Thế Quần tụ tam sơn
Là ba cây kiểng nằm chung trong một chậu to. Còn gọi là tam
tài, ba cây kiểng trực thọ đứng gần ngay hàng, cây cao chính
giữa, hai cây thấp hơn ở hai bên, nhưng có thể so le một tý,
cây to có 5 tàn, hai cây lùn chỉ cần ba tàn, có thể giao cành với
nhau làm thế nào ba cây cân đối mới đẹp và ba cây cũng liên
kết với nhau, nếu thiếu một trong ba cây là mất hết vẻ đẹp.
Cho nên thế tam sơn biểu tượng cho sự đòan kết :
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.
Thế tam sơn nên uốn với cây tùng, cây bách, xếp thành hình chữ sơn là núi rất đẹp.
Thế Ngũ nhạc
Thế này trồng bằng năm cây kiểng trong một cái chậu hay cái
khay to làm cảnh núi rừng, mỗi cây có một dáng riêng biệt có
thể đứng hết, hoặc cây đứng cây xiêu, cây nằm, nhưng phải có
lớn có nhỏ như sơn thủy mới đẹp. Cũng có thể xếp hình chữ
ngũ. Xếp “ngũ lão giản đình” (năm ông già đàm đạo) phải xếp
vòng tròn nhưng xếp thể rừng là đẹp nhất. Thân cành nhánh
phải hài hòa, làm sao có tính cách giao chi, hỗ tương với nhau,
nếu thiếu một cây thì thấy không đẹp. Thế ngũ nhạc cũng uốn
bằng năm cây cùng một loại như mai chiếu thủy, tùng, cần
thăng, kim quýt, đều đẹp.
Thế Lưỡng Long tranh châu
Thế này phải uốn với song thọ trồng chung vào một chậu, uốn
đối xứng thành hai con rồng uốn khúc, giao đầu tranh hạt
minh châu nằm ở giữa, là thế kiểng cổ thường thấy uốn với
hai cây mai chiếu thủy hay cần thăng, kim quýt, ngày nay
thường uốn với cùm nụm rô nhanh chóng hơn với nòng bằng
kẽm, trồng cây lên tới đâu, gài vô tới đó vài ba năm là thành,
thân hai con rồng uốn khúc, đấu đầu lại nhìn quả châu, các
nhánh làm chân và mây, đuôi ngẩng lên xòe ra như múa rất
đẹp. Nếu uốn với hai cây mai chiêú thủy thì rất quý.
18 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2453 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các dạng bonsai xưa và nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thế Quần tụ tam sơn
Là ba cây kiểng nằm chung trong một chậu to. Còn gọi là tam
tài, ba cây kiểng trực thọ đứng gần ngay hàng, cây cao chính
giữa, hai cây thấp hơn ở hai bên, nhưng có thể so le một tý,
cây to có 5 tàn, hai cây lùn chỉ cần ba tàn, có thể giao cành với
nhau làm thế nào ba cây cân đối mới đẹp và ba cây cũng liên
kết với nhau, nếu thiếu một trong ba cây là mất hết vẻ đẹp.
Cho nên thế tam sơn biểu tượng cho sự đòan kết :
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.
Thế tam sơn nên uốn với cây tùng, cây bách, xếp thành hình chữ sơn là núi rất đẹp.
Thế Ngũ nhạc
Thế này trồng bằng năm cây kiểng trong một cái chậu hay cái
khay to làm cảnh núi rừng, mỗi cây có một dáng riêng biệt có
thể đứng hết, hoặc cây đứng cây xiêu, cây nằm, nhưng phải có
lớn có nhỏ như sơn thủy mới đẹp. Cũng có thể xếp hình chữ
ngũ. Xếp “ngũ lão giản đình” (năm ông già đàm đạo) phải xếp
vòng tròn nhưng xếp thể rừng là đẹp nhất. Thân cành nhánh
phải hài hòa, làm sao có tính cách giao chi, hỗ tương với nhau,
nếu thiếu một cây thì thấy không đẹp. Thế ngũ nhạc cũng uốn
bằng năm cây cùng một loại như mai chiếu thủy, tùng, cần
thăng, kim quýt, đều đẹp.
Thế Lưỡng Long tranh châu
Thế này phải uốn với song thọ trồng chung vào một chậu, uốn
đối xứng thành hai con rồng uốn khúc, giao đầu tranh hạt
minh châu nằm ở giữa, là thế kiểng cổ thường thấy uốn với
hai cây mai chiếu thủy hay cần thăng, kim quýt, ngày nay
thường uốn với cùm nụm rô nhanh chóng hơn với nòng bằng
kẽm, trồng cây lên tới đâu, gài vô tới đó vài ba năm là thành,
thân hai con rồng uốn khúc, đấu đầu lại nhìn quả châu, các
nhánh làm chân và mây, đuôi ngẩng lên xòe ra như múa rất
đẹp. Nếu uốn với hai cây mai chiêú thủy thì rất quý.
Thế này còn nhân ra “sư tử hí cầu” là hai con sư tử giỡn với quả cầu, cũng là hai cây uốn
đối xứng với quả cầu rất đẹp. Cũng như thế (loan phụng hòa mình), hai con loan và
phượng múa quấn quýt lấy nhau như cặp uyên ương duyên dáng...
Thế Long đàn phượng vũ
Thế này bay bướm hơn, có nghĩa là chim phượng hoàng múa trên mình
rồng. Đây là thế có thể uốn với một cây, hoặc hai cây trồng chung một
chậu. Phải cây cổ thụ gốc to, uốn nằm trên miệng chậu, gốc ngẩng lên
làm đầu rồng. Thân uốn cong hạ thấp, các chi xòe ra bốn phía làm chân
và mây, ngọn ngã về phía sau làm đuôi rồng, cây thứ hai có hai rễ chẻ
ra làm chân phượng, thân ngã ngang qua ôm lấy mình rồng, các cành
hậu thân uốn làm đầu và đuôi chim phượng, hai cành tả hữu xòe ra làm
hai cánh chim uốn với dáng đang múa, ngọn làm mây. Thế này uốn
cho thật dịu dàng mềm mại như phượng đang múa, tàn nhánh xòe ra,
trên mình rồng uốn khúc nhịp nhàng. Thế chim phượng múa trên lưng
rồng là tuyệt đẹp, biểu tượng cho quyền uy của vua chúa, ngày xưa chỉ có ở trong cung
đình.
Thế Long bàn hổ phục
Thế này cũng có thể uốn với một cây kiểng to có hai thân hoặc với hai
cây trồng chung một chậu. Thế long bàn hổ phục có nghĩa là rồng nằm
uốn khúc và hổ cũng nằm sát đất chịu khuất phục để chầu chủ
nhân.Thế này rất khó uốn, phải có bộ rễ thành hình chân thú nằm xòe
ra phía trước, tả thanh long, hữu bạch hổ, hai chân hổ chồm ra, hai
chân rồng ngấu xuống: cây thanh long, gốc nằm trên mặt chậu, đầu
ngẩng lên, thân uốn cong làm mình rồng, cành tả hữu uốn theo lối chiết
chi làm mây, hai cành trước sau làm chân xòe móng ra, ngọn hồi đầu
làm đuôi, uốn dáng mềm dẻo, uỷên chuyển.Cây bên phải, gốc thân bò
trường lên chậu, đầu cúi mọp xuống, các chi tỉa nhỏ ôm lấy thân để
trang trí, ngọn vươn lên làm đuôi, tỉa theo tàn chổi nhỏ, Thế long bàn
hổ phục có hình dáng nằm chầu khuất phục hiền hòa, nhưng khong kém phần uy nghi,
biểu tượng cho quyền lực, rất hay rất đẹp.
Thế Long mã hồi đầu
Thế này gồm hai cây to riêng biệt hay cùng gốc, nhưng một cây cao
một cây thấp, rễ xòe ra theo chân thú, cây thấp thân to, ngắn nằm
ngang, ngọn làm đầu ngẩng lên, không tàn nhánh, tạo dáng con ngựa
nằm quay đầu trở lên. Cây cao uốn thân long, cong cong văn vẹo, phân
chi theo lối tứ diện, xòe ra bốn phía làm chân và mây, ngọn uốn tàn to
như bông sen rồi bẻ cúp xuống làm đầu rồng quay trở lại.
Thế này rất khó uốn, mới đầu phải lựa những cây mềm dẻo như mai,
có nhiều rễ để uốn chân thú nằm xòe ra như chân ngựa, uốn làm sao
cho khỏi phải giải thích người khác xem mà biết mới hay, cho hài hòa
mới đẹp.
Thế Song thụ
Bây giờ đến thế có hai cây trồng chung trong một chậu. Thế song thụ
còn có thể song xiêu, hai cây to cao như huynh đệ, nhưng đều bị gió xô
đổ ngã về một bên, hoặc một cây ngã bên này, một cây ngã về bên kia,
theo chiều đối nghịch nhau để giữ thăng bằng, cành nhánh đều phân
theo lối chi tiết, ngọn vươn thẳng lên và hồi đầu. Thế này có vẻ đối
ngịch với nhau, xung khắc với nhau như cây hoa huệ đỏ, một vòi có
hai hoa xòe ra hai bên, đấu lưng lại với nhau vậy. Cón nếu hai cây
cùng ngã về một phía thì phải uốn các cành và ngọn vươn dài ra làm
đối trọng và quy căn hồi đầu mới giữ vững được không đổ ngã, tượng
trưng sự đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, các nhánh có thể giao chi, quấn quýt
lấy nhau xem rất đẹp.
Thế Tiều phu quải tử
Thế này hơi khác một chút là cây tiều phu phải là cây cổ thụ, gốc rễ
lồi lõm, thân cây gân guốc, cây tiều phu phải đổ ngã nhiều hơn, gần
như bạt phong hồi đầu, cõng cây tử trên lưng; cây tử cùng một gốc,
nhưng mọc cao hơn, nhằm trên lưng như nhánh vậy, nhưng gốc to
hơn, cây tử có vẻ phong trần hơn, tuy nhỏ nhưng có vẻ già nua,
cũng hai tàn một ngọn dạng xuy phong như cây tử của cặp mẫu tử.
Cây tiều phu cũng bốn tàn một ngọn, nhưng gồ ghề, gân guốc u nần,
gần nằm mọp nhưng vẫn quy căn hồi đầu, để giữ thăng bằng. Cây
tiều phu quái tử cũng quấn quýt nhau như tình cảm cuả cha con vậy. Còn nhân ra thế
“Lão mai sinh quí tử” rất hay, cha già có con muộn rất được ưa chuộng, tưng tiu, trìu
mến, tuyệt vời…
Các thế tương tự như thế mẫu tử này, có thể uốn từ một gốc hay hai gốc, nhưng tùy theo
thế mà uốn tách rời ra hai bên, lấy gỗ chêm, lấy dây căng kéo, tạo dáng cho ngã ra hai
bên rồi vươn dậy đứng thẳng lên quy căn hồi đầu, phân cành nhánh theo lôí chiết chi, bên
ba. Bên năm cho hài hòa cân đối là đẹp.
Thế Phụ tử
Thế này cũng y như thế mẫu tử, nhưng cây phụ, nhưng cây cha phải to
cao và đứng thẳng hơn cây mẫu, tạo vóc dáng cuả người cha, ít dịu dàng
hơn, cứng rắn hơn, nhưng không phải là không che chở cho con, thể
hiện đúng tình cảm cha con,cây tử nhỏ hơn cây phụ nhiều, cũng ba tàn,
quấn quýt lấy cây phụ, lúc nào cũng nhờ sự bao bọc cuả người cha. Cây
phụ cũng 5 tàn quy căn hồi đầu như cây mẫu. Cây phụ tử có htể mập
mạp to hơn cây mẫu tử, thường uốn thế tam cang ngũ thường, biểu hiện
tính trung hiếu xử lý ở đời cuả người quân tử.
Thế Phụ tử giao chi
Thế này y như thế phụ tử, nhưng phần nhánh của hai cha con có thêm
phần quấn quýt, ôm lấy nhau, mặc dù cha con, nhưng yêu thương trìu mến
y như tình yêu thương dịu dàng cuả mẹ con. Thế này câu tử có thể to cao
hơn và có một nhánh quyện lấy cây phụ nên gọi phụ tử giao chi.
Các thế khác như huynh đệ, tỷ muội, đồng khoa, đều có dáng tương tự như
cây mẫu tử, nhưng chỉ khác nhau về kích thước, to nhỏ, và cách uốn mo tả
tính tình quan hệ với nhau mà thôi, nhưng hai cây gần bằng nhau, coi như
bạn bè, gọi là đồng khoa, nếu cây cao cây thấp chút đỉnh, coi như anh em
được gọi là huynh đệ, còn hai cây có dáng mềm dịu, duyên dáng hơn được
gọi là tỷ muộn, chị em. Những cây này đều rất dễ uốn tùy theo dáng mà đặt tên, nhu phụ
tử tương tùy, phụ tử tương thân, mẫu tầm tử, mẫu tử tương thân v.v..
Thế Mẫu tử
Thế mẫu tử (mẹ con) phải có hai cây cùng một gốc, cây lớn là mẫu,
cây nhỏ là tử; cây mẫu cao gấp 3 lần cây tử mới đúng là mẹ con. Cây
này phải cổ thụ, bộ rễ xoè ra nổi lên trên mặt chậu, gốc dạng xuy
phong phải cỡ 45 độ, cây tử cũng vậy, cây mẫu và cây tử phải xiên cỡ
90 độ mới đẹp, đủ chỗ để phân chi tán cành nhánh ôm lấy cây tử, như
mẹ chăm sóc con với dáng vóc triù mến thương yêu tình cảm thật sự
cuả mẹ đối với con!
Tán thứ nhất của cây mẫu bẻ ra bên ngoài chừa chỗ cho cây tử mọc
lên. Hai cây me con đều uốn theo chiết chi nhị diện, cây tử vươn lên
thẳng đứng, hai tàn một ngọn nhỏ. Cây mẫu đến đoạn thứ ba cũng uốn
quy căn thẳng đứng, để giữ trọng tâm nằm trong chậu, gọn gàng, cân
đối, có bốn tàn một ngọn hồi đầu. Tàn cuả cây mẫu tử lớn hơn tàn cây tử, đều uốn theo
tàn hồng nhật tròn đẹp, hoặc tàn hoa rơi xoè ra ôm lấy cây tử, mềm mại duyên dáng, cây
tử thì quấn quýt không dời cây mẫu, tả được tình cảm giữa mẹ con, thế này thường là
“Tam cang ngũ thường hay tam tùng tứ đức” rất được ưa thích trong bộ ba kiểng cổ
ngày xưa. Thường bộ kiểng cổ 3 cây,có hai cây mẫu tử đối xứng hay bên rất đẹp. Nếu
cây tử không phải cùng chung một gốc với cây mẫu, mới tháp vào thì gọi là “Minh linh
dưỡng tử” xem như là con nuôi vậy
Thế Long thăng
Thế này có hai cách uốn, tùy theo ý của nghệ nhân, tùy theo đánh cây
+ Cách thứ nhất: Uốn đầu rồng ở trên ngọn cây. Cách này hợp lý vì
rồng bay lên thì đầu phải ở trên, nhưng rất khó uốn, làm sao ngọn cây
nhỏ hơn gốc cây mà uốn đầu nằm trên ngọn cho đạt. Rồng lúc nào
cũng đầu to, đuôi nhỏ, cho nên phải tìm cách cưa cắt cách nào để cho
đầu rồng to, lại thêm mũi miệng nữa thật là khó tạo dáng cho đẹp.
Thân rồng thì dễ, chỉ cần uốn cong cong, các nhánh làm chân làm mây
ôm lấy thân cây không mấy khó, nhiều người vẫn uốn được.
+ Cách thứ hai: Thăng lên nhưng đầu năm dưới gốc cây, phải tạo
dáng làm sao khi nhìn là thấy rồng cất đầu bay lên mới tài. Phải tạo
dáng cho rồng vươn lên, mắt, mũi, miệng xừng lên, hai chân trước làm
hai chân vươn móng chòm lên, hai chân sau hạ thấp đuôi vẫy đập để cất cánh bay bổng
lên. Nghệ thuật trong thăng là thân mình phải quật khởi mới mới đúng điệu. Thế này đẹp
hơn vì đầu to đuôi nhỏ, tàn nhánh cân đối. Thế này tượng trưng cho lòng cương quyết,
lúc nào cũng vươn lên tiến bộ.
Thế Long giáng
Thế này dễ uốn hơn thế long thăng, hình dáng điệu bộ ngược lại với thế
long thăng là được. Đầu chúi xuống, ngực nằm trên mặt chậu, cành nhánh
làm mây bao lấy chân uốn khúc trong tư thế đáp xuống, đuôi mềm dẻo, làm
bánh lái điều khiển êm ái nhẹ nhàng một cách tự nhiên. Tuy nhiên không
kém phần oai phong lẫm liệt, vì rồng là con vật trong bộ tứ linh, rất dũng
mãnh. Thế này bắt buộc phải đầu to đuôi nhỏ, cành nhánh xếp gọn lại để
tạo dáng hạ xuống là đẹp, tượng trưng cho tính ôn hoà mềm mỏng nhưng
không kém phần oai phong quyền lực.
Thế Huyền chi lạc địa
Thế này càng ít thấy, là cây kiểng trên núi non bị bão táp, đổ
ngã cong queo qua cơn thiên tai, cành nhánh ngổn ngang, tàn
lá liệt địa rơi rụng, hình dung một khung cảnh điêu tàn, nhưng
lại là bức tranh tuyệt tác đối với nghệ nhân, trái ngược lại với
cây kiểng lúc nào cũng có tàn lá xanh tươi, vươn cao khỏe
mạnh. Thế huyền chi lạc địa nếu phân tích kỹ sẽ tìm ra được
rễ lồi ngoằn ngòeo, gốc hình thú nằm, thân long uốn khúc cong queo, tàn nhánh gãy cúp
theo ngũ chi hiệp nhất, ngọn chiều thiên vươn lên để nhận ánh sáng thật là xinh đẹp lạ
lùng, trong cái hỗn độn vô trật tự, có một sức sống vươn lên mãnh liệt.
Thế Long cuốn thủy
Thế này dựa vào hình ảnh của rồng hút nước, thế nàu thường uốn với
cây mai chiếu thủy, cây kim quýt. Gốc to, uốn cong lại làm đầu cúi
xuống lấy nước, thêm mắt, mũi miệng, trong nhỏ ngòai to. Thân uốn
cong như rồng uốn khúc, các cành thân tứ diện làm chân và mây,
không xòe ra dài lắm, nhưng vươn móng bám vào mây lấy thế mạnh để
hút nước, cành hầu làm mây che lấy thân, ngọn có thể vươn lên xòe ra
làm đuôi hoặc hồi đầu vừa cân đối, dáng đẹp, đứng vững vàng hùng vĩ
Thế Thác đổ
Thế này kiểng cổ ít có thấy, là thế huyền độc thụ thân nằm bò qua
miệng chậu, như bị trận cuồng phong xô ngã xuống ao, nên ngọn cây
bẻ cong, thòng xuống thấp hơn đáy chậu. Dáng thật mềm mại uốn cong
hợp lý theo luật hồi đầu tự nhiên, vươn lên lúp búp có từng bậc rất đẹp,
biều hiện cho sức sống làm cho người xem có cảm giác dễ chịu
Thế Ngọa tùng
Thế này là thế hoành độc thụ, rễ xòe ra bốn phía, nhưng rễ đối
với thân cây phải khoẻ để làm đối trọng cho cây không đổ
ngã. Thân cây nằm ngang mặt chậu rồi vươn lên đứng thẳng
và hồi đầu; hướng về gốc, để cho thân cây thăng bằng, thế này
khúc khuỷu hơn xuy phong hay bạt phong hồi đầu, cành
nhánh, thấp hơn và sà xuống như nhánh thủy đề, soi đáy nước,
các nhánh trên sửa theo lối tứ diện cân đối ngắn gọn, uốn tàn
vươn lên lúp búp như hoa sen, rất đẹp, duyên dáng yêu đời
Thế Hạc lập
Thế này biến đổi từ thế phượng vũ, nhưng hai cánh không xòe ra, đầu
ngẩng lên cao hơn nữa, đuôi cũng không xòe ra, cành hầu cũng ôm lấy
thân cây làm cho mình chim hạc hơi dài ra, ngọn vươn cao và hồi đầu hạ
để làm mỏ hạc. Thế này gọn gàng, nhưng oai vệ rất đẹp. Biểu hiện lòng tự
tin, tính khiêm tốn, nhưng nhất định sẽ thành công.
Thế Phượng vũ
Thế này sửa theo dáng hình chim phượng đang múa. Là cây độc phụ
chân phương có hai rễ nổi cao lên thành 2 chân, thân ngắn vặt làm
mình ngọn hồi đầu làm đầu chim.
Cành thứ nhất uốn xèo ra phía sau làm đuôi chim, hai cành tả hữu uốn
xèo ra thành hình cánh chim đang múa, đây là phân hay giở của nghệ
nhân, phải uốn sao cho uyển chuyển mềm mại như cánh chim múa.
Cành phụ che thân làm hầu, ức ngắn gọn. Thế này phải có nét mỹ
thuật, khi nhìn là biết chim phượng bay múa, tượng trưng cho tính yêu
đời vui tươi
Thế Bạt phong hồi đầu
Thế này bị gió xô đẩy mạnh nên thân cây nghiêng ngã nhiều
hơn, có khi đến 60-70 độ, cành nhánh đều ngã về một bên
theo sức của gió, nhưng ngọn bắt buộc phải quy căn và hồi
đầu mới đứng vững được. Mặc dầu các cành hầu sơ vơ, xiêu
vẹo, nhưng dũng cảm chống chọi với sức gió quay cuồng. Hai
nhánh dưới đòi hỏi phải vương tiền phóng hậu, giữ trọng tâm
ở trong lòng chậu, hai nhánh trên dù có chênh vênh cũng vẫn
giữ được thăng bằng không ngã. Thế này biểu hiện lòng bền
chí hiên ngang không khuất phục.
Thế xuy phong
Thế xuy phong hay xiêu phong cũng là một, xuy là chữ hán,
xiêu là chữ nôm, đều phải uốn nghiêng cỡ 30 – 40 độ do bị gió
xô đẩy. Phải là cây cổ thụ, gốc rễ lồi lên hình thú hay thân
nôm, thân uốn cong như long thân và quy căn hồi đầu, tàn
nhánh có thể uốn chiết chi hay tứ diện, nhưng phải vươn ra cho
giữ thăng bằng chống lại sức gió. Cho nên còn gọi thế nghinh
phong, cũng bốn tàn một ngọn, nhưng cành phải uốn về phía
gốc để khỏi đổ ngã, cây xuy phong phải uốn cho đủ cặp để xếp
với cây trung bình thành bộ ba cây. Cây bên phải là cây âm,
đối xứng với cây bên trái là cây dương (Nam tả hữu nữ). Cây trung bình đứng giữa là cây
dẫn đàn, đứng thế chủ động của bộ kiểng.
Thế Mai nữ
Thế mai nữ nằm trong câu thiệu (Vô nữ bất thành mai, vô thập bất
thành tùng) mà ông cha chúng ta thường dùng để làm mẫu sửa kiểng
cổ. Cây mai nữ có thể là cây trực thọ hay là cây suy phong cây trung
bình mai nữ rất rễ uốn, là cây cổ thụ có đọan thân bẻ cúp rồi đứng
thẳng lên, đủ để uốn nhánh cong qua thành hình chữ nữ là đạt, các tàn
nhánh các đều uốn theo lối chiết chi, chỉ có khó là cây mai nữ phải
uốn làm sao cho mềm dẻo, yểu điệu, dịu dàng, như người con gái.
Cây xung phong mai nữ còn lại đẹp hơn, do hình dáng còn uyển
chuyển ẻo lả hơn. Thân cây dạng nghiêng nên nhánh tréo nữ ôm lấy
thên rất mềm mại duyên dáng. Kế đó thân lại quy căn đắp điếm lấy
nhánh mai nữ, bảo vệ người con gái, nên rất đẹp và rất hay, còn có ý
nghĩa lòng nhân, đạo đức căn bản về con người. Cây thứ nữ là cây
mai nổpi tiếng ở Miền Nam, thường uốn cho cây mai vàng, cây mai
chiếu thủy, cây cần thăng, cây kim quýt …đều rất đẹp, cộng thêm bộ
rễ khéo léo nổi bật lên nữa là vô giá, ngắm nhìn không chán.
Phong cách xoáy vặn
Thiên nhiên đã ban cho ta rất ít ỏi về các mẫu cây thuộc phong cách
này mà trong đó vỏ cây xoáy theo hình xoắn ốc từ gốc lên đến chót
cây, để lộ phần gỗ bên dưới. Thuật ngữ này chỉ về cây có thân xoắn
lại như cây thừng, chẳng hạn như cây lựu.
Phong cách rễ leo lên trên đá
Các rễ dày cuộn quanh hòn đá trước khi được trộn dưới đất. Trong
phong cách này, hình thể của đá, lớp rễ trên bề mặt, và vật chứa đều
quan trọng như hình dạng của cây trong việc làm cho một tổng thể của
cây trong việc làm cho một tổng thể hài hòa. Đôi khi tác dụng gây ấn
tượng tổng thể được tạo nên bởi hình thể và màu sắc của đá hoặc bởi
cấu trúc nổi bật của rễ cây
Phong cách bạch tuộc
Đây là biến thể của phong cách trước, do đó các cành cây phát sinh
cùng một gốc và uốn khúc đi lên. Người ta đặt cùng tên cho một loài
cây mà loài cây này có cành uốn khúc đi xuống, và trong cả hai
trường hợp thì phong cách này phát sinh từ chỗ các cành cây trong
giống vòi bạch tuộc.
Phong cách rễ cây liên kết
Một cụm cây tách biệt có cùng nguồn rễ. Nó tương tự như phong cách
bè nổi song lại khác biệt về cách bố trí tự do hơn của các phần cây.
Phong cách này thường được sử dụng với những cây đâm chồi từ rễ,
chẳng hạn như loài cây du.
Phong cách trỗ trôi dạt
Gỗ khô, được sử lý thích hợp, thường được dùng cho phong cách này.
Đôi khi một hoặc hai cành này. Đôi khi một hoặc hai cành phụ được
nối liền bằng mảnh vỏ cây mỏng xuống đến rễ, dùng tạo ấn tượng của
một cây sống sót sau thiên tai trầm trọng.
Phong cách uốn khúc
Phong cách này xưa kia khá thịnh hành song hiện tại hiếm có, mặc dù
có một vài mẫu cây rất cổ ở Nhật Bản được thu thập. Thân cây tạo
thành một hay nhiều đường cong cuộn vào nhau, loại cây Bonsai, nhất
là giống tùng bách Pinus Parvuflora, được truyền cảm hứng từ phong
cách này, đã được phổ biến kể từ thế kỷ 17.
Phong cách trí thức
Giản dị và tao nhã, phong cách được cho là đã được truyền nguồn cảm
hứng từ các bức họa cổ Trung Hoa miêu tả cây cối như các bóng sẫm
trên nền trời trên núi cao. Nét đặc trưng nổi bật của phong cách là thân
cây dài không cân xứng được chứa trong một chậu nhỏ hình tròn hoặc
hình thuẫn. Thân cây thon đơn độc chịu nhiều cành nhỏ mà phần lớn
các cành này tập trung về phía chóp cây.
Phong cách rễ lộ thiên
Một vài rễ lớn lộ thiên đi theo đường thẳng cua thân cây trong khi các
rễ khác, thường nhỏ hơn, phát sinh từ chúng: Cây có vẻ như bị treo lơ
lửng và tác dụng gây ấn tượng tòan diện là sự thanh thóat. Phong cách
này ít khi được sử dụng hiện nay nhưng đã có lúc rất thịnh hành.
Phong cách cành chổi
Một vài cành chính được bố trí trong hình tròn quanh thân cây để
chống đỡ vô số nhánh nhỏ làm thành một vòm cây có hình thuẫn hoặc
tròn ngay phía gốc thân cây. Cây nằm ở vị trí hơi chệch giữa chậu
thường rất cạn. Phong cách này thường được sử dụng với giống cây du
Zelkova ở Nhật Bản
Phong cách lộng gió
Phong cách này diễn tả nổi bật một cây bị gió uốn nắn và bị nghiêng ở
góc 45 độ hoặc nhiều hơn. Bởi nguyên nhân này sự phát triển của phần
trên cao nằm ở vị trí bên trong phần xiên, trong khi các bộ phận chất có
thể có ở phía đối nghịch và ở chóp cây. Cây được trồng trong một chậu
khá cạn ở phía đối nghịch với hướng nghiêng.
Phong cách thác đổ
Tương tự như Phong cách nửa thác đổ phong cách này có sự khác biệt
là chóp cây vượt quá chiều cao của chậu. Cành lá cũng có thể mọc hẳn
bên ngoài chậu ở hướng đối nghịch với gốc thân cây mà chạm đến vành
chậu. Vật chứa bắt buộc phải chọn cao và chậu phải chọn cho nó là một
yếu tố quyết định trong ấn tượng sau cùng của tác phẩm.
Phong cách nửa thác đổ
Cây được trồng đối nghịch với phía treo lơ lửng xuống từ phía trên,
nằm ở trên đường cong trong cành chính, chóp cây kia ở phía dưới
trong giới hạn tăng trưởng của cây . Chóp cây dưới không được mọc
quá chiều cao của chậu. Đôi khi sự mọc lá chỉ xuất hiện hướng về gốc
thân cây mà trường hợp này lại tối quan trọng.
Phong cách thẳng đứng phóng khoáng
Mặc dù lúc ban đầu không được chấp nhận như một phong cách
đích thực, song song cách này càng ngày càng trở nên phổ biến.
Không phải chỉ vì nó có nhiều mẫu hình trong thiên nhiên mà vì nó
cho phép sự uyển chuyển hơn và ít ràng buộc với các quy luật, bởi
vì nó kết hợp những nét đặc trưng của nhiều phong cách khác nhau.
Chóp cây dốc xuống phần gốc, như trong phong cách thẳng đứng,
nhưng lại khác biệt ở sự phát triển của thân cây đi hơi giống hình chữ chi lên phía trên.
Các cành xuất phát từ phía ngoài của các đường cong và hơn cong nhẹ xuống dưới.
Phong cách thẳng đứng sang trọng
Dáng cây thẳng đứng với chóp cây dốc xuống dốc thân cây, các cành
cây được cân bằng ở ba phần, mọc xen kẽ đối xứng mọc theo thân cây
và thon dần về phía chóp cây. Cành thứ nhất khoảng chừng một phần
ba của chiều cao tổng thể, quyết định vị trí của cây trong chậu, được
đặt về phía đối nghịch với phía cành đang chĩa về hướng chúng ta.
Phong cách nghiêng
Thân cây ở vị thế nghiêng với chóp cây hướng về góc 45 độ
so với phần gốc cây. Sự phát triển ở trên không và các rễ trên
bề mặt theo đường thẳng của thân cây; tuy nhiên, cành thứ
nhất mọc ở hướng đối nghịch nhằm làm cho cây trông cân
xứng, cành cây này, này ở vị trí một phần ba của đường đi lên
cây, là nhân tố quyết định quan trọng nhằm đạt sự hài hòa
trong phong cách này.
Thế tùng thập
Đây là thế của các cụ ngày xưa dùng làm mẫu để uốn những cây trực
thọ, vì cây tùng có dáng thân đứng thẳng, tàn nhánh phân chi nhị diện
nằm ngang hai bên, với khỏang cách đều đặn, dưới to trên nhỏ rất đẹp.
Cây tùng phải là cây cổ thụ, già nua, rũ tàn nhánh xuống, nhưng vẫn
còn giữ được chữ thập tự nhiên mới thật là đẹp, chớ không phải uốn
ngang tràn cứng ngắc như người đứng giăng tay giữa trời thì không
còn phải cây kiểng nữa. Tướng Tùng thập tượng trưng cho người thanh
niên khỏe mạnh, gan dạ bất khuất, nên phải uốn cho dứt khóat, biểu
hiện cho tính thẳn thắn như người quân tử. Ông cha ta ngày xưa uốn
cây tùng làm mẫu cho những cây kiểng có lá kim khác. Và trong một
giàn kiểng ít ra cũng phải có cây tùng, cây bách để nói lên sự vững chãi lậu bền
Thế chữ vương chữ tường
Cũng như cây tùng thập, thế vương tường uốn theo hình chữ vương,
chữ nho có 3 tầng nằm ngang, như chữ dương là con dê, nhưng còn
đọc là tường có nghĩa là may mắn, điềm tốt lành, như kiết tường dùng
để chúc mừng, để cầu được nhiều điều tốt lành, may mắn, có phước…
Thế này có ba từng nằm ngang và có hai ngọn nhỏ. Thế nay tuy rất
đơn giản nhưng rất khó uốn, cả ba từng đôi, giăng ngang, phải uốn
được ba tàn văn, ba tàn võ, thành ra sáu tàn, dưới to trên nhỏ. Uốn
đúng thế rất đẹp. Cây vương tùng nếu là cây cổ thụ thì quí giá vô
cùng, tượng trưng thiên mệnh ý chí tối cao vô thượng của các bậc vua
chúa.
Thế thất hiền
Thất hiền chiết chi là thế cao lớn nhiều tàn một ngọn cộng chung là
bảy tầng. Bộ rễ sửa chân nôm, thân có thế trực, nhưng uốn bẻ qua bẻ
lại theo tả hữu theo chi âm dương thì hay hơn, nghĩa là đọan thân thứ
nhất cong qua bên phải – cùng với nhánh thứ nhất - Đọan thứ 2 trả về
bên trái: cứ luôn phiên tới từng thứ sáu, đọan ngọn đứng thẳng và uốn
theo kiểu hồi đầu trung, các tàn đều uốn hồng tâm hay tròn lúp búp,
dưới to trên nhỏ, nhánh thứ nhất gọi là phủ địa sà xuống mặt đất,
nhánh thứ hai là triều nhiên uốn hơi vươn lên một chút, đối xứng với
nhánh phủ địa, nhánh thứ 3 là chiếu thủy soi nước phải uốn nằm
ngang hơi hạ xuống để nhìn nước, nhưng do ảnh hưởng của nắng,
ngọn nhánh quang hợp cũng tự vươn lên, nên phải uốn sủa không thể
cho vươn lên cao quá. Nhánh thứ tư là nghinh phong cong qua quẹo
lại, như phe phẩy với gió, đầu cành xoay theo chiều gió như kiểu sơn thủy rất đẹp. Nhánh
thứ 5 là quán vũ, hơn vươn lên để hứng mưa rơi hứng xương tuyết, nhưng phải uốn trở
xuống không để không thể vươn lên quá cao. Nhánh thứ 6 là nhánh trung bình, uốn nằm
ngang, cân đối, không dài không ngắn, kết hợp với các nhánh trưuớc nối liền với ngọn,
uốn hồi đầu trung, để tạo dáng cây hài hòa, đầy đủ tàn nhánh phải luôn luôn uốn tỉa, hễ
cành vươn lên cao thì uốn trở xuống, cành nào thấp quá thì uốn vươn trở lên cho cân đối,
theo câu (Cực dương biến âm, cực âm biến dương) làm sao cho dáng cây kiểng không
khuyết chỗ nào, để khi ngắm nhìn thưởng thức, vừa ý thỏa lòng. Cây thế thất hiền tượng
trưng cho lòng thanh thóat, vô tư, uống rượu ngâm thơ không màn tới thế sự.
Thế vũ trụ
Thế vũ trụ trước tiên phải là cây cổ thụ, gốc rễ lồi lõm, xoè ra bốn
phía, thân to xù xì, đứng thẳng, phân cành nhánh theo lối chiết chi tứ
diện, có thể có từ ba đến năm tàn to, uốn hình quạt, nằm ngang, dưới
to, trên nhỏ, tỉa lúp búp, ngọn uốn hồi đầu thượng, gần như hình nón
chớ không vươn lên cao, Thế này phải uốn đúng luật âm dương, cành
tả, hữu, tiền, hậu đầy đủ, sum suê đầy đặn, tượng trưng cho cả không
gian và cả thời gian và cả thời gian vĩnh cửu.
Thế nhất trụ kình thiên
Thế này ít có người uốn sửa vì thiếu nhã nhặm, khiêm tốn, chọc trời
khuấy nước, kiên cường, bất khuất. Thế này phải là cây cổ thụ trực
thọ, gốc to lớn, rễ vừng chắc, thân gồ ghề, không có nhánh, chỉ có
một tàn ngọn duy nhất bao gồm bốn năm nhánh xoè ra, vươn lên để
chống đỡ, tàn ngọn này phải cắt tỉa bằng phẳng hoặc lúp búp chớ
không so le, biểu tượng cho người anh hùng không phục tùng ai hết
Thế ngũ phúc
Thế tam đa và thế ngũ phúc đi đôi với nhau, hai thế này đều là cây
trực thọ, cây ngũ phúc năm từng, có thể uốn như cây tam đa rồi nuôi
thêm hai tàn nữa y như vậy là đạt. Nhưng cũng có thể đối thành 5
tầng theo lối chiết chi tứ diện cũng được. Những tàn đều phải uốn tỉa
ngang bằng lúp búp chớ không được vươn lên cao. Thế ngũ phúc to
cao đẹp hơn thế Phước, Lộc, Thọ, ý muốn chúc tụng cao hơn nữa là
Phước, Lộc, Thọ, An, Khang, nghĩa là có phúc, tốt lành may mắn, có
lộc giàu có nhiều ruộng đất, có thọ là sống lâu trăm tuổi, An là sống
yên ổn không bị xáo trộn, có khang là vui vẻ, chết êm ải thoải mái.
Đúng là câu chúc tụng đầy đủ đẹp đẽ nhất.
Thế tam đa
Thế tam đa còn gọi tam tài, tam giáo hay là thiên, địa, nhân nữa. thế
này là cây cổ thụ, gốc thân to, nhưng chỉ uốn có ba tán tròn chung
quanh thân cây, tàn thứ nhất là một mâm tròn, hớt tỉa lúp búp, nhưng
nhỏ hơn, mỏng hơn. Tàn thứ ba là tàn ngọn, cách xa hơn tàn thứ hai
xũng hớt tỉa tròn nhưng nhưng nhỏ hơn hai tàn trứơc. Tàn ngọn này
cũng tỉa lúp búp chứ không vươn cao, nên xem cây kiểng này có
dáng lùn mập, nhưng vì là cây cổ thụ nên cũng rất cân đối, rất đẹp.
thế tam đa tuợng trưng cho ba ông Phước, Lộc,Thọ; ba tàn đều tròn
đều đẹp, tượng trưng cho sự vĩnh cửu, sung túc, hạnh phúc, giàu
sang và sống lâu, theo tích ba ông Phước, Lộc, Thọ cũng rất hay.
+ Phước là ông Đậu Vũ Quân, tuổi già mà có con nhỏ là có hạnh
phúc, ý muốn nói có nhiều con
+ Lộc là ông Quách Tử Nghi làm quan to lâu năm, bổng lộc nhiều, ý
muốn nó giàu sang suốt đời.
+ Thọ là ông Đông Phương Sóc, sống lâu một trăm tuổi, đầu râu tóc bạc phơ, ý muốn nói
sống được lâu
Thế này dùng để chúc thọ rất có ý nghĩa đối với người già cả.
Thế trung bình cong
Là thế có thân uốn cong cong như long thân. nếu bộ rễ chân nôm hay
hình thú thì tuyệt đẹp, thân ngay đoạn thứ nhất đã cong về một bên rồi,
tàn thứ nhất phải ngả về hướng thân cây, nhưng đoạn thứ hai phải uốn
cong trở lại quy căn ngay, đến đoạn thứ ba sửa thành cây trực, giữ thế
trung bình. Các chi nhánh đều uốn tứ diện, so le, dưới to trên nhỏ, nhưng
ngọn phải uốn hồi đầu trung như đuôi cá. Cây thế trung bình cong, uốn
được hai cây giống nhau, thì hợp với cây trung bình ngay làm thành bộ
kiểng tam tài ba cây rất đẹp, tương trưng cho thiên, địa nhân.
Thế trung bình ngay
Thế trung bình là thế phổ biến, kiểng xưa còn để lại rất nhiều. Trung
bình là cây độc thụ, thân thẳng đứng có bộ rễ xòe ra, nổi lên trên mặt
chậu, mặt đất, gốc to lồi lõm, nếu được hình thú thì càng tốt, thân xù
xì phân cành nhánh theo lối chiết chi hay tư diện.Nhánh thứ nhất bẻ
về bên dương nếu gốc cây có dáng hơi ngả về bên phải. Đoạn thứ hai
phải uốn trở về bên âm, đoạn thứ ba phải uốn trở lại về bên dương để
quy căn, nhánh thứ ba cũng phải bẻ trở về bên dương, đến đoạn thứ
tư thì nên uốn đứng thẳng đảm bảo ngay gốc, để cây không đổ ngã.
thế kiểng này chỉ uốn hơi nghiêng lại một chút, đến tàn thứ năm là
ngọn phải uốn hồi đầu. thế trung bình ngay là cây kiểng dễ uốn sửa,
chỉ cần phân tàn nhánh cho hài hòa cân đối là đẹp, cũng biểu tượng
về đạo đức, ngay thẳng thật thà.
Thế trực liên chi
Thế trực liên chi cũng là cây có dáng trực, thẳng đứng, biến ra từ thế
trực quân tử, nhưng liên chi là nhiều cành nhánh quấn quýt lấy nhau,
ôm sát thân cây, mới xòe ra ngoài làm tàn theo kiểu tứ diện, sum suê
đầy đủ, mặt nào cũng đẹp, cân đối hài hòa, thành hình chóp dưới to
trên nhỏ, không khuyết chỗ nào rất đẹp, biểu hiện người phong lưu,
ấm no sung mãn, vui tươi hạnh phúc.
Thế trực quân tử
Thế trực quân tử mà ông cha chúng ta rất ưa thích, vì các cụ đều là
những bậc nho sĩ, tôn trọng lễ nghi, tính tình ngay thẳng thanh cao,
người quân tử tánh như thủy, nhu nhi bất nhược, biết xử thế ở đời.
Cây trực quân tử là dáng cây có theá trực thẳng đứng, phong cách
đĩnh đạc, cành nhánh ngay thẳng, gọn gàng, đường nét dứt khoát,
bất khuất. Phân chi theo lối chiết chi hay tứ diện, đủ bốn mặt tả hữu,
trước sau, tàn nhánh đầy đủ, cân đối, biểu hiện cho người có kỷ
cương nề nếp, tài năng, chính nhân quân tử.
Thế trực quân tử liên chi
Thế trực quân tử liên chi: thế này cũng giống như hai thế trên
nhưng lại có hai ba cây tử ở quanh thân cây mẹ. thường là loại cây
mai chiếu thủy, mặc dù thân trực nhưng tàn nhánh cũng ôm lấy
mấy cây con ở bên dưới .Cây tử lại sống độc lập, cây nào cũng có
đủ tàn nhánh như một cây riêng biệt, sống không nhờ cây mẹ, ên
xen như là một quần thụ nhỏ, rất đẹp, tượng trưng cho tình yêu
thương người, nhất là trẻ thơ, lúc nào cũng vui tươi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cacdangbonsaixuavanay.pdf