợp đồng.
Ví dụ, ST=4.000đ. Theo hợp đồng giao sau, Y phải bán 1 kg gạo với giá F=5.000đ. Để có được 1kg gạo này, Y có thể mua trên thị trường với giá ST=4.000đ. Bán lại với giá F=5.000đ, Y thu về khoản lợi ròng F - ST = 1.000đ. Ngược lại, nếu ST = 6.000đ, thì Y vẫn phải bán 1 kg gạo với giá F=5.000đ do hợp đồng ràng buộc, trong khi bán trên thị trường thì được tới 6.000đ. Vậy, khoản lợi ròng của Y là F - ST = -1.000đ, hay Y bị lỗ 1.000đ. Ta có thể thấy giá trị mà X và Y nhận được hoàn toàn đối xứng nhau.
Định giá hợp đồng giao sau
F
Giá tài sản cơ sở khi đáo hạn
Giá trị người mua nhận được
ST
ST-F
Nói một cách chặt chẽ thì cách tính toán giá trị nhận được của hai bên hợp đồng ở trên và cách định giá sau đây chỉ chính xác đối với hợp đồng kỳ hạn vì mọi thứ được thanh toán vào ngày đáo hạn. Tuy nhiên, để đơn giản ta giả sử rằng sự khác biệt giữa hai loại hợp đồng nay là không đáng kể.
Cũng giống như giá hiện hành của tài sản tài chính, giá tương lai cũng biến đổi theo thời gian. Trong ví dụ ở trên, vào thời điểm ký hợp đồng 1/09 giá tương lai của hợp đồng giao sau đáo hạn vào 1/12 là F = 5.000đ. Ta ký hiệu giá này là F0 = F = 5.000đ. Giả sử một tháng sau, vào 1/10 nếu ta cũng thiết lập một hợp đồng giao sau mua bán gạo đáo hạn vào đúng 1/12 thì giá tương lai sẽ là F1 = 5.500đ. Tức là vào mỗi thời điểm khác nhau, sẽ có những mức giá tương lai khác nhau cùng đáo hạn vào 1/12. Vấn đề là giá tương lai được xác định như thế nào?
Giá tương lai được xác định trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa giá tương lai (future price) và giá hiện hành (spot price) theo nguyên tắc là ở mức giá xác định thì không thể thu được lợi nhuận bằng cách kinh doanh dựa vào chênh lệch giá (principle of no arbitrage).
Giả sử giá tài sản cơ sở hiện hành là S0. Chúng ta đầu tư vào một danh mục chứng khoán như sau: vay S0 (đồng) với lãi suất rf; dùng số tiền này để mua tài sản cơ sở; đồng thời bán hợp đồng giao sau tài sản cơ sở với giá tương lai F0 và kỳ hạn bằng với kỳ hạn vay tiền (tức là vào lúc đáo hạn, ta phải bán tài sản cơ sở với giá F0, nhưng tại thời điểm này không hề có trao đổi tiền hay tài sản). Giả sử, trong thời gian từ nay đến khi hợp đồng giao sau đáo hạn, tài sản cơ sở tạo ra khoản lãi là D. (Ví dụ nếu tài sản cơ sở là cổ phiếu thì D là cổ tức cổ phiếu trả). Vào thời điểm đáo hạn, giá tài sản cơ sở trên thị trường là ST. (Dấu “-“ dùng để ám chỉ dòng tiền ra).
Dòng tiền đầu kỳ
Dòng tiền cuối kỳ
Vay S0
S0
- S0(1+rf)
Mua tài sản cơ sở với giá S0
- S0
ST + D
Bán HĐ giao sau tài sản cơ sở
F0 - ST
Cộng
0
F0 – S0(1+rf) + D
Lưu ý rằng chắc chắn ta nhận được số tiền cuối kỳ là [F0 – S0(1+rf) + D]. Nguyên tắc không thể thu lợi từ chênh lệch giá đưa đến kết luận là đầu kỳ ta bỏ ra 0 đồng thì cuối kỳ ta cũng nhận được 0 đồng. Tức là:
F0 – S0(1+rf) + D = 0 hay F0 = S0(1+rf) - D
Gọi d = D/S0 (tỷ lệ cổ tức), ta có: F0 = S0(1+rf –d)
Công thức tính giá tương lai ở trên được gọi là quan hệ chi phí lưu giữ tài sản tài chính bởi vì theo công thức này thì giá tương lai được xác định bởi chi phí của việc mua một tài sản tài chính nhưng được giao vào một thời điểm trong tương lai so với chi phí mua tài sản đó ngay lập tức rồi cất giữ cho đến thời điểm trong tương lai. Ở đây ta mới giả định là kỳ hạn bằng 1. Nếu hợp đồng giao sau có kỳ hạn T thì:
F0 = S0(1+rf –d)T
Suy ra, giá tương lai tại thời điểm t: Ft = St(1+rf –d)T-t. Đến khi đáo hạn, t=T và FT = ST.
Ví dụ minh họa định giá hợp đồng giao sau
Giả sử A ký một đồng giao sau với công ty thanh toán bù trừ là sau 1 năm sẽ mua 1 cổ phiếu công ty IBM với giá F0. Hiện tại, giá cổ phiếu IBM là S0 = 45 USD. Giả sử, trong năm cổ phiếu IBM trả cổ tức là D = 1 USD. (Để đơn giản, giả sử rằng cổ tức được trả vào cuối năm). Vấn đề đặt ra là làm thế nào A và công ty thanh toán bù trừ thỏa thuận và xác định được giá tương lai F0 (tức là giá mà 1 năm sau A sẽ mua 1 cổ phiếu IBM từ công ty thanh toán bù trừ). Liệu F0 bằng 45, 50 hay 55?
Giả sử có một cá nhân B thực hiện một chiến lược đầu tư như sau:
Ra ngân hàng vay 45 USD trong kỳ hạn 1 năm với lãi suất là rf = 5%/năm (giả sử rằng B rất có uy tín và có thể vay ngân hàng với lãi suất phi rủi ro rf).
Dùng số tiền 45 USD vay được để mua 1 cổ phiếu IBM (với giá S0 = 45 USD), rồi giữ cổ phiếu này trong một năm.
Ký một hợp đồng giao sau bán cổ phiếu IBM sau một năm với giá tương lai là F0. (Nhớ rằng khi ký hợp đồng, không có trao đổi tiền hay cổ phiếu. Việc trao đổi sẽ diễn ra vào lúc đáo hạn).
Sau 1 năm, B phải trả ngân hàng vốn vay gốc cộng với lãi vay là S0(1+rf) = 45*(1+5%) = 47,25 USD. B bán cổ phiếu IBM đang nắm giữ. Giả sử sau một năm, giá cổ phiếu IBM trên thị trường là S1 = 50 USD. Ta cũng biết B nhận được cổ tức D = 1 USD. Như vậy, B sẽ thu về S1 + D = 51 USD. Cách đây một năm, B ký hợp đồng giao sau là sẽ bán 1 cổ phiếu IBM với giá F0. Bây giờ, giá thị trường là S1 = 50 USD. Như vậy, lợi nhuận (hay lỗ) mà B thu được từ việc bán hợp đồng giao sau là: F0 - S1 = F0 - 50. Nhớ lại rằng giá trị nhận được khi đáo hạn của người mua trong HĐ tương lai là ST - F; còn giá trị nhận được khi đáo hạn của người bán trong HĐ tương lai là F - ST;
Ta tóm tắt các hoạt động đầu tư này của B trong bảng sau:
Hoạt động đầu tư
Dòng tiền đầu kỳ
Dòng tiền cuối kỳ
Vay S0 = $45 với lãi suất rf = 5%
+S0 = +45
-S0(1+rf) = -45*(1+5%) = -47,25
Mua cổ phiếu với giá S0 = $45, rồi bán đi sau 1 năm
-S0 = -45
S1 + D = 50 + 1 = +51
Ký hợp đồng giao sau bán 1 cổ phiếu IBM kỳ hạn 1 năm với giá giao sau F0
0
F0 - S1 = F0 - 50.
CỘNG
0
F0 - S0(1+rf) + D = F0 - 46,25
Như vậy, ban đầu B không phải bỏ ra đồng nào và sau một năm thu về F0 - S0(1+rf) + D = F0 - 46,25. Ta biết rằng khoản tiền (F0 - 46,25) nhận được là không có rủi ro vì mọi thông tin B đều đã biết (F0, rf, S0 và D). Nguyên tắc không thể kinh doanh thu lợi dựa vào chênh lệch giá cho biết số tiền B thu được vào cuối kỳ phải bằng 0. Tức là:
F0 - S0(1+rf) + D = F0 - 46,25 = 0 hay F0 = S0(1+rf) - D = 46,25 (USD)
Vào đầu kỳ, A phải ký hợp đồng giao sau với công ty thanh toán bù trừ tại mức giá giao sau F0 = 46,25 USD. Để hiểu rõ hơn, ta xét xem điều gì sẽ xảy ra nếu giá giao sau F0 không bằng 46,25 USD:
(i) Giả sử F0 > 46,25 USD, ví dụ F0 = 47 USD. Như vậy, nếu thực hiện chiến lược đầu tư như B thì vào cuối kỳ, B sẽ thu được số tiền là: F0 - S0(1+rf) + D = F0 - 46,25 = 0,75 USD. Nếu B tăng quy mô hoạt động đầu tư bằng cách vay 45 triệu USD, mua 1 triệu cổ phiếu IBM và ký 1 triệu hợp đồng giao sau bán cổ phiếu IBM sau 1 năm, thì số tiền B thu về sẽ là 0,75USD*1 triệu = 750.000 USD. Như vậy, B không bỏ ra đồng nào, và chắc chắn 1 năm sau sẽ thu về 750.000 USD. Điều này không thể xảy ra, vì mọi người sẽ cùng làm như B và sẽ có hàng loạt người ký hợp đồng giao sau bán cổ phiếu IBM sau 1 năm. Chúng ta biết rằng để làm như vậy thì phải có người đồng ý ký hợp đồng giao sau mua cổ phiếu IBM với giá tương lai F0 = 47 USD. Nhưng không ai dại gì ký hợp đồng giao sau mua cổ phiếu IBM, vì tất cả đều muốn thực hiện chiến lược đầu tư như B trong đó có việc ký hợp đồng giao sau bán cổ phiếu IBM để có thể thu lợi. Chênh lệch cung cầu về mua và bán hợp đồng giao sau (người bán nhiều hơn người mua) sẽ ngay lập tức kéo giá tương lai xuống. Và khi giá tương lai hạ xuống còn 46,25 USD thì sẽ không còn cơ hội thu lợi nhuận siêu ngạch như ở trên.
(ii) Giả sử F0 < 46,25 USD, ví dụ F0 = 46 USD. Trong trường hợp này, nếu thực hiện chiến lược đầu tư như B thì số tiền B thu được vào cuối kỳ sẽ là: F0 - S0(1+rf) + D = F0 - 46,25 = -0,25 (USD). Và như vậy thì B sẽ không bao giờ thực hiện một chiến lược như vậy.
Thay vào đó, một cá nhân C có thể đầu tư như sau:
Bán khống 1 cổ phiếu IBM. Tức là C đi mượn 1 cổ phiếu IBM (từ 1 công ty môi giới) và hứa trả lại sau 1 năm. Sau khi mượn, B bán ngay cổ phiếu này đi với giá S0 và thu về S0 = 45 USD.
Số tiền S0 nhận được từ việc bán cổ phiếu, C gửi ngay vào ngân hàng với lãi suất rf = 5% trong 1 năm (tức là C cho vay).
Đồng thời, C cũng ký một hợp đồng giao sau mua 1 cổ phiếu IBM sau 1 năm với giá tương lai là F0 = 46 USD (theo như giả định ở trên).
Sau một năm, C rút tiền trong ngân hàng ra được S0(1+rf) = 45*(1+5%) = 47,25 USD. C cũng phải đi mua cổ phiếu IBM và trả lại cổ phiếu đó cho công ty môi giới. Lúc này, giá cổ phiếu IBM là S1 = 50 USD nên C phải bỏ ra 50 USD để mua 1 cổ phiếu IBM. Nhưng ta biết rằng, trong 1 năm, IBM trả cổ tức là 1USD/1 cổ phiếu. Vì bán khống, tức là C mượn 1 cổ phiếu IBM, nên vào cuối kỳ, C cũng phải trả cho công ty môi giới khoản cổ tức D = 1 USD. Đối với hợp đồng giao sau, C là người mua nên khoản tiền C thu được từ hợp đồng giao sau sẽ là: (S1 - F0) = 50 - 46 = 4 USD. Ta tóm tắt các hoạt động đầu tư này của C trong bảng sau:
Hoạt động đầu tư
Dòng tiền đầu kỳ
Dòng tiền cuối kỳ
Bán khống 1 cổ phiếu IBM
S0 = 45
- S1 - D = - 50 - 1 = -51
Cho vay S0 = $45 với lãi suất rf = 5%
-S0 = -45
+S0(1+rf) = 45*(1+5%) = +47,25
Ký hợp đồng giao sau mua 1 cổ phiếu IBM kỳ hạn 1 năm với giá tương lai F0
0
S1 - F0 = 50 - 46 = 4.
CỘNG
0
-F0 + S0(1+rf) - D = + 0,25
Như vậy, ban đầu C không phải bỏ ra đồng nào và sau một năm chắc chắn thu về -F0 + S0(1+rf) - D = 0,25 (USD). Nếu C tăng quy mô hoạt động đầu tư bằng cách bán khống 1 triệu cổ phiếu IBM, rồi dùng tiền thu được là 45 triệu USD để gửi ngân hàng và ký 1 triệu hợp đồng giao sau mua cổ phiếu IBM sau 1 năm, thì số tiền C thu về sẽ là 0,25USD*1 triệu = 250.000 USD. Như vậy, lúc đầu C không bỏ ra đồng nào, và chắc chắn 1 năm sau sẽ thu về 250.000 USD. Điều này không thể xảy ra, vì mọi người sẽ cùng làm như C và sẽ có hàng loạt người ký hợp đồng giao sau mua cổ phiếu IBM sau 1 năm. Tương tư như trường hợp trên, để làm như vậy thì phải có người đồng ý ký hợp đồng giao sau bán cổ phiếu IBM với giá tương lai F0 = 46 USD. Nhưng không ai dại gì ký hợp đồng giao sau bán cổ phiếu IBM, vì tất cả đều muốn thực hiện chiến lược đầu tư như C trong đó bao gồm ký hợp đồng giao sau mua cổ phiếu IBM để có thể thu lợi. Chênh lệch cung cầu về mua bán hợp đồng giao sau (người mua nhiều hơn người bán) sẽ ngay lập tức đẩy giá tương lai lên. Và khi giá tương lai lên đến 46,25 USD thì sẽ không còn cơ hội thu lợi nhuận siêu ngạch như ở trên.
Trên đây chỉ khái quát một số khái niệm và kiến thức căn bản về hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau nhằm cung cấp nền tảng kiến thức thực hiện các giải pháp quản lý rủi ro sẽ trình bày trong các chương sau. Hai loại hợp đồng này tuy có nhiều điểm khác biệt như đã trình bày, song chúng đều có chung một điểm là cả hai đều là hợp đồng bắt buộc. Nghĩa là khi đáo hạn phải thực hiện bất chấp giá cả trên thị trường thế nào. Tính chất này, có khi gây ra trở ngại. Để tránh trở ngại này, phần tiếp theo chúng ta sẽ xem xét hợp đồng quyền chọn là loại hợp đồng không có tính bắt buộc.
Hợp đồng quyền chọn
Định nghĩa
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc, được mua hoặc được bán:
Một số lượng xác định các đơn vị tài sản cơ sở
Tại hay trước một thời điểm xác định trong tương lai
Với một mức giá xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
Tại thời điểm xác định trong tương lai, người mua quyền có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền mua (hay bán) tài sản cơ sở. Nếu người mua thực hiện quyền mua (hay bán), thì người bán quyền bắt buộc phải bán (hay mua) tài sản cơ sở. Thời điểm xác định trong tương lai gọi là ngày đáo hạn; thời gian từ khi ký hợp đồng quyền chọn đến ngày thanh toán gọi là kỳ hạn của quyền chọn. Mức giá xác định áp dụng trong ngày đáo hạn gọi là giá thực hiện (exercise price hay strike price).
Các loại quyền chọn
Quyền chọn cho phép được mua gọi là quyền chọn mua (call option), quyền chọn cho phép được bán gọi là quyền chọn bán (put option).
Quyền chọn mua trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, được mua một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
Quyền chọn bán trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không phải nghĩa vụ, được bán một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một thời điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
Đối với quyền chọn mua, ta có người mua quyền chọn mua và người bán quyền chọn mua. Đối với quyền chọn bán, ta cũng có người mua quyền chọn bán và người bán quyền chọn bán. Một cách phân loại khác là chia quyền chọn thành quyền chọn kiểu châu Âu (European options) và kiểu Mỹ (American options).
Quyền chọn kiểu châu Âu (mua hay chọn bán) là loại quyền chọn chỉ có thể được thực hiện vào ngày đáo hạn chứ không được thực hiện trước ngày đó.
Quyền chọn kiểu Mỹ (mua hay chọn bán) là loại quyền chọn có thể được thực hiện vào bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn.
Quyền chọn có thể được dựa vào các tài sản cơ sở như cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản. Nhưng nhìn chung nếu phân theo loại tài sản cơ sở thì có thể chia quyền chọn thành quyền chọn trên thị trường hàng hoá, quyền chọn trên thị trường tài chính và quyền chọn trên thị trường ngoại hối.
Ví dụ 3: Minh họa hợp đồng quyền chọn.
Ngày 1/3 ông X mua quyền chọn mua (kiểu Mỹ) 100 cổ phiếu IBM với giá thực hiện 50 USD, trong thời hạn 3 tháng, tức là đáo hạn vào 1/6. Trong suốt khoảng thời gian hiệu lực của hợp đồng (1/3 đến 1/6). Người mua (ông X) quyền chọn này có quyền mua 100 cổ phiếu IBM với giá 50 USD vào bất cứ thời điểm nào cho đến hết ngày 1/6, bất chấp giá thị trường của cổ phiếu IBM là bao nhiêu. Việc ông X có thực hiện (exercise) quyền chọn của mình hay không tùy thuộc vào quan hệ giữa giá thị trường cổ phiếu IBM và giá thực hiện.
Nếu giá thị trường lớn hơn giá thực hiện (>50USD) thì ông X thực hiện quyền chọn, mua 100 cổ phiếu IBM ở mức giá 50USD và bán lại ở mức giá thị trường và kiếm lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu bằng chênh lệch giữa giá thị trường và giá thực hiện.
Nếu giá thị trường không lớn hơn giá thực hiện thì ông X không thực hiện quyền chọn mà tiếp tục chờ xem giá trong tương lai như thế nào.
Quyền chọn có thể được mua bán trên thị trường tập trung (như Thị trường quyền chọn Chicago – CBOE, Thị trường HĐ tương lai quốc tế London – LIFFE, ...) hay các thị trường phi tập trung (OTC) trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp giữa hai bên không thông qua sở giao dịch.
Giá trị nhận được của quyền chọn mua vào lúc đáo hạn
Gọi T là thời điểm đáo hạn, ST là giá trị thị trường của tài sản cơ sở vào lúc đáo hạn, X là giá thực hiện và VT là giá trị nhận được của quyền chọn và lúc đáo hạn.
X
Giá trị nhậnđược
ST
ST - X
Mua quyền chọn mua:
Vào lúc đáo hạn, nếu thực hiện quyền, người mua sẽ mua tài sản cơ sở với giá X. Nếu mua trên thị trường, người mua sẽ trả với giá ST.
Trường hợp ST > X. Nếu thực hiện quyền người mua sẽ mua tài sản cơ sở với giá X, trong khi nếu ra thị trường thì phải mua với giá ST >X. Khoản lợi thu được là ST – X > 0. Như vậy, nếu ST > X, người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền và nhận được giá trị VT = ST - X.
Trường hợp ST <= X. Nếu thực hiện quyền, người mua sẽ mua tài sản cơ sở với giá X, trong khi hoàn toàn có thể ra thị trường để mua với giá ST < X. Như vậy, nếu ST <= X, người mua quyền chọn mua sẽ không thực hiện quyền và nhận được giá trị VT = 0.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người mua quyền chọn mua vào lúc đáo hạn là:
VT = max[(ST – X);0]
Giá trị nhận được này được biểu diễn bằng được ghấp khúc tô đậm trong hình trên.
Ví dụ: trong quyền chọn mua cổ phiếu IBM ở ví dụ 3, giá thực hiện X = 50 USD. Nếu vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 60 USD, thì người mua quyền sẽ được lợi. Anh ta thực hiện quyền và mua 1 cổ phiếu IBM với giá 50 USD. Nếu không có quyền, anh ta sẽ phải mua trên thị trường với giá 60 USD. Khoản lợi mà anh ta thu được bằng ST – X = 10 USD trên 1 cổ phiếu IBM. Ngược lại, giả sử vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 40 USD. Nếu thực hiện quyền, người nắm giữ quyền sẽ mua 1 cổ phiếu IBM với giá 50 USD, trong khi nếu mua trên thị trường thì chỉ phải trả giá 40 USD. Như vậy, người giữ quyền sẽ không thực hiện quyền và giá trị anh ta nhận được bằng 0.
Vào thời điểm đáo hạn hay trong bất cứ thời điểm nào khi quyền chọn còn hiệu lực, nếu giá tài sản cơ sở lớn hơn giá thực hiện (S>X), ta gọi quyền chọn mua là có lời (in-the-money); nếu giá tài sản cơ sở nhỏ hơn giá thực hiện (S<X), ta gọi quyền chọn mua là không có lời (out-of-the-money); còn nếu giá tài sản cơ sở bằng giá thực hiện (S=X), ta gọi quyền chọn mua là hòa tiền (at-the-money).
X
Giá trị nhậnđược
ST
X-ST
Bán quyền chọn mua:
Như đã trình bày, vào lúc đáo hạn, nếu ST > X thì người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền, tức là mua tài sản cơ sở. Trong trường hợp đó, người bán quyền chọn mua sẽ phải bán tài sản cơ sở cho người mua quyền ở mức giá X, trong khi lẽ ra có thể bán ra thị trường với giá ST. Người bán quyền chọn mua bị lỗ ST – X, hay nhận được giá trị VT = X – ST. Nếu ST <= X, người mua quyền chọn mua sẽ không thực hiện quyền và như vậy thì giá trị mà người bán quyền chọn mua nhận được là VT = 0.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người bán quyền chọn mua vào lúc đáo hạn là:
VT = min[(X - ST);0]
Giá trị nhận được này được biểu diễn bằng được ghấp khúc tô đậm trong hình trên.
Ví dụ: trong quyền chọn mua cổ phiếu IBM, nếu vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 60 USD, thì người mua quyền sẽ thực hiện quyền và được lợi 10USD/cổ phiếu. Ngược lại, người bán quyền sẽ bị thiệt 10 USD/cổ phiếu, do phải bán cho người mua với giá X=50 USD trong khi có thể bán ra thị trường với giá 60 USD. Còn nếu vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 40 USD, thì người mua sẽ không thực hiện quyền. Người bán quyền nhận được giá trị bằng 0.
Giá trị nhận được của quyền chọn bán vào lúc đáo hạn
X
Giá trị nhận được
ST
X-ST
Mua quyền chọn bán:
Vào lúc đáo hạn, nếu thực hiện quyền, người mua quyền chọn bán sẽ bán tài sản cơ sở với giá X. Còn nếu bán trên thị trường, thì mức giá là ST.
Trường hợp ST >= X. Nếu thực hiện quyền người mua quyền chọn bán sẽ bán tài sản cơ sở với giá X, trong khi nếu ra thị trường thì sẽ bán được với giá ST >=X. Như vậy, nếu ST >= X, người mua quyền chọn bán sẽ không thực quyền và nhận giá trị VT = 0.
Trường hợp ST < X. Nếu thực hiện quyền, người mua quyền chọn bán sẽ bán tài sản cơ sở với giá X, trong khi ra thị trường thì phải bán với giá ST < X. Như vậy, nếu ST < X, người mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền và nhận được giá trị VT = X - ST.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người mua quyền chọn bán vào lúc đáo hạn là:
VT = max[(X - ST);0]
Giá trị nhận được này được biểu diễn bằng được ghấp khúc tô đậm trong hình trên.
Ví dụ: Quyền chọn bán cổ phiếu IBM có giá thực hiện X = 50 USD. Nếu vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 60 USD, thì người mua quyền chọn bán sẽ không được lợi gì, vì nếu thực hiện quyền, anh ta sẽ bán 1 cổ phiếu IBM với giá 50 USD, trong khi có thể ra thị trường để bán với giá 60 USD. Như vậy, quyền sẽ không được thực hiện và giá trị nhận được bằng 0. Ngược lại, giả sử vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 40 USD. Nếu thực hiện quyền, người mua quyền chọn bán sẽ bán 1 cổ phiếu IBM với giá 50 USD, trong khi nếu bán trên thị trường thì chỉ có thể bán với giá 40 USD. Như vậy, người có quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền và khoản lợi anh ta nhận được là 10 USD.
Đối với quyền chọn bán, vào thời điểm đáo hạn hay trong bất cứ thời điểm nào khi quyền chọn còn giá trị, nếu giá tài sản cơ sở lớn hơn giá thực hiện (S>X), ta gọi quyền chọn bán là không có lời (out-of-the-money); nếu giá tài sản cơ sở nhỏ hơn giá thực hiện (S<X), ta gọi quyền chọn bán là có lời (in-the-money); còn nếu giá tài sản cơ sở bằng giá thực hiện (S=X), ta gọi quyền chọn bán là hòa tiền (at-the-money).
X
Giá trị nhận được
ST
ST-X
Bán quyền chọn bán:
Nếu ST >= X, ta biết rằng người mua quyền chọn bán sẽ không thực hiện quyền và người bán quyền chọn bán cũng nhận giá trị VT = 0.
Nếu ST<X, người mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền, và người bán quyền chọn bán sẽ buộc phải mua tài sản cơ sở với giá X trong khi lẽ ra có thể mua trên thị trường với giá ST. Vậy, nếu ST<X, người bán quyền chọn mua sẽ bị lỗ hay nhận được giá trị VT = ST - X.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người bán quyền chọn bán vào lúc đáo hạn là:
VT = min[(ST - X);0]
Giá trị nhận được này được biểu diễn bằng được ghấp khúc tô đậm trong hình trên.
Ví dụ: Quyền chọn bán cổ phiếu IBM có giá thực hiện X = 50 USD. Nếu vào ngày đáo hạn 1/6, giá cổ phiếu IBM là ST = 60 USD, thì người mua quyền chọn bán sẽ không thực hiện quyền và cả người mua lẫn người bán quyền chọn bán nhận được giá trị bằng 0. Nếu giá cổ phiếu IBM là ST = 40 USD vào ngày đáo hạn thì người mua quyền chọn bán chắc chắn sẽ thực hiện quyền và người bán quyền chọn bán phải mua tài sản cơ sở với giá 50 USD, trong khi có thể ra mua trên thị trường với giá 40 USD. Như vậy, người bán quyền chọn bán sẽ bị lỗ 10 USD.
Giá của quyền chọn
Trong các trường hợp trên, ta thấy giá trị mà người mua quyền (chọn mua hay chọn bán) nhận được (FT) không bao giờ có giá trị âm, tức là không bao giờ bị lỗ. Còn giá trị người bán quyền nhận được không bao giờ có giá trị dương, tức là không bao giờ có lời.
Điều này có vẻ như người mua quyền được lợi còn người bán quyền thì bị thiệt. Nhưng thực tế không phải như vậy. Vì quyền chọn là tài sản có giá trị đối với người nắm giữ nó nên để có được quyền, người mua quyền phải trả một khoản tiền (gọi là phí hay giá của quyền chọn) cho người bán quyền. Mức phí này được thanh toán ngay khi ký kết hợp đồng quyền chọn. (So sánh với hợp đồng giao sau?). Tính cả mức giá (C) này vào giá trị nhận được, thì 4 đồ thị ở trên sẽ có dạng như sau:
X
ST
Bán quyền chọn mua
X
ST
C(1+r)T
Mua quyền chọn mua
X
ST
Bán quyền chọn bán
X
ST
Mua quyền chọn bán
Giá của quyền chọn thay đổi phụ thuộc vào quan hệ giữa giá thị trường của tài sản cơ sở và giá thực hiện quyền chọn. Nhìn chúng các yếu tố tác động đến quan hệ giữa giá thị trường và giá thực hiện có thể tóm tắt như sau :
Yếu tố
Quyền chọn mua
Quyền chọn bán
Giá của tài sản cơ sở (S)
+
-
Giá thực hiện (X)
-
+
Thời gian (T-t)
+
+
Độ biến thiên của giá tài sản cơ sở (s)
+
+
Lãi suất phi rủi ro (rf)
+
-
+ tác động đồng biến.
- tác động nghịch biến.
Công thức định giá quyền chọn Black-Scholes
Công thức định giá quyền chọn trong trường hợp giá tài sản cơ sở biến đổi liên tục được xây dựng bởi Black, Scholes và Merton vào năm 1973. Giá C của một quyền chọn mua kiểu châu Âu được xác định bởi:
với
Ký hiệu:
C là giá quyền chọn
S là giá trị của tài sản cơ sở tại thời điểm xác định giá quyền chọn
X là giá thực hiện
r là lãi suất phi rủi ro (tính gộp liên tục trong 1 năm). (Nếu rf là lãi suất phi rủi ro trong 1 năm, ta có: .
s là độ lệch chuẩn của suất sinh lợi của tài sản cơ sở (suất sinh lợi tính gộp liên tục trong 1 năm)
t là khoảng thời gian từ thời điểm định giá quyền chọn cho tới khi đáo hạn (t = T-t).
N(d) là hàm mật độ lũy tích theo phân phối chuẩn. Nói cách khác, N(d) là xác suất chọn một số ngẫu nhiên từ một phân phối chuẩn có giá trị nhỏ hơn d. (, trong đó f(z) là hàm phân phối chuẩn với trung bình bằng 0 và độ lệch chuẩn bằng 1).
ln là hàm lôgarít tự nhiên.
Các giả định
Tài sản cơ sở không trả cổ tức cho tới khi hợp đồng quyền chọn đáo hạn.
Lãi suất và phương sai không đổi.
Giá tài sản cơ sở biến đổi liên tục và giao dịch tài sản cũng diễn ra liên tục.
Ý nghĩa
Xert chính là giá trị hiện tại, PV(X), của giá thực hiện theo lãi kép liên tục. Số hạng N(d) có thể được coi gần như là xác suất hiệu chỉnh theo rủi ro mà quyền chọn mua sẽ đáo hạn trong tình huống có lời.
Nếu cả hai số hạng N(d) gần bằng 1, thì hầu như chắc chắn là quyền chọn mua sẽ có lời vào khi đáo hạn và sẽ được thực hiện. Điều đó có nghĩa là vào khi đáo hạn, người giữ quyền sẽ chắc chắn mua tài sản cơ sở với chi phí X. Chí phí này quy về giá trị hiện tại là PV(X). Vậy, người mua bỏ chi phí PV(X) và có được tài sản hiện có giá trị là S. Giá trị ròng của quyền chọn mua là S – PV(X). Thay các giá trị N(d) bằng 1 vào công thức Black-Scholes, ta cũng có giá quyền chọn sẽ bằng .
Ngược lại, nếu cả hai số hạng N(d) gần bằng 0, thì hầu như chắc chắn là quyền chọn mua sẽ không có lời vào khi đáo hạn và sẽ không được thực hiện. Khi đó, giá quyền chọn sẽ bằng 0.
Với các giá trị của N(d) nằm trong khoảng từ 0 đến 1, thì giá quyền chọn mua có thể được xem như là giá trị hiện tại của khoản tiền có khả năng nhận được từ hợp đồng hiệu chỉnh theo xác suất mà quyền chọn sẽ đáo hạn mà có lời.
Công thức trên áp dụng cho việc định giá quyền chọn mua. Giá quyền chọn bán cùng một tài sản cơ sở, cùng giá thực hiện và kỳ hạn như quyền chọn mua được tính từ đẳng thức quyền chọn mua và chọn bán như sau:
S + P = C + PV(X)
với S là giá tài sản cơ sở; P là giá quyền chọn bán; C là giá quyền chọn mua và PV(X) là giá trị hiện tại của giá thực hiện.
Công thức định giá quyền chọn Black-Scholes trên đây thường được biết đến như là mô hình Black-Scholes đã đoạt giải Nobel kinh tế học năm 1997. Trong phạm vi quyển sách này chỉ giới thiệu và minh họa cách sử dụng mô hình việc chứng minh công thức nằm ngoài phạm vi quyển sách này.
Ví dụ 4: Minh họa cách sử dụng công thức định giá quyền chọn theo Black-Scholes
Cổ phiếu XYZ hiện có giá S = 130. Ta muốn tính giá một quyền chọn mua cổ phiếu XYZ với giá thực hiện X = 120 và kỳ hạn là t = 3 tháng (tương đương 0,25 năm). Độ lệch chuẩn suất sinh lợi của cổ phiếu (tính gộp liên tục trong năm) là 50% và lãi suất phi rủi ro (tính gộp liên tục trong năm) là 12%.
=
Từ bảng phân phối xác suất chuẩn ta có:
N(0,5652) = 0,7140
N(0,3152) = 0,6236
Giá quyền chọn mua:
Gọi P là giá quyền chọn bán cổ phiếu XYZ với giá thực hiện X = 120 và kỳ hạn cũng là 3 tháng. Ta có:
Các công cụ tài chính phái sinh vừa trình bày trên đây nói chung có thể giao dịch trên thị trường hàng hoá, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện tại các loại công cụ tài chính phái sinh mới chỉ giao dịch phổ biến trên thị trường ngoại hối và bắt đầu hình thành giao dịch trên thị trường hàng hóa. Do vậy, trong chương kế đến chúng ta sẽ xem xét chi tiết hơn về các giao dịch phái sinh trên thị trường ngoại hối.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Thị trường tài chính phái sinh là gì? Các công cụ tài chính phái sinh nào được giao dịch trên thị trường này?
Về căn bản cũng như chi tiết, hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau khác nhau ở những điểm nào?
Cơ chế giao dịch hợp đồng giao sau như thế nào? Việc công ty thanh toán bù trừ yêu cầu các bên tham gia giao dịch ký quỹ trên tài khoản bảo chứng và thực hiện chốt giá cũng như thanh toán giao dịch hàng ngày có tác dụng gì?
Giá trị nhận được bởi bên mua và bên bán hợp đồng giao sau như thế nào? Cách định giá hợp đồng giao sau như thế nào? Cho ví dụ minh họa cụ thể.
Thế nào là giao dịch quyền chọn? Phân biệt sự khác nhau giữa các loại quyền chọn, bao gồm quyền chọn mua và quyền chọn bán, quyền chọn kiểu Mỹ và quyền chọn kiểu Âu.
Giá trị nhận được của các bên tham gia giao dịch quyền chọn như thế nào? Trình bày công thức định giá quyền chọn theo mô hình Black-Scholes. Bạn hiểu như thế nào về ý nghĩa mô hình này?
Đế áp dụng công thức định giá quyền chọn theo mô hình Black-Scholes, bạn cần thu thập những dữ liệu gì? Chỉ rõ làm thế nào có thể thu thập được những dữ liệu đó trên thực tế?
Theo bạn, hiện nay đã có nhu cầu thực hiện giao dịch tài chính phái sinh ở Việt Nam hay chưa? Làm thế nào xác định được, xét cả về phương diện đầu cơ lẫn phòng ngừa rủi ro?
Cách thức tổ chức và giao dịch hợp đồng kỳ hạn trên thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được thực hiện như thế nào? Nhằm mục tiêu gì?
Cách thức tổ chức và giao dịch hợp đồng giao sau trên thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được thực hiện như thế nào? Nhằm mục tiêu gì?
Cách thức tổ chức và giao dịch quyền chọn trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có thể thực hiện như thế nào? Cho ví dụ minh họa giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu đầu cơ và phòng ngừa rủi ro của khách hàng.
BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài 1:
Giả sử bạn là nhân viên Phòng giao dịch kỳ hạn của Sacombank có tên là Sacomforward. Vào ngày 1/6 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh A và chị B. Anh A trình bày rằng hiện anh có mượn của cô C 1.000 cổ phiếu BMC bán lấy tiền thực hiện kinh doanh và cam kết 6 tháng sau trả lại số cổ phiếu này. Chị B trình bày chị có khoản nợ ngân hàng 3 tháng sau đến hạn trả nhưng do kẹt tiền kinh doanh nên chị phải mượn của anh D 1.000 cổ phiếu NAV bán để trả nợ ngân hàng. Giá cổ phiếu BMC hiện tại là 548 nghìn đồng và giá cổ phiếu NAV là 126 nghìn đồng. Trong tương lai, giá hai cổ phiếu này như thế nào không ai biết được. Với tư cách là nhân viên Sacomforward, bạn hãy:
Tư vấn cho anh A và chị B biết rủi ro của họ phát sinh như thế nào và làm sao sử dụng giao dịch kỳ hạn để tránh thiệt hại khi giá cổ phiếu BMC và NAV biến động?
Phân tích xem Sacomforward có rủi ro hay không khi thực hiện giao dịch kỳ hạn với khách hàng và chỉ rõ làm sao đối phó với rủi ro nếu có?
Bài giải:
Tư vấn cho anh A và chị B biết rủi ro của họ phát sinh như thế nào và làm sao sử dụng giao dịch kỳ hạn để tránh thiệt hại khi giá cổ phiếu BMC và NAV biến động?
Với anh A: Anh đang nợ 1.000 cổ phiếu BMC sáu tháng sau đến hạn trả. Nếu lúc đó giá cổ phiếu BMC tăng lên thì anh bị thiệt hại do phải bỏ ra nhiều tiền hơn để mua lại 1.000 cổ phiếu BMC. Để tránh rủi ro, anh có thể thỏa thuận mua 1.000 cổ phiếu BMC theo hợp đồng kỳ hạn của Sacomforward. Ở thời điểm hiện tại, Sacomforward và anh A thỏa thuận giá kỳ hạn của cổ phiếu BMC, chẳng hạn là 550 nghìn đồng. Bằng cách này, anh A biết chắc sáu tháng sau, anh phải bỏ ra 550 x 1.000 = 550.000 nghìn đồng để có được 1.000 cổ phiếu BMC trả cho cô C bất chấp giá cổ phiếu BMC trên thị trường lúc này là bao nhiêu.
Với chị B: Bạn thực hiện tương tự.
Phân tích xem Sacomforward có rủi ro hay không khi thực hiện giao dịch kỳ hạn với khách hàng và chỉ rõ làm sao đối phó với rủi ro nếu có?
Giao dịch với anh A: Đứng trên góc độ Sacomforward, khi bán 1.000 cổ phiếu BMC cho anh A, trạng thái cổ phiếu BMC của Sacomforward thiếu 1.000. Sáu tháng sau, nếu giá cổ phiếu BMC cao hơn giá kỳ hạn thỏa thuận, Sacomforward bị thiệt hại. Ngược lại, nếu sáu tháng sau giá cổ phiếu BMC thấp hơn giá kỳ hạn, Sacomforward có lợi. Nếu để trạng thái mở như thế này, Sacomforward phải chấp nhận rủi ro với kỳ vọng là giá cổ phiếu BMC sẽ xuống. Nếu muốn tránh rủi ro, Sacomforward phải đóng trạng thái giao dịch bằng cách mua lại 1.000 cổ phiếu BMC kỳ hạn 6 tháng từ khách hàng khác. Nếu cân bằng được trạng thái giao dịch, Sacomforward tránh được rủi ro và chắc chắn kiếm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá bán và giá mua kỳ hạn 1.000 cổ phiếu BMC.
Giao dịch với chị B: Bạn thực hiện tương tự.
Bài 2:
Giả sử bạn là nhân viên Phòng giao dịch tương lai của Sacombank có tên là Sacomfutures. Vào ngày 1/6 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh E và chị F. Anh E kỳ vọng rằng giá cổ phiếu HBC sẽ tiếp tục giảm trong tương lai và anh quyết định đầu cơ cổ phiếu HBC. Ngược lại với anh E, chị F cho rằng giá cổ phiếu HBC sẽ tăng lại trong tương lai vì nó đã giảm giá 5 phiên liên tục. Giá cổ phiếu HBC hiện tại là 131 nghìn đồng nhưng trong tương lai giá như thế nào chẳng ai biết. Với tư cách là nhân viên Sacomfutures, bạn hãy:
Thực hiện giao dịch tương lai nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu cơ của anh E và chị F.
Giả sử ba phiên giao dịch tiếp theo giá cổ phiếu HBC đều xuống giá 2% và ba phiên sau nữa giá cổ phiếu HBC đều lên giá 2%. Anh E và chị F lãi hay lỗ bao nhiêu? Biết rằng hợp đồng tương lai cổ phiếu HBC được chuẩn hóa 1.000 cổ phiếu và mỗi anh chị thực hiện 5 hợp đồng giao dịch.
Bài giải:
Thực hiện giao dịch tương lai nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu cơ của khách hàng.
Với anh E: Anh E kỳ vọng giá cổ phiếu HBC giảm nên anh đầu cơ bằng cách bán cổ phiếu HBC theo hợp đồng tương lai. Sacomfutures thỏa thuận với anh E giá cổ phiếu HBC theo giao dịch tương lai vào ngày 1/6 là 131 nghìn đồng. và yêu cầu anh F ký quỹ vào tài khoản bảo chứng số tiền, chẳng hạn bằng 5% giá trị giao dịch
Với chị F: Chị F kỳ vọng giá cổ phiếu HBC sẽ tăng nên chị đầu cơ bằng cách mua cổ phiếu theo hợp đồng tương lai. Sacomfutures thỏa thuận giá cổ phiếu HBC theo giao dịch tương lai vào ngày 1/6 là 131 nghìn đồng.
Với Sacomfutures: Yêu cầu anh E và chị F ký quỹ lần đầu vào tài khoản bảo chứng số tiền, chẳng hạn bằng 5% giá trị giao dịch, tức là [(131.000 x 5%)1.000]5 = 32.750.000 đồng. Ngoài ra, còn thiết lập mức ký quỹ duy trì là [(131.000 x 3%)1.000]5 = 19.650.000 đồng và mức đóng tài khoản giao dịch là [(131.000 x 1%)1.000]5 = 6.550.000 đồng.
Xác định lãi lỗ với ba phiên giao dịch tiếp theo giá cổ phiếu HBC đều xuống giá kịch sàn và ba phiên sau nữa giá cổ phiếu HBC đều lên giá kịch trần, với biên độ cho phép là 5%. Bạn có thể sử dụng Excel để lập bảng tính xác định lãi lỗ cho khách hàng E và F trên mỗi hợp đồng giao dịch như sau:
Số lượng CP
1,000.00
Giá CP
131,000.00
Trị giá HĐ
131,000,000.00
Ký quỹ lần đầu
6,550,000.00
Ký quỹ duy trì
3,930,000.00
Ký quỹ tối thiểu
1,310,000.00
Các giao dịch
Giá CP HBC
Tài khoản ký quỹ anh E
Nợ (-)/Có (+)
Số dư
Thêm ký quỹ
Đầu ngày 01/06
131,000.00
-
6,550,000.00
-
Cuối ngày 02/06
128,380.00
(2,620,000.00)
3,930,000.00
-
Cuối ngày 03/06
125,812.40
(2,567,600.00)
1,362,400.00
2,567,600.00
Cuối ngày 04/06
123,296.15
(2,516,248.00)
1,413,752.00
2,516,248.00
Cuối ngày 05/06
125,762.08
2,465,923.04
6,395,923.04
-
Cuối ngày 06/06
128,277.32
2,515,241.50
8,911,164.54
-
Cuối ngày 07/06
130,842.86
2,565,546.33
11,476,710.87
-
Lãi (+)/Lỗ (-)
(157,137.13)
Các giao dịch
Giá cổ phiếu HBC
Tài khoản ký quỹ chị F
Nợ (-)/Có (+)
Số dư
Thêm ký quỹ
Đầu ngày 01/06
131,000.00
-
6,550,000.00
-
Cuối ngày 02/06
128,380.00
2,620,000.00
9,170,000.00
-
Cuối ngày 03/06
125,812.40
2,567,600.00
11,737,600.00
-
Cuối ngày 04/06
123,296.15
2,516,248.00
14,253,848.00
-
Cuối ngày 05/06
125,762.08
(2,465,923.04)
11,787,924.96
-
Cuối ngày 06/06
128,277.32
(2,515,241.50)
9,272,683.46
-
Cuối ngày 07/06
130,842.86
(2,565,546.33)
6,707,137.13
-
Lãi (+)/Lỗ (-)
157,137.13
Bài 3:
Giả sử bạn là nhân viên giao dịch của Phòng giao dịch quyền chọn của Sacombank có tên là Sacomoptions. Vào ngày 1/6 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh A và chị B. Anh A trình bày rằng hiện anh có mượn của cô C 1.000 cổ phiếu BMC bán lấy tiền thực hiện kinh doanh và cam kết 6 tháng sau trả lại số cổ phiếu này. Chị B trình bày chị có khoản nợ ngân hàng 3 tháng sau đến hạn trả nhưng do kẹt tiền kinh doanh nên chị phải mượn của anh D 1.000 cổ phiếu NAV bán để trả nợ ngân hàng. Giá cổ phiếu BMC hiện tại là 548 nghìn đồng và giá cổ phiếu NAV là 126 nghìn đồng. Trong tương lai, giá hai cổ phiếu này như thế nào không ai biết được. Với tư cách là nhân viên Sacomoptions, bạn hãy:
Tư vấn cho anh A và chị B biết rủi ro của họ phát sinh như thế nào và làm sao sử dụng giao dịch quyền chọn để tránh thiệt hại khi giá cổ phiếu BMC và NAV biến động?
Phân tích xem Sacomoptions có rủi ro hay không khi thực hiện giao dịch quyền chọn với khách hàng và chỉ rõ làm sao đối phó với rủi ro nếu có?
Bài giải:
Tư vấn cho anh A và chị B biết rủi ro của họ phát sinh như thế nào và làm sao sử dụng giao dịch quyền chọn để tránh thiệt hại khi giá cổ phiếu BMC và NAV biến động?
Với anh A: Anh đang nợ 1.000 cổ phiếu BMC sáu tháng sau đến hạn trả. Nếu lúc đó giá cổ phiếu BMC tăng lên thì anh bị thiệt hại do phải bỏ ra nhiều tiền hơn để mua lại 1.000 cổ phiếu BMC. Để tránh rủi ro, anh có thể thỏa thuận mua quyền chọn mua 1.000 cổ phiếu BMC theo hợp đồng quyền chọn của Sacomoptions. Ở thời điểm hiện tại, Sacomoptions và anh A thỏa thuận giá thực hiện quyền chọn mua cổ phiếu BMC, chẳng hạn là 550 nghìn đồng và phí mua quyền chọn, chẳng hạn bằng 2% giá thực hiện, tức là 11.000 đồng/cổ phiếu. Bằng cách này, anh A biết chắc sáu tháng sau có hai khả năng xảy ra:
Một là, giá cổ phiếu BMC trên thị trường lớn hơn giá thực hiện. Khi đó, anh A thực hiện quyền chọn mua của mình giá biết chắc chi phí bỏ ra để có 1.000 cổ phiếu BMC là (550.000 x 1.000) cộng với phí mua quyền chọn (11.000 x 1.000), tổng cộng là 561.000.000 đồng.
Hai là, giá cổ phiếu BMC trên thị trường không lớn hơn giá thực hiện. Khi đó, anh A không thực hiện quyền chọn mà mua 1.000 cổ phiếu BMC theo giá thị trường và chi phí bỏ ra để có 1.000 cổ phiếu BMC là (St x 1.000) + (11.000 x 1.000). Chi phí này cụ thể là bao nhiêu anh chưa biết nhưng anh biết chắc nó nhỏ hơn 561.000.000 đồng vì St < 550.000.
Như vậy, khi đến hạn dù giá cổ phiếu trên thị trường thế nào chăng nữa chi phí anh phải bỏ ra để có 1.000 cổ phiếu BMC tối đa là 561.000.000 đồng.
Với chị B: Bạn có thể thực hiện giao dịch tương tự.
Phân tích xem Sacomoptions có rủi ro hay không khi thực hiện giao dịch quyền chọn với khách hàng và chỉ rõ làm sao đối phó với rủi ro nếu có?
Với anh A: Khi thực hiện giao dịch quyền chọn mua với anh A, Sacomoptions có rủi ro nếu giá cổ phiếu BMC lên cao hơn giá thực hiện thì anh A có lợi và Sacomoptions bị thiệt hại. Để tránh rủi ro, Sacomoptions đối phó với rủi ro bằng cách vừa bán quyền chọn mua cho anh A đồng thời bán quyền chọn bán cho khách hàng khác. Sử dụng doanh thu có được từ việc bán quyền chọn để bù đắp thiệt hại theo nguyên tắc nếu xác suất anh A thực hiện quyền chọn càng cao thì chi phí mua quyền chọn mua của anh A càng cao và ngược lại.
Với chị B: Bạn có thể thực hiện giao dịch tương tự.
BÀI TẬP TỰ RÈN LUYỆN
Bài 1:
Giả sử bạn là nhân viên Phòng giao dịch kỳ hạn của Sacombank có tên là Sacomforward. Vào ngày 1/2 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh X và chị Y. Anh X trình bày rằng hiện anh có mượn của cô Chi 10.000 cổ phiếu BBC bán lấy tiền thực hiện kinh doanh và cam kết 6 tháng sau trả lại số cổ phiếu này. Chị Y trình bày chị có khoản nợ ngân hàng 3 tháng sau đến hạn trả nhưng do kẹt tiền kinh doanh nên chị phải mượn của anh Danh 10.000 cổ phiếu SAM bán để trả nợ ngân hàng. Giá cổ phiếu BBC hiện tại là 148 nghìn đồng và giá cổ phiếu SAM là 260 nghìn đồng. Trong tương lai, giá hai cổ phiếu này như thế nào không ai biết được. Với tư cách là nhân viên Sacomforward, bạn hãy:
Tư vấn cho anh X và chị Y biết rủi ro của họ phát sinh như thế nào và làm sao sử dụng giao dịch kỳ hạn để tránh thiệt hại khi giá cổ phiếu BBC và SAM biến động?
Phân tích xem Sacomforward có rủi ro hay không khi thực hiện giao dịch kỳ hạn với khách hàng và chỉ rõ làm sao đối phó với rủi ro nếu có?
Bài 2:
Giả sử bạn là nhân viên Phòng giao dịch tương lai của Sacombank có tên là Sacomfutures. Vào ngày 2/3 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh An và chị Phận. Anh An kỳ vọng rằng giá cổ phiếu BMC sẽ tiếp tục giảm trong tương lai và anh quyết định đầu cơ cổ phiếu BMC. Ngược lại với anh An, chị Phận cho rằng giá cổ phiếu BMC sẽ tăng lại trong tương lai vì nó đã giảm giá 10 phiên liên tục. Giá cổ phiếu BMC hiện tại là 331 nghìn đồng nhưng trong tương lai giá như thế nào chẳng ai biết. Với tư cách là nhân viên Sacomfutures, bạn hãy:
Thực hiện giao dịch tương lai nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu cơ của anh An và chị Phận.
Giả sử ba phiên giao dịch tiếp theo giá cổ phiếu BMC đều xuống giá 1,5% và ba phiên sau nữa giá cổ phiếu HBC đều lên giá 2%. Anh An và chị Phận lãi hay lỗ bao nhiêu? Biết rằng hợp đồng tương lai cổ phiếu BMC được chuẩn hóa 1.000 cổ phiếu và mỗi anh chị thực hiện 10 hợp đồng giao dịch.
Bài 3:
Giả sử bạn là nhân viên giao dịch của Phòng giao dịch quyền chọn của Sacombank có tên là Sacomoptions. Vào ngày 1/6 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh E và chị F. Anh E kỳ vọng rằng giá cổ phiếu HBC sẽ tiếp tục giảm trong tương lai và anh quyết định đầu cơ cổ phiếu HBC. Ngược lại với anh E, chị F cho rằng giá cổ phiếu HBC sẽ tăng lại trong tương lai vì nó đã giảm giá 5 phiên liên tục. Giá cổ phiếu HBC hiện tại là 131 nghìn đồng nhưng trong tương lai giá như thế nào chẳng ai biết. Với tư cách là nhân viên Sacomoptions, bạn hãy:
Thực hiện giao dịch quyền chọn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu cơ của anh E và chị F.
Ở mức giá nào thì anh E và chị F có thể thực hiện quyền chọn của mình? Nếu giá chưa đến mức đó, họ nên làm gì?
Bài 4:
Giả sử bạn là nhân viên giao dịch của Phòng giao dịch quyền chọn của Sacombank có tên là Sacomoptions. Vào ngày 1/6 bạn tiếp xúc với hai khách hàng là anh M và chị N. Anh M kỳ vọng rằng giá cổ phiếu STB sẽ tiếp tục giảm trong tương lai và anh quyết định đầu cơ cổ phiếu STB. Ngược lại với anh M, chị N cho rằng giá cổ phiếu STB sẽ tăng lại trong tương lai vì nó đã giảm giá 5 phiên liên tục. Giá cổ phiếu STB hiện tại là 151 nghìn đồng nhưng trong tương lai giá như thế nào chẳng ai biết. Với tư cách là nhân viên Sacomoptions, bạn hãy:
Thực hiện giao dịch quyền chọn nhằm thỏa mãn nhu cầu đầu cơ của anh M và chị N dựa trên thông tin đã biết và một số thông tin giả định khác.
Ở mức giá nào thì anh M và chị N có thể thực hiện quyền chọn của mình? Nếu giá chưa đến mức đó, họ nên làm gì?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tailieutindungnganhangchuong2caccongcutaichinhphaisinhcongcuquanlyruirotai.doc