Một vài tác giả báo cáo rằng sự sung huyết của
tĩnh mạch mạc treo được tìm thấy ở quai ruột thiếu
máu[10,19]; tuy nhiên, dấu hiệu này đã được thấy ở
cả ba nhóm thiếu máu, không thiếu máu và hoại tử
trong nghiên cứu này. Kết quả trong nghiên cứu của
Nakashima chỉ ra rằng dấu hiệu này chỉ xuất hiện ở
những giai đoạn sớm của TRNQK với sự suy giảm của
tĩnh mạch trở về và ruột có thể sống được.Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu này có độ
nhạy và đặc hiệu không cao ở nhóm không thiếu máu
và nhóm thiếu máu. Điều này có thể được giải thích do
dấu hiệu này có thể bị đánh giá sót ở những quai ruột
kín có xuất tiết dịch ra mạc treo và làm mờ, che lấp một
phần các tĩnh mạch này.
Về bệnh học, trong TRNQK, tĩnh mạch trở về từ
quai ruột bị suy giảm trong khi dòng động mạch vẫn
tiếp tục được cung cấp, thành ruột trở nên dày, phù nề
lớp dưới niêm và tạo dấu hiệu “hình bia”. Động mạch bị
thiếu máu làm thành ruột trở nên bắt thuốc kém, giảm
bắt thuốc tĩnh mạch mạc treo. Sự đánh giá kết hợp ba
yếu tố này có thể hữu ích trong việc làm tăng độ chính
xác của các dấu hiệu.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Thứ nhất,
2 bệnh nhân mà không có những dấu hiệu của thiếu
máu ngoại trừ phù mạc treo tương ứng đã được chẩn
đoán là có thiếu máu trong phẫu thuật, thời gian kể
từ lúc CCLVT tới lúc phẫu thuật kéo dài từ 2 giờ đến
22 giờ, có thể đã làm thay đổi tình trạng ruột, và làm
giảm sự tương quan chính xác. Thứ hai, những bệnh
nhân chỉ CCLVT không có thuốc tương phản đã được
loại trừ ra khỏi nghiên cứu. Khi hoại tử ruột rõ ràng
trên phim không thuốc, phẫu thuật cấp cứu được tiến
hành và không có CCLVT có thuốc tương phản trong
những trường hợp đó. Một vài trường hợp có biểu hiện
khí thành ruột hoặc khí tự do trong ổ bụng có thể đã
bị loại khỏi nghiên cứu. Do đó, độ nhạy của dấu hiệu
này có thể bị đánh giá thấp. Thứ ba, hầu hết các bệnh
nhân trong nghiên cứu này chỉ được chụp CLVT thì tĩnh
mạch, nên sự đánh giá bắt thuốc của các mạch máu
mạc treo và bắt thuốc thành ruột chỉ có thể được đánh
giá qua sự so sánh với các quai ruột khác và các đoạn
mạc treo khác chứ không thể so sánh với thì không
thuốc và thì động mạch, đôi lúc sẽ khó khăn cho việc
đánh giá trong trường hợp giảm thể tích tuần hoàn.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các dấu hiệu chụp cắt lớp vi tính chẩn đoán thiếu máu và hoại tử ruột ở tắc ruột non quai kín, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201910
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
CÁC DẤU HIỆU CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH
CHẨN ĐOÁN THIẾU MÁU VÀ HOẠI TỬ
RUỘT Ở TẮC RUỘT NON QUAI KÍN
CT findings for diagnosis of bowel ischemia and
necrosis in closed-loop small-bowel obstruction
Vũ Thị Thu Hương*, Võ Tấn Đức**
Purpose: The aim of this study was to investigate the imaging features
of contrast-enhanced CT (CECT) to diagnosis for bowel ischemiaand necrosis
in closed-loop small-bowel obstruction (CL-SBO), and to predict the need for
intestinal resection or preservation.
Materials and Methods: Thirty-three patients with CL-SBO confirmed
by laparotomy. Based on the surgical findings, these patients were classified
into three groups: necrosis group (n = 9), ischemia without necrosis group (n =
12), and no-ischemia group (n = 12). Two blinded radiologists retrospectively
reviewed CECT including multiplanar reconstruction images and evaluated
11 CT findings. The sensitivity and specificity of each finding were compared
among the three groups, and logistic regression analysis was performed.
Results:Reduced bowel- wall enhancement, reduced enhancement of the
mesenteric veins showed high specificities of 92%, 96% and sensitivities of
62% and 78%, respectively, for the prediction of bowel necrosis in CL-SBO.
The target sign in the ischemia group were 83% and 76%, respectively, for
sensitivities and specificities, compared with 22% and 46% of the necrosis
group. We have included the data in a univariate and multivariate logistic
regression analysis, but there is no correlation between imaging features
and surgical findings. This can be explained by the interval between CT and
laparotomy has altered bowel conditions.
Conclusions: In our prospective patients, reduced enhancements of
bowel wall and mesenteric veins were good indicators of bowel necrosis. On
the contrary, target sign was a predictor of a viable bowel.
Key words: intestinal obstruction, closed loop, ischemia, necrosis,
computed tomography.
* Bộ môn CĐHA, ĐHYD
TP. HCM
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 11
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tắc ruột non quai kín là nguyên nhân phổ biến nhất
của thiếu máu ruột(59-84%)[1-3]. Tắc ruột non có thắt
nghẹt mạch hoặc có biểu hiện thiếu máu thành ruột có tỉ
lệ tử vong cao nếu phẫu thuật muộn [4-6]. Tuy nhiên, trên
thực tế thường không có sự tương quan hoàn toàn giữa
các dấu hiệu CCLVT và kết quả phẫu thuật[7], nguyên
nhân chủ yếu là do thời gian từ lúc CCLVT tới lúc phẫu
thuật đã làm thay đổi tình trạng tưới máu của ruột. Do
đó, cần đánh giá nhiều dấu hiệu hình ảnh cùng lúc để có
thể dự báo gần đúng nhất tình trạng thiếu máu ruột nhằm
giúp chỉ định phẫu thuật sớm, hạn chế tử vong.
Mục tiêu của nghiên cứu này là để tìm các dấu hiệu
hình ảnh trên CCLVT có tiêm tương phản để chẩn đoán
thiếu máu và/hay hoại tử ruột ở tắc ruột non quai kín
nhằm dự đoán sự cần thiết của cắt bỏ ruột hay bảo tồn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sự chấp thuận của bệnh nhân và sự nhận được
thông báo của bệnh nhân đã được miễn trong nghiên
cứu hồi cứu này.Nghiên cứu của tôi đã tuân thủ đúng
những quy định về y đức. Chúng tôi đã xem xét những
bệnh nhân tắc ruột non có chụp CT có thuốc tương phản
trong lần nhập viện này và đã được phẫu thuật trong lần
nhập viện này do tắc ruột, loại trừ những trường hợp
không đủ tiêu chuẩn gồm: chất lượng phim chụp không
đảm bảo, tường trình phẫu thuật không rõ, tắc ruột do
carcinomatosis từ tháng 1/2015 đến hết tháng 2/2018
ở bệnh viện đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh.
33 bệnh nhân có tắc ruột non quai kín thỏa mãn những
điều kiện được đưa vào nghiên cứu.
Do đó, 33 bệnh nhân (14 nam và 19 nữ, tuổi từ 19
đến 93, trung bình 56,4) với TRNQK được xác định bởi
phẫu thuật (n=33). TRNQK trên CLVT đa dãy được xác
định bởi hai nhà chẩn đoán hình ảnh bằng cách dò tìm
quai kín giãn (một đoạn đơn độc của ruột non) và đoạn
gần giãn và sự xẹp của đoạn xa hình ảnh mặt cắt mỏng.
33 bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật với thời gian từ 2
giờ -22 giờ (trung bình 6giờ14phút) sau khi chụp CT.
Những dấu hiệu trên phẫu thuật
Ở 33 bệnh nhân trải qua phẫu thuật, khả năng
sống của ruột được đánh giá bởi sự kiểm tra trong suốt
quá trình phẫu thuật (màu sắc và nhu động của ruột
và mạch đập của các động mạch mạc treo). Dựa trên
những dấu hiệu phẫu thuật, những bệnh nhân được
chia thành ba nhóm (bảng 1): nhóm có bằng chứng của
hoại tử ruột và phải cắt ruột (quai ruột tím đen,thủng,
mất mạch đập, đắp gạc ấm không hồi phục, xuất huyết
mạc treo và thành ruột, n=9), nhóm thiếu máu ruột mà
không phải cắt ruột (quai ruột phù nề, hoặc tím nhẹ,
đắp gạc ấm hồi phục nhu động và màu sắc, n=12) và
nhóm không có thiếu máu ruột (quai ruột hồng, có nhu
động n=12).
Kĩ thuật CCLVT
Những kiểm tra CCLVT được tiến hành với máy
CCLVT đa dãy đầu dò 64 lát cắt (Siemens) hoặc 128
lát cắt (Siemens) CCLVT quét từ cơ hoành tới lỗ bịt,
với các thông số kĩ thuật 120 kV và một ống điều chỉnh
tự động 200-300 mAs cho mỗi hệ thống CCLVT. Sau
khi chuẩn bị, 1 hoặc 2 thì chụp có thuốc tương phản
được tiến hành sử dụng 80-120ml thuốc tương phản
tĩnh mạch (loại thuốc: Ultravist 300mg/ml- 370mg/
ml, Omipaque 300mg/ml – 350mg/ml) với tốc độ tiêm
2,5ml/s. Hình ảnh được thu thập cố định ở mức 60 giây
sau khi chích bằng bolus tương phản tĩnh mạch để đơn
giản hóa quy trình quét. Không có thuốc tương phản
đường uống hoặc trực tràng ở bất kì bệnh nhân nào.
Đánh giá hình ảnh
Trong suốt nghiên cứu này các hình ảnh CCLVT
được xem xét độc lập do hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh
có kinh nghiệm (LDMH và MTT), những người không
biết các dấu hiệu lâm sàng và các kết quả mô bệnh học.
Tất cả các hình ảnh được lưu trữ trên hệ thống PACS.Ở
tất cả các trường hợp, những hình ảnh MPR được dựng
từ hình ảnh mặt cắt ngang với lát cắt dày 1mm.
Những dấu hiệu CCLVT đã được báo cáo là có
giá trị để chẩn đoán thiếu máu ruột liên quan với TRN
[4,1,8,9,10,3]đã được đánh giá: (1) thành ruột dày, được
coi là dày hơn 2mm trong một quai ruột giãn, tuy nhiên,
một phần đánh giá chủ quan do độ khó của việc đo đạc
chính xác bề dày thành ruột; (2) dấu hình bia ( target
sign) là dấu chỉ ra phù dưới niêm; (3) giảm bắt thuốc
tương phản thành ruột, được đánh giá chủ quan bởi sự
bắt thuốc sau 60 giây sau tiêm thuốc tương phản so với
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201912
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
các quai ruột khác; (4) phù mạc treo, được định nghĩa
là sự mờ của đậm độ dịch trong mạc treo của quai kín;
(5) dấu cuộn xoáy, một xoáy của mỡ mạc treo và những
mạch máu gần quai ruột xoắn; (6) giảm bắt thuốc của
các mạch máu mạc treo; (7) sưng phù tĩnh mạch mạc
treo so với những đoạn ruột xa vị trí tắc nghẽn; (8) dấu
phân trong ruột non, được xác định bởi sự xuất hiện
của các bóng khí và các mảnh vụn trong quai kín; (9)
một lượng lớn dịch ổ bụng và (10) khí trong thành ruột
hoặc khí tự do trong ổ bụng
Bảng 1. Các đặc điểm của 33 bệnh nhân với tắc ruột quai kín
Đặc điểm Nhóm không thiếu máu Nhóm thiếu máu Nhóm hoại tử
Số bệnh nhân 12 12 9
Số bệnh nhân nữ 8(67) 7(58) 4(44)
Tuổi 55±17 59±18 54±26
Bảng 2. Giá trị của những dấu hiệu CCLVT chẩn đoán thiếu máu và hoại tử ruột
Kết quả CCLVT
Độ nhạy (%) Độ đặc hiệu (%)
Thiếu máu
hoặc hoại
tử
Hoại tử Thiếu máu
Thiếu máu
hoặc hoại tử Hoại tử Thiếu máu
Dày thành ruột >2mm 17/21 (81) 7/9 (78) 10/12 (83) 6/12 (50) 8/24 (33) 8/21 (38)
Dày thành ruột>5mm 9/21 (43) 3/9 (33) 6/12 (50) 8/12 (67) 14/24 (58) 14/21 (67)
Dh “hình bia” 12/21 (57) 2/9 (22) 10/12 (83) 9/12 (75) 11/24 (46) 16/21 (76)
Giảm bắt thuốc thành ruột 13/21 (62) 9/9 (100) 4/12 (33) 11/12 (92) 19/24 (79) 13/21 (62)
Phù mạc treo 19/21 (90) 9/9 (100) 10/12 (83) 2/12 (17) 4/24 (17) 2/21 (9)
Dấu cuộn xoáy 5/21 (24) 3/9 (33) 2/12 (17) 10/12 (83) 20/24(83) 16/21 (76)
Giảm tăng quang tĩnh
mạch mạc treo tương ứng 8/21 (38) 7/9 (78) 1/12 (8) 12/12 (100) 23/24 (96) 12/21 (57)
Ứ trệ, Giãn tĩnh mạch 5/21 (24) 1/9 (11) 4/12 (33) 9/12 (75) 17/24 (71) 17/21 (81)
Phân trong quai kín 11/21 (52) 6/9 (67) 5/12 (42) 8/12 (67) 15/24 (63) 11/21 (52)
Lượng lớn dịch ổ bụng 8/21 (38) 5/9 (56) 3/12 (25) 8/12 (67) 17/24 (71) 12/21 (57)
Thủng ruột 0/21 (0) 0/9 (0) 0/12 (0) 12/12 (100) 24/24 (100) 21/21 (100)
Bởi vì thiếu máu ruột và hoại tử được cho là sự
diễn biến tuần tự phụ thuộc vào mức độ và thời gian suy
giảm tuần hoàn ruột, một số những dấu hiệu CCLVT
ủng hộ cho hoại tử ruột chồng chéo với những dấu hiệu
gợi ý thiếu máu ruột. Vì thế, độ nhạy và độ đặc hiệu của
mỗi dấu hiệu CCLVT cho thiếu máu ruột, hoại tử ruột và
thiếu máu ruột hoặc hoại tử ruột được tính toán.
Phân tích hồi quy được thực hiện để đánh giá dấu
hiệu CCLVT nào là một dấu hiệu tiên đoán độc lập của
thiếu máu hoặc hoại tử trong TRNQK. Những dấu hiệu
CCLVT với giá trị P < 0,2 trong phân tích đơn biến được
kết hợp vào phân tích đa biến. Tất cả các phân tích
thống kê được thực hiện bởi cách sử dụng phần mềm
Stata 10.2. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê được định
nghĩa là có giá trị P <0,05.
III. KẾT QUẢ
Ở nhóm thiếu máu hoặc hoại tử ruột, dấu hiệu
giảm bắt thuốc thành ruột cho độ nhạy 62% và đặc hiệu
92%, khá tương đồng với nghiên cứu của Nakashima
2014 [11] với độ nhạy và đặc hiệu tương ứng 67%
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 13
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
và 100%, và độ nhạy cao hơn so với nghiên cứu của
Sheedy 2006[3] có độ nhạy là 33,3% và độ đặc hiệu
100%. Dấu hiệu giảm tăng quang tĩnh mạch mạc treo
tương ứng ở nhóm hoại tử ruột cho độ nhạy 78%, độ
đặc hiệu 96%, so với nghiên cứu của Nakashima 2014
với độ nhạy và đặc hiệu tương ứng là 88% và 68%.
Dấu hiệu “hình bia” ở nhóm thiếu máu cho độ nhạy và
độ đặc hiệu khá cao 83% và 76% so với nhóm hoại tử
22% và 46%.
Các bệnh nhân được phẫu thuật sau khi chụp CLVT
trong khoảng 2 giờ - 22 giờ (trung bình 6 giờ14 phút),
so với 1giờ-34giờ trong nghiên cứu của Nakashima[11]
và 2giờ-40giờ trong nghiên cứu của Balthazar 1992[1].
Tần suất của giảm bắt thuốc thành ruột (9/9, 100%) và
sự giảm bắt thuốc của các mạch máu mạc treo tương
ứng (7/9, 78%) là cao đáng kể ở nhóm hoại tử ruột so
với nhóm không thiếu máu. Sự giảm bắt thuốc mạch
máu mạc treo được quan sát ở 7/9 bệnh nhân trong
nhóm hoại tử, cao hơn đáng kể so với nhóm thiếu máu
(1/12). Ở nhóm hoại tử, dấu cuộn xoáy cho độ đặc hiệu
cao(83%) nhưng độ nhạy thấp(33%), còn dấu phù mạc
treo cho độ nhạy cao (100%) nhưng độ đặc hiệu thấp
(17%).
Bảng 3. Phân tích hồi quy cho chẩn đoán thiếu máu và hoại tử ruột
Kết quả CCLVT Đơn biến Đa biến
Thiếu máu
hoặc
hoại tử
Hoại
tử
Thiếu máu
hoặc
hoại tử
Hoại tử
P P P OR P OR
Dày thành ruột > 2mm 0.065 0.528 - - - -
Dày thành ruột > 5mm 0.588 0.66 - - - -
Dh “hình bia” 0.069 0.092 - - - -
Giảm bắt thuốc thành ruột 0.001 - - - - -
Phù mạc treo 0.551 - 0.769
0.509
(0.005-45.939)
- -
Dấu cuộn xoáy 0.624 0.312 - - - -
Giảm tăng quang tĩnh
mạch mạc treo tương ứng
0.0068 0.0025 - - - -
Ứ trệ, giãn tĩnh mạch 0.938 0.254 - - - -
Phân trong quai kín 0.287 0.132 0.141
9.035
(0.483-168.844)
- -
Lượng lớn dịch ổ bụng 0.783 0.165 0.509
0.320
(0.011-9.341)
- -
Thủng ruột - - - - - -
Chúng tôi đã đưa các số liệu vào phân tích hồi
quy đơn biến và đa biến, tuy nhiên không thấy được sự
tương quan giữa các dấu hiệu hình ảnh và kết quả phẫu
thuật. Điều này có thể được giải thích là do khoảng
thời gian từ lúc CCLVT tới lúc phẫu thuật đã làm thay
đổi tình trạng ruột, thêm nữa, cỡ mẫu của chúng tôi
khá nhỏ và đây là một nghiên cứu cắt ngang. Chúng
tôi khuyến nghị nên có nghiên cứu bệnh chứng với cỡ
mẫu lớn hơn để tìm ra yếu tố tương quan thực sự giữa
hình ảnh thiếu máu và phẫu thuật.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201914
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 1. CCLVT bụng chậu có thuốc mặt cắt axial
và coronal của bệnh nhân nữ 56 tuổi có tắc ruột
quai kín và hoại tử ruột cho thấy mạch máu mạc
treo của quai kín thiếu máu tăng quang kém hơn
(mũi tên) so với mạch máu mạc treo của các quai
ruột khác (đầu mũi tên).
Hình 2. CCLVT bụng chậu có thuốc mặt cắt axial
và coronal ở một bệnh nhân nam 19 tuổi với chẩn
đoán tắc ruột quai kín có hoại tử ruột cho thấy quai
kín bắt thuốc kém (mũi tên) so với các quai ruột
còn lại (đầu mũi tên).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 15
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
TRNQK là một dạng tắc nghẽn cơ học mà có
hai hoặc nhiều điểm trên ruột bị tắc nghẽn ở một vị
trí [1,12] và là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra thắt
nghẹt ruột do suy tuần hoàn do sự tham gia của mạc
treo [4,6,1,2]. 59-84% của TRNQK có thiếu máu ruột
hoặc hoại tử [1,2,3,13]; tuy nhiên, quai kín có đôi khi có
thể giải quyết bởi điều trị bảo tồn [10]. Ruột không thể
đảo ngược quá trình thiếu máu (hoại tử) cần được cắt
bỏ, ruột có khả năng hồi phục thiếu máu có thể được
bảo tồn bằng gỡ dính liên tục. Như những kết quả của
chúng tôi cho thấy, TRNQK không có thiếu máu 36%
(12 trường hợp trên 33 trường hợp trong nghiên cứu
này) có thể được quản lý bằng điều trị bảo tồn với theo
dõi sát hoặc chờ phẫu thuật. Nếu CT có thể phân biệt
quai kín có thiếu máu không hồi phục với thiếu máu
trung bình hoặc không thiếu máu, những bệnh nhân với
TRNQK sẽ được phân loại thích hợp để mổ cấp cứu
hay điều trị bảo tồn, bao gồm cả việc chờ phẫu thuật.
Hình ảnh CCLVT đa dãy đầu dò cho độ phân giải
cao và giúp dễ dàng tìm ra dạng quai ruột kín, cụ thể là
giãn quai kín và quai ruột đến, xẹp quai ruột đi. Dựng
hình MPR giúp tìm ra các quai ruột non khó nhìn và
những mạch máu hội tụ ở mạc treo bị ảnh hưởng. Thậm
chí khi sử dụng CCLVT đa dãy đầu dò, chẩn đoán của
thiếu máu ruột thường khó, bởi thiếu máu không thể
được tiên đoán chỉ bởi dạng của quai ruột bị tắc nghẽn.
Một phân tích của Mallo và cộng sự trên 15 nghiên cứu
độc lập đã tìm ra độ nhạy của CT là 83% ( trong khoảng
từ 63-100%) và độ đặc hiệu 92%( trong khoảng từ 61-
100%) trong việc chọn ra những bệnh nhân với thiếu
máu ruột lúc bắt đầu của tắc ruột non [15,14].
Ở CLVT có thuốc tương phản, giảm tăng quang
thành ruột (hình 2) được báo cáo là dấu hiệu trực tiếp
của suy giảm tưới máu của ruột non và là dấu hiệu có
thể nhận biết nhất của thiếu máu ruột trong rất nhiều
nghiên cứu[10,3,16,14,17,18]. Dấu hiệu này có độ đặc
hiệu và độ nhạy tương ứng là 92% và 62% ở nghiên
Hình 3. CCLVT có thuốc cản quang ở bệnh nhân
nam 34 tuổi với chẩn đoán tắc ruột quai kín do
dính, có thiếu máu ruột hồi phục sau khi cắt dây
dính, hình axial và coronal cho thấy dấu hiệu
"hình bia" của quai kín này (mũi tên).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201916
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
cứu của chúng tôi. Dấu hiệu giảm bắt thuốc các mạch
máu mạc treo tương ứng của quai kín, đã được đề
cập đến trong nghiên cứu của Nakashima cho độ nhạy
cao với cả nhóm hoại tử và nhóm thiếu máu hoặc hoại
tử(88% và 70%), ở nghiên cứu của chúng tôi, độ nhạy
tương ứng với hai nhóm này lần lượt là 78% và 38%
nhưng độ đặc hiệu khá cao 96% và 100%, so với 88%
và 68% ở nghiên cứu của Nakashima. Dấu hình bia
trong nghiên cứu của chúng tôi có độ nhạy và đặc hiệu
khá cao 83% và 76% ở nhóm thiếu máu so với nhóm
hoại tử là 22% và 46% tương ứng.
Một vài tác giả báo cáo rằng sự sung huyết của
tĩnh mạch mạc treo được tìm thấy ở quai ruột thiếu
máu[10,19]; tuy nhiên, dấu hiệu này đã được thấy ở
cả ba nhóm thiếu máu, không thiếu máu và hoại tử
trong nghiên cứu này. Kết quả trong nghiên cứu của
Nakashima chỉ ra rằng dấu hiệu này chỉ xuất hiện ở
những giai đoạn sớm của TRNQK với sự suy giảm của
tĩnh mạch trở về và ruột có thể sống được.Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi, dấu hiệu này có độ
nhạy và đặc hiệu không cao ở nhóm không thiếu máu
và nhóm thiếu máu. Điều này có thể được giải thích do
dấu hiệu này có thể bị đánh giá sót ở những quai ruột
kín có xuất tiết dịch ra mạc treo và làm mờ, che lấp một
phần các tĩnh mạch này.
Về bệnh học, trong TRNQK, tĩnh mạch trở về từ
quai ruột bị suy giảm trong khi dòng động mạch vẫn
tiếp tục được cung cấp, thành ruột trở nên dày, phù nề
lớp dưới niêm và tạo dấu hiệu “hình bia”. Động mạch bị
thiếu máu làm thành ruột trở nên bắt thuốc kém, giảm
bắt thuốc tĩnh mạch mạc treo. Sự đánh giá kết hợp ba
yếu tố này có thể hữu ích trong việc làm tăng độ chính
xác của các dấu hiệu.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Thứ nhất,
2 bệnh nhân mà không có những dấu hiệu của thiếu
máu ngoại trừ phù mạc treo tương ứng đã được chẩn
đoán là có thiếu máu trong phẫu thuật, thời gian kể
từ lúc CCLVT tới lúc phẫu thuật kéo dài từ 2 giờ đến
22 giờ, có thể đã làm thay đổi tình trạng ruột, và làm
giảm sự tương quan chính xác. Thứ hai, những bệnh
nhân chỉ CCLVT không có thuốc tương phản đã được
loại trừ ra khỏi nghiên cứu. Khi hoại tử ruột rõ ràng
trên phim không thuốc, phẫu thuật cấp cứu được tiến
hành và không có CCLVT có thuốc tương phản trong
những trường hợp đó. Một vài trường hợp có biểu hiện
khí thành ruột hoặc khí tự do trong ổ bụng có thể đã
bị loại khỏi nghiên cứu. Do đó, độ nhạy của dấu hiệu
này có thể bị đánh giá thấp. Thứ ba, hầu hết các bệnh
nhân trong nghiên cứu này chỉ được chụp CLVT thì tĩnh
mạch, nên sự đánh giá bắt thuốc của các mạch máu
mạc treo và bắt thuốc thành ruột chỉ có thể được đánh
giá qua sự so sánh với các quai ruột khác và các đoạn
mạc treo khác chứ không thể so sánh với thì không
thuốc và thì động mạch, đôi lúc sẽ khó khăn cho việc
đánh giá trong trường hợp giảm thể tích tuần hoàn.
V. KẾT LUẬN
Ở những bệnh nhân được khảo sát của chúng tôi,
sự giảm bắt thuốc thành ruột và các mạch máu mạc
treo tương ứng là một dấu hiệu chỉ điểm tốt cho hoại
tử ruột, còn dấu “hình bia” là một yếu tố dự báo về một
quai ruột thiếu máu có khả năng sống được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Balthazar EJ, Birnbaum BA, Megibow AJ, et al. (1992) Closedloop and strangulating intestinal obstruction: CT
signs. Radiology 185:769–775.
2. Kato K, Mizunuma K, Sugiyama M, et al. (2010) Interobserver agreement on the diagnosis of bowel ischemia:
assessment usingdynamic computed tomography of small bowel obstruction. Jpn J Radiol 28:727–732.
3. Sheedy SP, Earnest FT, Fletcher JG, Fidler JL, Hoskin TL (2006) CT of small-bowel ischemia associated with
obstruction in emergency department patients: diagnostic performance evaluation. Radiology 241:729–736
4. Balthazar EJ (1994) George W. Holmes Lecture. CT of small-bowel obstruction. AJR Am J Roentgenol
162:255–261.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/2019 17
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
5. Fevang BT, Fevang J, Stangeland L, et al. (2000) Complications and death after surgical treatment of small
bowel obstruction: a 35- year institutional experience. Ann Surg 231:529–537.
6. Fager DH, Baer JW (1995) Role of CT in evaluating patients with small-bowel obstruction. Semin Ultrasound
CT MR 16:127–140.
7. Burkill GJ, Bell JR, Healy JC (2001) The utility of computedtomography in acute small bowel obstruction. Clin
Radiol 56:350–359.
8. Frager D, Baer JW, Medwid SW, Rothpearl A, Bossart P (1996) Detection of intestinal ischemia in patients with
acute small-bowel obstruction due to adhesions or hernia: efficacy of CT. AJR Am J Roentgenol 166:67–71.
9. Balthazar EJ, Liebeskind ME, Macari M (1997) Intestinal ischemia in patients in whom small bowel obstruction
is suspected: evaluation of accuracy, limitations, and clinical implications of CT in diagnosis. Radiology
205:519–522.
10. Ha HK, Kim JS, Lee MS, et al. (1997) Differentiation of simple and strangulated small-bowel obstructions:
usefulness of known CT criteria. Radiology 204:507–512.
11. Nakashima K, Ishimaru H,Fujimoto T, et al (2014) Diagnostic performance of CT findings for bowel ischemia
and necrosis in closed-loop small-bowel obstruction.Abdom Imaging 40(5):1097-1103.
12. Furukawa A, Yamasaki M, Furuichi K, et al. (2001) Helical CT in the diagnosis of small bowel obstruction.
Radiographics 21:341–355.
13. Makita O, Ikushima I, Matsumoto N, et al. (1999) CT differentiation between necrotic and nonnecrotic small
bowel in closed loop and strangulating obstruction. Abdom Imaging 24:120–124.
14. Jancelewicz T, Vu LT, Shawo AE, et al. (2009) Predicting strangulated small bowel obstruction: an old problem
revisited. J Gastrointest Surg 13:93–99.
15. Mallo RD, Salem L, Lalani T, Flum DR (2005) Computed tomography diagnosis of ischemia and complete
obstruction insmall bowel obstruction: a systematic review. J Gastrointest Surg 9:690–694.
16. Zalcman M, Sy M, Donckier V, Closset J, Gansbeke DV (2000) Helical CT signs in the diagnosis of intestinal
ischemia in smallbowel obstruction. AJR Am J Roentgenol 175:1601–1607.
17. Boudiaf M, Soyer P, Terem C, et al. (2001) CT evaluation of small bowel obstruction. Radiographics 21:613–624.
18. Assenza M, Ricci G, Macciucca Mde V, et al. (2007) Comparison among preoperative single-slice CT and multi-
slice CT in simple, closed loop and strangulating bowel obstruction. Hepatogastroenterology 54:2017–2023.
19. Nicolaou S, Kai B, Ho S, Su J, Ahamed K (2005) Imaging of acute small-bowel obstruction. AJR Am J
Roentgenol 185:1036–1044.
TÓM TẮT
Mục đích: mục đích của nghiên cứu này là để tìm ra các dấu hiệu hình ảnh trên chụp cắt lớp vi tính (CCLVT) có tiêm
tương phản để chẩn đoán thiếu máu và/hay hoại tử ruột ở tắc ruột non quai kín, nhằm dự đoán sự cần thiết của cắt bỏ ruột hay
bảo tồn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 33 bệnh nhân với TRNQK được xác định bằng phẫu thuật. Dựa trên những dấu
hiệu phẫu thuật, bệnh nhân được chia thành ba nhóm: nhóm hoại tử (n=9), nhóm thiếu máu không có hoại tử (n=12) và nhóm
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 34 - 05/201918
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
không thiếu máu (n=12). Hai bác sĩ chẩn đoán hình ảnh không biết trước kết quả phẫu thuật xem xét lại phim CCLVT có thuốc
tương phản bao gồm tái tạo đa mặt phẳng và đánh giá 11 dấu hiệu CLVT.Độ nhạy và độ đặc hiệu của mỗi dẫu hiệu được so sánh
giữa ba nhóm, và phân tích hồi quy được thực hiện.
Kết quả: giảm tăng quang thành ruột, giảm tăng quang của các tĩnh mạch mạc treo cho thấy độ đặc hiệu cao 92%, 96%
và độ nhạy 62% và 78%, tương ứng, để tiên đoán hoại tử ruột trong TRNQK. Dấu hình bia ở nhóm thiếu máu ruột cho độ nhạy
và độ đặc hiệu tương ứng là 83% và 76% so với 22% và 46% ở nhóm hoại tử ruột. Chúng tôi đã đưa các dữ liệu vào phân tích
hồi quy đơn biến và đa biến, tuy nhiên không tìm thấy sự tương quan giữa các dấu hiệu hình ảnh và phẫu thuật. điều này có thể
được giải thích do thời gian giữa CCLVT và phẫu thuật đã làm thay đổi tình trạng ruột.
Kết luận: Ở những bệnh nhân được khảo sát của chúng tôi, sự giảm bắt thuốc thành ruột và các mạch máu mạc treo tương
ứng là một dấu hiệu chỉ điểm tốt cho hoại tử ruột, còn dấu “hình bia” là một yếu tố dự báo về một quai ruột thiếu máu có khả
năng sống được.
Từ khoá: tắc ruột, quai kín, thiếu máu, hoại tử, cắt lớp vi tính.
Ngày nhân bài 20. 2.2019. ngày chấp nhận đăng: 20.4.2019
Người liên hệ: Võ Tấn Đức, Bộ môn CĐHA, trường đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Email: duc.vt@umc.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_dau_hieu_chup_cat_lop_vi_tinh_chan_doan_thieu_mau_va_hoa.pdf