- Đối với quyền tư pháp:
+ Bảo đảm sự độc lập của Tòa án: Các
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cao cấp
không nằm trong thường vụ tỉnh ủy, hoặc
tỉnh ủy viên. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
tỉnh, cao cấp không tham gia cấp ủy.
+ Nghiên cứu, thực hiện ngân sách
độc lập cho hoạt động của hệ thống Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
+ Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ
pháp lý về kiểm soát các cơ quan trong việc
thực hiện quyền tư pháp theo hướng mở
rộng nghĩa vụ công khai bản án và hồ sơ vụ
án để làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước
khác và báo chí, người dân giám sát xét xử
một cách chính xác, thực chất và hiệu quả.
- Đối với CQĐP: Một thực trạng cần
phải được khắc phục hiện nay là sự chi phối
của UBND đối với cơ quan HĐND còn rất
lớn. Do vậy, cần nghiên cứu theo hướng hạn
chế thấp nhất cán bộ, công chức thuộc hệ
thống hành chính nhà nước tham gia HĐND.
Cần phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm
thông tin của đối tượng chịu sự kiểm soát,
khắc phục tình trạng thiếu thông tin, thông
tin không trung thực trong thực hiện nhiệm
vụ kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
CQĐP. Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ
pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với CQĐP theo hướng chú trọng việc
kiểm soát thực thi công vụ và các nhiệm vụ
được chính quyền trung ương phân công,
phân cấp
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Trịnh Đức Thảo*
* PGS, TS. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
Tóm tắt:
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một chỉnh thể gồm
các thể chế pháp lý, các thiết chế liên quan đến việc kiểm soát
quyền lực nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất, tác
động qua lại, nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước vận hành
theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Để cơ chế
này hoạt động hiệu quả, ngoài yêu cầu đối với mỗi yếu tố của
cơ chế, cần phải có những điều kiện đảm bảo về chính trị - tư
tưởng; điều kiện về pháp lý; điều kiện về kinh tế - xã hội - văn
hóa. Bài viết phân tích thực trạng cơ chế và điều kiện bảo đảm
thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Trên cơ sở đó,
tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Abstract:
Control mechanism of state power is a unified modelity of
the legal institutions and other institutions related to the
control of state power, which are closely related, unified,
interacted to ensure the state power in proper operation
in accordance with the Constitution and the laws. For
effective performance, this mechanism, in addition to
requirements for each element of the mechanism, needs
such conditions of political - ideological stability; legal
conditions; socio-economic and cultural conditions. This
article provides the analysis of the current mechanisms and
the required conditions for the efficient enforcement of the
control mechanism of state power. On that basis, the author
also proposes recommendations to improve the control
mechanism of the state power in Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền lực nhà nước; kiểm soát
quyền lực nhà nước; cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước; thực hiện kiểm soát quyền lực
nhà nước.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 30/10/2017
Biên tập: 09/11/2017
Duyệt bài: 17/11/2017
Article Infomation:
Keywords: state power; state power
control; control mechanism of state power;
enforcement of state power control
Article History:
Received: 30 Oct. 2017
Edited: 09 Nov. 2017
Appproved: 17 Nov. 2017
1. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
và các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước
Có nhiều quan niệm về cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước. Có tác giả cho rằng,
“cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của các
cơ quan nhà nước được hiểu là một chỉnh thể
các thể chế pháp lý và các thiết chế của Nhà
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 24(352) T12/2017
nước có liên quan đến việc kiểm soát quyền
lực nhà nước của các cơ quan nhà nước, gắn
kết chặt chẽ với nhau, cùng vận hành nhằm
ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những
việc làm sai trái của các cơ quan, nhân viên
nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước
được tổ chức và thực hiện theo đúng Hiến
pháp, pháp luật, đúng mục đích mong muốn
và hiệu quả”1. Ý kiến khác lại khẳng định,
“cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng
thể các yếu tố thể chế, thiết chế và các điều
kiện bảo đảm, có mối quan hệ hữu cơ tương
tác lẫn nhau do Hiến pháp và pháp luật quy
định nhằm xác lập và bảo đảm để các chủ
thể thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước
có hiệu quả”2. Kiểm soát quyền lực nhà nước
thông thường được hiểu là một hệ thống
những cơ chế được thực hiện bởi Nhà nước
và xã hội nhằm giữ cho việc thực thi quyền
lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả3.
Các khái niệm trên đây đã khẳng định
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là một
chỉnh thể, có cấu trúc chặt chẽ gồm các thành
tố thể chế pháp lý, thiết chế; đồng thời, có
sự tác động, qua lại chặt chẽ với nhau của
các thành tố tạo nên sự vận động ăn khớp
nhịp nhàng của cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước. Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước không thoát ly khỏi cơ sở hạ tầng mà
được vận hành trong môi trường chính trị -
pháp lý, kinh tế - xã hội và văn hóa của một
quốc gia, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định. Từ những phân tích trên đây, có thể
hiểu: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
là một chỉnh thể gồm các thể chế pháp lý, các
thiết chế liên quan đến việc kiểm soát quyền
lực nhà nước; có mối liên hệ chặt chẽ, thống
nhất; tác động qua lại, được vận hành theo
nội dung và các phương thức do pháp luật quy
định; nhằm phòng ngừa, loại bỏ những nguy
1 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt
Nam hiện nay. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 43.
2 Trần Ngọc Đường (2014) Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta. Hà Nội, tr. 6.
3 Xem Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4 Xem: Nguyễn Đăng Dung (2017), Kiểm soát quyền lực nhà nước. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr. 70; Trần Ngọc
Đường (2014) Báo cáo khoa học Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta. Hà Nội, tr. 7.
cơ, những hành vi vi phạm pháp luật của các
chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước; bảo
đảm quyền lực nhà nước vận hành theo đúng
quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Có thể nhận diện cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước có một số đặc điểm:
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
là một chỉnh thể thống nhất, gồm các thể chế
pháp lý và các thiết chế của cơ chế kiểm soát
quyền lực có mối quan hệ, tác động qua lại,
vận động nhịp nhàng, ăn khớp cùng hướng
đến mục tiêu của hoạt động kiểm soát quyền
lực nhà nước là bảo đảm quyền lực nhà nước
được sử dụng đúng và hiệu quả. Cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước được tiến hành trên
cơ sở Hiến pháp và pháp luật; được kiến tạo
trên cơ sở và nền tảng của các nguyên tắc tổ
chức quyền lực nhà nước trong Nhà nước
pháp quyền XHCN.
Căn cứ vào chủ thể thực hiện kiểm
soát quyền lực nhà nước có thể phân chia
thành cơ chế kiểm soát quyền lực bên ngoài
(Nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước) và
bên trong (các cơ quan nhà nước vận hành
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình
tự kiểm soát lẫn nhau: cơ quan thực hiện
quyền lập pháp - Quốc hội; cơ quan thực
hiện quyền hành pháp - Chính phủ, cơ quan
thực hiện quyền tư pháp - Tòa án nhân dân)4.
Mặc dầu có sự khác nhau về chủ thể, nội
dung, hình thức, phương pháp, trình tự, thủ
tục và hậu quả pháp lý nhưng cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước bên trong và bên
ngoài có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua
lại với nhau, hướng đến mục tiêu chung là
bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng
đúng mục đích và hiệu quả.
Căn cứ theo các lĩnh vực của việc thực
hiện quyền lực nhà nước, có thể phân thành
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 24(352) T12/2017
các cơ chế như cơ chế kiểm soát việc thực
hiện quyền lập pháp; cơ chế kiểm soát việc
thực hiện quyền hành pháp và cơ chế kiểm
soát việc thực hiện quyền tư pháp. Ngay
trong mỗi cơ quan nhà nước, tùy theo vị trí,
tính chất, chức năng mà pháp luật quy định
có những biện pháp, cách thức kiểm soát
quyền lực nhà nước khác nhau. Tuy nhiên,
dù được tổ chức và hoạt động như thế nào
thì đều bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
với cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
nói chung.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
không ngừng vận động, phát triển phù hợp
với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia, phù hợp với trình độ phát triển về
dân chủ ở trên thế giới. Cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước tác động lên các chủ thể
trong quan hệ thực hiện quyền lực nhà nước,
là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng nên
những thay đổi về cơ sở hạ tầng (quan hệ
và phương thức sản xuất) sẽ dẫn đến những
thay đổi trong cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước. Ở mỗi quốc gia, với những giai
đoạn lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội, quan hệ giai cấp mà có
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước khác
nhau nhưng theo quy luật, chúng sẽ phát
triển, hoàn thiện, hiệu quả và tiến bộ.
Các yếu tố của cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước vận hành không bao giờ thoát
ly khỏi môi trường về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định. Những thay đổi về chế độ chính trị,
chế độ kinh tế sẽ dẫn đến thay đổi trong cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước; thậm chí
chúng quy định đến nội dung, mục đích, bản
chất của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước. Do vậy, để cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước vận hành tốt, hiệu quả cần phải có
những điều kiện đảm bảo. Các điều kiện đó
là điều kiện đảm bảo về chính trị - tư tưởng;
điều kiện về pháp lý; điều kiện về kinh tế -
xã hội - văn hóa.
- Điều kiện bảo đảm về chính trị - tư
tưởng: Những đột phá trong nhận thức của
Đảng cầm quyền về kiểm soát quyền lực
nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước vô cùng quan trọng. Những tri thức đó
của Đảng phục vụ cho việc đề ra chủ trương,
chính sách về xây dựng cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước hiệu quả, phù hợp với
điều kiện của đất nước sau quá trình tìm tòi,
khảo cứu các mô hình tổ chức về kiểm soát
quyền lực nhà nước trên thế giới. Nhận thức,
lập trường tư tưởng chính trị của đảng viên,
của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
trong hệ thống chính trị về kiểm soát quyền
lực nhà nước sẽ tạo ra sức mạnh to lớn, lan
tỏa đến các tầng lớp nhân dân, là bảo đảm
vững chắc về chính trị để thực hiện thắng lợi
chủ trương, chính sách về kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
Nhận thức, tri thức khoa học của các
chuyên gia, các nhà khoa học có tác dụng
ảnh hưởng, truyền bá tư tưởng về kiểm soát
quyền lực nhà nước trong xã hội cũng như đề
xuất những quan điểm, những quyết sách về
kiểm soát quyền lực cho Đảng cầm quyền và
Nhà nước. Bên cạnh đó, với tư cách là chủ
thể của kiểm soát quyền lực nhà nước, ý thức
và văn hóa chính trị của các tầng lớp nhân
dân có vai trò to lớn đến việc xây dựng, hoàn
thiện cũng như bảo đảm thực hiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Điều kiện bảo đảm về pháp lý: Trên
phương diện lập pháp, nguyên tắc bảo đảm
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là
một nguyên tắc hiến định cơ bản, làm nền
tảng cho việc kiến tạo một mô hình kiểm
soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân. Bên cạnh đó, nguyên tắc chủ quyền
Nhân dân cũng được ghi nhận và khẳng định
xuyên suốt, nhất quán trong Hiến pháp mới.
Đây là điều kiện để xây dựng và hoàn thiện
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Ngược lại, để tạo ra bảo đảm pháp lý
cần thiết cho cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước, các quy định pháp luật liên quan
đến kiểm soát quyền lực nhà nước quy định
về nguyên tắc, đối tượng, nội dung, trình tự,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 24(352) T12/2017
thủ tục thực hiện kiểm soát quyền lực nhà
nước phải thống nhất, đồng bộ, khả thi với
hệ thống pháp luật nói chung, với hệ thống
pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, với các
quy định pháp luật liên quan đến cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước bên ngoài. Các văn
bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật
liên quan đến tổ chức bộ máy, đến kiểm soát
quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính toàn
diện, thống nhất, khả thi, kỹ thuật lập pháp
hiện đại, phù hợp với trình độ phát triển chính
trị - kinh tế - xã hội - văn hóa của đất nước ở
mỗi giai đoạn lịch sử.
Sự hoàn thiện của cơ chế thực hiện pháp
luật về tổ chức quyền lực nhà nước, quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp cũng là điều kiện
bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Các chủ
thể thực hiện pháp luật (cá nhân, cơ quan, tổ
chức) trong phạm vi, trách nhiệm của mình
tự giác chuyển tải những yêu cầu cuả quy
phạm pháp luật thành những hành vi trên thực
tế. Cùng với đó, các cá nhân, người có thẩm
quyền, các cơ quan áp dụng pháp luật với ý
thức pháp luật cao áp dụng pháp luật chính
xác, xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi
phạm pháp luật sẽ tạo ra một trật tự pháp luật
và pháp chế trong xã hội, góp phần kiểm soát
quyền lực nhà nước có hiệu quả.
- Điều kiện bảo đảm về kinh tế - xã hội
- văn hóa: Là yếu tố của cơ sở hạ tầng, điều
kiện kinh tế của đất nước có vai trò to lớn
trong việc thực thi cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước - một yếu tố thuộc kiến trúc
thượng tầng. Trình độ phát triển kinh tế của
quốc gia là cơ sở để xây dựng và phát triển
trình độ dân trí, trình độ dân chủ, văn minh,
nhân quyền trong xã hội. Đây chính là môi
trường để nuôi dưỡng, khai thác những nhân
tố hợp lý của nền dân chủ - pháp quyền trong
đó chứa đựng cả những mô hình, nguyên
tắc, nội dung của cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước trong các tầng lớp nhân dân. Việc
tổ chức và hoạt động của các thiết chế kiểm
soát quyền lực nhà nước như hệ thống các
cơ quan: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện
kiểm sát, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng
Bầu cử quốc gia, Chính quyền địa phương
(CQĐP) các cấp hay cơ quan chuyên trách
bảo vệ Hiến pháp cũng cần tiềm lực kinh tế,
vật chất.
Bên cạnh đó, các thiết chế kiểm soát
quyền lực của nhân dân, ở mức độ chung
nhất, như Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các
tổ chức thành viên các cấp, Ban Thanh tra
nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng
ở cơ sở cũng cần được tạo điều kiện về trụ sở
làm việc, phương tiện kinh phí, lương và các
chế độ chính sách cho cán bộ để thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của mình. Nếu nền
kinh tế yếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn nhất định sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi
và mức độ hưởng thụ các giá trị dân chủ. Nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây với
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay đã và đang chứng minh cho
những lập luận này.
Yếu tố về xã hội bảo đảm thực hiện
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước là sự
tồn tại và phát triển nền dân chủ trong các
thiết chế như gia đình, cộng đồng, tổ chức
xã hội, các hiệp hội, tập thể lao động. Cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước được vận hành
thuận lợi, hiệu quả cần có sự đồng thuận cả
xã hội, cộng đồng, các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội. Những kết quả kiểm soát quyền
lực nhà nước phải được tôn trọng trong các
tầng lớp nhân dân. Các thiết chế dân chủ ở
cơ sở, cộng đồng có vai trò to lớn, gây “ảnh
hưởng” đến quá trình thực hiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước.
2. Thực trạng cơ chế và các điều kiện bảo
đảm thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết
định bảo đảm hiệu quả cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Sau hơn 30 năm xây dựng Nhà nước pháp
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng. Trên bình
diện nghiên cứu, gần như đã đạt được sự thống
nhất trong những hiểu biết cơ bản trong việc tìm
kiếm mô hình kiểm soát quyền lực nhà nước
trong Nhà nước pháp quyền. Đại hội Đảng lần
thứ XI đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 24(352) T12/2017
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong
đó tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân; tổ chức và hoạt động của
Nhà nước dựa trên một trong những nguyên
tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Như vậy, Đảng
ta đã thừa nhận “kiểm soát quyền lực nhà
nước” là nhiệm vụ quan trọng, là yêu cầu
khách quan trong việc tổ chức và vận hành
của Nhà nước pháp quyền XHCN trong thời
kỳ mới.
Có thể nói, những chủ trương, chính
sách của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà
nước là điều kiện tiên quyết để tiếp tục hoàn
thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
ở Việt Nam trong thời gian tới. Cùng với
sự khẳng định chính thức quan điểm về sự
thống nhất của quyền lực nhà nước và sự
tồn tại của ba bộ phận quyền lực lập pháp,
hành pháp và tư pháp, Đảng luôn giữ vững
được vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng từng bước tìm tòi và dẫn dắt quá trình
nhận thức cũng như quá trình thể chế hóa các
quan điểm, tư tưởng về kiểm soát quyền lực
nhà nước trong đó nguyên tắc phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp ngày càng thể hiện rõ
hơn, sinh động hơn trong đời sống của Nhà
nước. Nguyên tắc này luôn được quán triệt,
bảo đảm sự thống nhất về nhận thức và hành
động của đảng viên, đội ngũ cán bộ, công
chức. Môi trường chính trị ổn định ở Việt
Nam trong nhiều thập kỷ qua là những bảo
đảm về chính trị đối với việc thực hiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta.
Sự ổn định về chính trị đã tạo ra môi trường
để thực hành dân chủ trong các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện tốt cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Điều kiện về pháp lý bảo đảm thực
hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
tiếp tục là nhân tố quyết định, được Đảng
và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thời gian
qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế kiểm soát
quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong
việc hiến định cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước, thể hiện qua việc bổ sung quy
định về sự “kiểm soát” lẫn nhau (bên cạnh
sự phân công, phối hợp) giữa các cơ quan
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013
đã bổ sung quy định về hai cơ quan hiến
định độc lập (Hội đồng Bầu cử quốc gia và
Kiểm toán Nhà nước) và quy định về thành
lập một cơ chế bảo vệ Hiến pháp - là những
thiết chế mới trong cơ chế kiểm soát quyền
lực bên trong bộ máy nhà nước. Các văn
bản luật hiện hành như Luật Tổ chức Quốc
hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, Luật Tổ chức CQĐP, Luật
Thanh tra, Luật về Hoạt động giám sát của
Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và
đại biểu HĐND, Luật Kiểm toán nhà nước,
Luật MTTQ, Luật Tiếp cận thông tin, Luật
Phòng, chống tham nhũng bước đầu kiểm
soát quyền lực nhà nước được tạo ra những
bảo đảm pháp lý cần thiết để xây dựng và
kiến tạo mô hình tổ chức và cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lập pháp: Quốc hội
với tư cách, vị trí và tính chất pháp lý là “cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất”, ngoài
chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định
những vấn đề trọng đại của đất nước, còn có
chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước. Để bảo đảm quyền
giám sát tối cao của Quốc hội, khi Quốc
hội không họp, Hiến pháp trao cho cơ quan
thường trực của Quốc hội - Ủy ban thường
vụ Quốc hội chức năng giám sát. Các cơ
quan thuộc Quốc hội như Hội đồng Dân tộc
và các Ủy ban theo thẩm quyền thực hiện
nhiệm vụ kiểm soát đối với các đối tượng
chịu sự kiểm soát. Kiểm soát của Quốc hội
đối với các cơ quan khác của Nhà nước còn
được thực hiện thông qua quyền chất vấn
của các đại biểu Quốc hội.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 24(352) T12/2017
Kiểm soát quyền hành pháp: Hiến
pháp, pháp luật đã bổ sung những quy định
về kiểm soát của Quốc hội và Chủ tịch nước
với Chính phủ cả về nhân sự và hoạt động;
về kiểm soát của Toà án và Viện kiểm sát
với việc thực hiện quyền hành pháp (thông
qua xét xử của Toà hành chính và chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát). Bản thân
hệ thống cơ quan hành chính cũng có thiết
chế kiểm soát nội bộ là cơ quan thanh tra.
Có thể nói, về mặt thiết chế, trong số ba cơ
quan quyền lực nhà nước, kiểm soát với cơ
quan hành pháp hiện mang tính toàn diện, cụ
thể hơn cả. Các thiết chế đa dạng, phong phú
gồm các thiết chế trong bộ máy nhà nước,
thiết chế bên ngoài nhà nước, tạo ra sự phối
hợp nhịp nhàng trong thực hiện nhiệm vụ
kiểm soát quyền lực đối với hệ thống cơ
quan hành pháp.
Kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp
được thực hiện bởi nhiều chủ thể như Quốc
hội và HĐND các cấp, hệ thống cơ quan
hành pháp, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
và hệ thống Tòa án - tự thực hiện nhiệm vụ
kiểm sát trong nội bộ ngành. Bên cạnh đó,
MTTQ và các tổ chức thành viên kiểm soát
hoạt động tư pháp thông qua việc cử và thực
hiện chế độ Hội thẩm nhân dân trong hoạt
động xét xử của Tòa án, tham gia hoạt động
giám sát các cơ quan và người tiến hành tố
tụng, tham gia Hội đồng tuyển chọn thẩm
phán và các chức danh tư pháp.
Hiến pháp năm 2013 tạo cơ sở pháp lý
vững chắc để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
mô hình CQĐP, trong đó có nhiều quy định
liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với tổ chức và hoạt động của CQĐP.
Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với CQĐP tương đối đầy đủ, hoàn
thiện. Các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với địa phương ngày càng hoàn
thiện, vị trí, vai trò ngày càng được khẳng
định. Các hình thức kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với địa phương như chất vấn, xem
xét báo cáo, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu
tín nhiệm ngày càng được đổi mới, nâng
cao chất lượng.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên
đây, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước và
những điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
hiện nay tồn tại một số bất cập như sau:
Quá trình thực hiện cơ chế kiểm soát
quyền lực giữa các cơ quan nhà nước từ khi
có Hiến pháp năm 1992 đến nay vẫn bị chi
phối bởi tư duy và nhận thức cũ, chịu sự
ảnh hưởng nặng nề của mô hình tập quyền
XHCN trước đây. Hiến pháp năm 2013 đã
có những thay đổi về nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp” (khoản 3 Điều 2); tuy nhiên trên
thực tế vẫn chưa có sự thống nhất trong nhận
thức về nguyên tắc này. Do vậy, quá trình
thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa
các cơ quan nhà nước chưa tạo ra sức mạnh
tổng hợp, chưa đồng bộ; đồng thời chưa tạo
ra sự phối hợp chặt chẽ của kiểm soát quyền
lực giữa các cơ quan nhà nước với kiểm soát
quyền lực nhà nước từ phía Đảng cầm quyền
và từ phía Nhân dân.
Về cơ chế bảo hiến và kiểm soát quyền
lập pháp: Nội dung bảo hiến còn bị hạn chế,
mới chỉ tập trung vào việc giám sát tính hợp
hiến của các văn bản luật mà chưa bao hàm
các văn bản dưới luật. Quy trình, thủ tục,
trình tự và phương thức hoạt động bảo hiến
còn chưa đầy đủ, cụ thể nên việc xem xét
hành vi bị cho là vi hiến hay văn bản pháp
luật bị cho là trái Hiến pháp không hiệu quả.
Đến nay chúng ta vẫn chưa có thiết chế bảo
vệ Hiến pháp độc lập, như Nghị quyết Đại
hội X của Đảng đã chỉ ra: “Xây dựng cơ chế
phán quyết về những vi phạm Hiến pháp
trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp”. Kiểm soát việc thực hiện quyền lập hiến
ở nước ta không giao cho một cơ quan chuyên
trách, thay vào đó, trách nhiệm bảo hiến thuộc
về Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân, các cơ quan nhà nước khác
và công dân. Tuy nhiên, về lý luận và thực
tiễn thì cơ chế này còn bộc lộ bất cập là việc
bảo hiến được giao cho nhiều cơ quan nên
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 24(352) T12/2017
dẫn đến tình trạng né tránh trách nhiệm.
Quốc hội tự kiểm soát hoạt động của Quốc
hội và các cơ quan thuộc Quốc hội về tính
hợp hiến của các dự án luật trước khi Quốc
hội thảo luận, thông qua (tiền kiểm) nhưng
Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội không
quy định rõ cơ chế, quy trình để Quốc hội tự
xem xét lại tính hợp hiến của các đạo luật.
Pháp luật cũng chưa quy định cụ thể về cách
giải quyết, trách nhiệm của cơ quan thẩm
tra, thẩm định và cơ quan trình dự án luật về
tính hợp hiến của các dự án luật, nghị quyết,
pháp lệnh trong trường hợp có ý kiến khác
nhau về tính hợp hiến giữa Ủy ban Pháp luật
của Quốc hội với cơ quan trình dự án.
Về cơ chế kiểm soát quyền hành pháp:
Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với
Chính phủ chưa thật hiệu quả do thiếu thông
tin; hoạt động giám sát của HĐND đối với
UBND còn nhiều hình thức. Hệ thống cơ
quan Thanh tra Chính phủ và Thanh tra của
các cơ quan quản lý nhà nước có vị trí, vai
trò quan trọng nhưng đây chưa phải là thiết
chế kiểm soát quyền lực mà là phương tiện
chủ yếu phục vụ cho quản lý nhà nước, góp
phần thực hiện chức năng quản lý hành chính
nhà nước. Việc bỏ chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ quan
ngang bộ, CQĐP và các tập đoàn kinh tế nhà
nước của Viện kiểm sát nhân dân để chuyển
cho các cơ quan dân cử và cơ quan thanh
tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp sau khi
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001
dường như đã làm cho việc kiểm soát quyền
lực nhà nước không được tăng cường, nhiều
biểu hiện tiêu cực, tham nhũng phát hiện và
xử lý chậm, không kịp thời5.
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
trong việc thực hiện quyền tư pháp tồn tại
những bất cập: Quốc hội, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội và HĐND kiểm soát đối với
Tòa án còn rất hình thức, không cụ thể, chủ
yếu thông qua báo cáo, chất vấn tại các kỳ
họp của các cơ quan dân cử. Hoạt động
5 Trần Ngọc Đường:“Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta”.
tapchicongsan.org.vn/Home/Xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen/2016/37812/Tiep-tuc-xay-dung-va-hoan-thien-co-che-
kiem-soat-quyen.aspx
6 Huỳnh Đảm (2008) “Nâng cao vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản (792), tr.9-12.
kiểm soát trong nội bộ ngành Tòa án cũng
chưa đạt hiệu quả cao vì pháp luật chưa có
quy định cụ thể về tiêu chuẩn, chất lượng
của một bản án và của quyết định giám đốc
thẩm. Tương tự, pháp luật đang thiếu vắng
những quy định về yêu cầu, trình tự, thủ tục
công bố bản án. Điều này gây ra không ít khó
khăn khi các chủ thể thực hiện quyền kiểm
soát đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm soát hoạt động xét xử của
Tòa án, tuy nhiên thật khó tách bạch giữa hai
chức năng này trong một chủ thể, trong cùng
một thời điểm. Vì vậy, trong nhiều phiên tòa
thiếu sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên
gỡ tội, một số nguyên tắc trong hoạt động
xét xử như công bằng, tranh luận công khai,
bình đẳng chưa được áp dụng triệt để.
Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với CQĐP các cấp còn nhiều hình
thức. Tâm lý nể nang, ngại va chạm, né tránh
đang là những trở ngại trong việc kiểm soát
đối với hoạt động của CQĐP. Bên cạnh đó,
nguồn nhân lực, phương tiện, cơ sở vật chất
để thực hiện nhiệm vụ kiểm soát còn hạn
chế. Hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với CQĐP vì thế chưa cao.
Hệ thống các thiết chế kiểm soát quyền
lực hành pháp bên ngoài như MTTQ và các
tổ chức thành viên chưa phát huy tốt, còn ở
thế bị động, hoạt động của các thiết chế kiểm
soát quyền lực của Nhân dân bị động, phụ
thuộc nhiều vào cơ quan hành chính, thậm
chí có nguy cơ bị hành chính hóa. MTTQ
và các tổ chức thành viên có trách nhiệm giám
sát hoạt động của chính quyền cùng cấp trong
khi luật quy định trách nhiệm của UBND hỗ
trợ kinh phí, phương tiện, điều kiện cho MTTQ
và các đoàn thể thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Điều này dẫn đến hiện tượng chủ thể giám sát
bị “hành chính hóa” hoặc né tránh, ngại va
chạm nên không phát huy được vai trò giám
sát của mình6.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 24(352) T12/2017
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn hiện các
điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
hiện nay
- Xây dựng quyết tâm chính trị cao
trong việc thực hiện chủ trương, quan điểm
của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước.
Tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức và
hành động của các nhà lãnh đạo, quản lý
cao nhất của Đảng và Nhà nước đến những
người tham gia xây dựng và hoạch định
chính sách, pháp luật liên quan đến thực
hiện kiểm soát quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Bởi lẽ, không có quyết tâm
chính trị cao thì chắc chắn không thể nào
thực hiện có hiệu quả kiểm soát được quyền
lực nhà nước. Quyết tâm chính trị là điều
kiện cần thiết để có bản lĩnh tiến hành khoa
học, nghiêm túc việc hoàn thiện pháp luật
và tổ chức thực hiện các nội dung yêu cầu
của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Về nhận thức, cần bảo đảm sự thống
nhất trong nhận thức rằng, kiểm soát quyền
lực nhà nước là yêu cầu khách quan, khoa
học, là xu thế tất yếu, kiểm soát không làm
Nhà nước yếu đi mà ngược lại, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước ngày càng được
nâng cao, càng tăng tính cạnh tranh của Nhà
nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước còn có
tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng
vi phạm pháp luật, lạm quyền, xâm phạm
quyền con người. Bảo đảm sự kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan nhà nước, tức là một
nhánh quyền lực này có thể kiểm soát được
các nhánh quyền lực khác. Bảo đảm có sự
phối hợp chặt chẽ và thực hiện đồng bộ giữa
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của các
thiết chế bên ngoài nhà nước với các thiết
chế kiểm soát bên trong nhà nước, giữa kiểm
soát của xã hội với kiểm soát nhà nước đối
với thực hiện quyền lực nhà nước. Bảo đảm
tất cả các tổ chức, cá nhân được giao thực
hiện quyền lực nhà nước thì đều bị kiểm soát,
không trừ một cơ quan hay cá nhân nào.
- Ý thức pháp luật và văn hóa pháp
lý của cán bộ, công chức, của các tầng lớp
nhân dân có tác động tích cực đến hoạt
động thực hiện cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước. Do vậy, xây dựng và hoàn
thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
trong thời gian tới cần có những biện pháp
để phổ biến, tuyên truyền nâng cao ý thức
pháp luật cho cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân về mục đích, yêu cầu, ý nghĩa
cũng như nội dung của cơ chế pháp lý về
kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Trong Nhà nước pháp quyền XHCN,
quyền lực nhà nước cần phải được kiểm soát
từ bên trong bởi các cơ quan nhà nước và
bên ngoài bởi Nhân dân qua các hình thức
cụ thể. Cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt trong
đó xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của hệ
thống các cơ quan trong bộ máy nhà nước,
người có thẩm quyền trong việc tiếp nhận và
xử lý những kiến nghị kết quả các hình thức
kiểm soát quyền lực nhà nước của Nhân dân
đúng luật định. Ngoài ra, Nhà nước cần có
quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, viên chức, tổ chức
xã hội, tạo điều kiện để cho Nhân dân thực
hiện quyền kiểm tra, giám sát đối với việc
thực hiện quyền lực nhà nước.
Ở cấp độ vĩ mô, cần nghiên cứu xác
định rõ những phương thức kiểm soát quyền
lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp, đặc biệt là những phương thức mà
các cơ quan hành pháp, tư pháp có thể vận
dụng để kiểm soát cơ quan lập pháp và để
hai cơ quan hành pháp và tư pháp kiểm soát
lẫn nhau. Bên cạnh đó, cũng cần nghiên cứu
làm rõ các nội dung, quy trình và cách thức
phân công, phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp để làm tiền đề cho việc kiểm
soát quyền lực của các cơ quan này. Cụ thể:
- Đối với quyền lập pháp:
+ Xác định rõ trách nhiệm của Quốc
hội và trách nhiệm của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, trách nhiệm của Chính phủ và các
chủ thể khác khi tham gia xây dựng, soạn
thảo, chủ trì, thẩm định đối với dự án Pháp
lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội và
Nghị định của Chính phủ.
+ Hoàn thiện cơ chế tự kiểm soát của
Quốc hội: Quy định rõ trình tự, thủ tục để
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 24(352) T12/2017
Quốc hội tự xem xét lại tính hợp hiến của
các đạo luật. Bổ sung các biện pháp xác định
rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan đến
hoạt động kiểm soát các văn bản pháp luật
do Quốc hội ban hành; quy định Quốc hội
có thẩm quyền bãi bỏ những đạo luật có dấu
hiệu trái Hiến pháp.
+ Giao quyền sáng kiến lập pháp cho
Chính phủ, thành lập các nhóm chuyên gia
giúp Chính phủ xây dựng các dự thảo dự án
luật hoặc tiến hành đấu thầu những dự án luật,
giao/khoán cho các tổ chức, các nhà khoa học
am hiểu, các chuyên gia đầu ngành để chuẩn
bị tốt những dự án luật trước khi trình ra Quốc
hội. Phương án này khắc phục tính hình thức
trong quy trình xây dựng và ban hành luật của
Quốc hội, xác định trách nhiệm của các cơ
quan xây dựng và ban hành luật.
- Đối với quyền hành pháp:
+ Tăng cường kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang
bộ bằng hoạt động giám sát tối cao của Quốc
hội và giám sát của Hội đồng Dân tộc, các Ủy
ban của Quốc hội, trong đó tập trung giám sát
việc sử dụng ngân sách hàng năm được Quốc
hội phân cho các Bộ là một trong những nội
dung giám sát hàng đầu.
+ Bổ sung các quy định mới về các
vấn đề như: cơ chế lấy phiếu, bỏ phiếu tín
nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn; cơ chế chịu trách nhiệm tập thể
của Chính phủ trước Quốc hội (bỏ phiếu bất
tín nhiệm Chính phủ)
+ Bên cạnh đó, cần nghiên cứu tăng
cường các quy định để tư pháp kiểm soát
quyền hành pháp thông qua tố tụng hành
chính, bởi đây được xem là một trong những
đặc trưng của Nhà nước pháp quyền và là
cách thức hiệu quả để Toà án kiểm soát
quyền lực của cơ quan hành pháp.
+ Cần coi trọng kiểm soát việc thực hiện
quyền hành pháp trong tổ chức và hoạt động
của lập pháp và tư pháp. Vì trong hoạt động
của cơ quan lập pháp và tư pháp đều có hoạt
động hành chính nhà nước.
+ Tăng cường tính minh bạch, trách
nhiệm giải trình đi đối với phát huy dân chủ,
thực hiện thực tế các quyền tự do dân chủ
của công dân, thừa nhận vai trò của xã hội
dân sự trong kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với việc thực hiện quyền hành pháp.
+ Tăng cường hiệu quả của cơ chế tự
kiểm tra trong hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước, đề cao trách nhiệm cá nhân; áp
dụng chế tài nghiêm khắc đối với người đứng
đầu mỗi cơ quan hành chính nhà nước trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra.
- Đối với quyền tư pháp:
+ Bảo đảm sự độc lập của Tòa án: Các
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cao cấp
không nằm trong thường vụ tỉnh ủy, hoặc
tỉnh ủy viên. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp
tỉnh, cao cấp không tham gia cấp ủy.
+ Nghiên cứu, thực hiện ngân sách
độc lập cho hoạt động của hệ thống Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
+ Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ
pháp lý về kiểm soát các cơ quan trong việc
thực hiện quyền tư pháp theo hướng mở
rộng nghĩa vụ công khai bản án và hồ sơ vụ
án để làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước
khác và báo chí, người dân giám sát xét xử
một cách chính xác, thực chất và hiệu quả.
- Đối với CQĐP: Một thực trạng cần
phải được khắc phục hiện nay là sự chi phối
của UBND đối với cơ quan HĐND còn rất
lớn. Do vậy, cần nghiên cứu theo hướng hạn
chế thấp nhất cán bộ, công chức thuộc hệ
thống hành chính nhà nước tham gia HĐND.
Cần phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm
thông tin của đối tượng chịu sự kiểm soát,
khắc phục tình trạng thiếu thông tin, thông
tin không trung thực trong thực hiện nhiệm
vụ kiểm soát quyền lực nhà nước đối với
CQĐP. Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ
pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước
đối với CQĐP theo hướng chú trọng việc
kiểm soát thực thi công vụ và các nhiệm vụ
được chính quyền trung ương phân công,
phân cấp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 24(352) T12/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_dieu_kien_bao_dam_thuc_hien_co_che_kiem_soat_quyen_luc_n.pdf