Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh.
Trên thực tế thời gian qua FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đã góp phần đáng kể trong công việc cải tạo cơ cấu hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á ( ASEAN ) Việt Nam cần tranh thủ những chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN và Nhật Bản để thu hút vốn từ các cường quốc kinh tế này, phịc vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng thời học tập và rút ra các bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng trong quá trình phất triển kinh tế thị trường và quá tình thu hút và sử dụng vốn đầu tư.
Có thể nói quan hệ với Nhật Bản là cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế và công nghiệp hoá - hiện đậi hoá của Việt Nam. Do đó, có thể thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư tực tiếp, Việt Nam cần phải phát huy tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuâts hướng vào hàng xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển, chắc chắn trong tương lai quan hệ Việt Nam - Nhật Bản sẽ phát triển hơn nữa nhất là trong lĩnh vực đầu tư.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp của Việt Nam đối với thu hút FDI của nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho việc xây dựng lại nền kinh tế Việt Nam và cho phép một cách không chính thức các công ty Nhật Bản buôn bán với Việt Nam .
Từ đầu những năm 1990 cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi khủng hoảng và quan hệ của Việt Nam với nhiều quốc giai phương tây và các tổ trức quốc tế được bình thường hoá. Vào năm 1992, chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam với tổng số 281,2 triệu USD, đưa nước này tự vị trí "không số " lên hàng số một trong các quốc gia DAC tài trợ cho Việt Nam. Theo thống kê chính thức của chính phủ Nhật Bản, thời kỳ 1992 - 1994 tổng tài trợ ODA của nước này cho Việt Nam lên tới 372 triệ USD trong đó tài trợ không chính thức là 116,5 triệu USD. trong những năm gần đây, Việt Nam nhận được một khối lượng lớn tài trợ ODA của Nhật Bản và hiện nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ số 1 cho Việt Nam.
Như vậy, thương mại và viện trợ là hai lĩnh vực đi tiên phong trong mối quan hệ kinh tế và là tiền đề để phát triển đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Những yếu tố tri phối đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Công cuộc đổi mới của Việt Nam diễn ra được vì năm thì trật tự thế giới thay đổi. Cùng với những khó khăn trong nước, Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn do sự tan giã của Liên Xô và chế độ XHCN ở Đông Âu trong đó Liên Xô là nước cung cấp viện trợ lớn nhất và cũng là bạn hàng của Việt Nam trong nhiều năm. Liên Xô tan rã kèm theo đó là sự sụp đổ của thế giới 2 cực, chiến tranh lạnh không còn nữa, thay vào đó là xu thế thế giới đa cực hình thành, quan hệ quốc tế chuyển từ đối kháng quân sự sang phát triển mối quan hệ kinh tế, đã có rất nhiều sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực, châu lục được hình thành như liên minh châu âu. Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ ( NAFTA ) hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương (APEC ). Cùng với sự hợp tác kinh tế, xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang chi phối tát cả các hoạt dộng của đời sống con người.
Phía Việt Nam
Trải qua thời gian dài trong chiến tranh, sau chiến thắng 1975. Việt Nam bắt tay vào xây dựng đất nước. Tại đại hội VI đảng công sản Việt Nam họp 12/ 1986 đã đề ra chính sách đổi mới trong đó chỉ rõ " phải kiên quyết chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ", vận dụng theo cơ chế thị trường có sự quản ly vĩ mô của nhà nước, theo định hướng XHCN.
Về kinh tế, đề ra các chính sách và đổi mới tỏ chức quản lý kninh tế với nội dung chủ yếu: điều chỉnh cơ cấu kinh tế, khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và đổi mớicơ cấu quản lý, phát huy vai trò động lực của khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại .
Việc chuyển sang kinh tế thị trường làm kích thích sản xuất hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh vốn và kỹ thuật hiện đại, đòi hỏi thị trường tiêu thụ rộng lớn. Nền kinh tế thị trường cũng tạo cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thấy một trị trường mở, đa dạng, chứa đựng nhiều lợi nhuận. Đây là nhân tố quan trọng dể thu hút vốn, kỹ thuật trong và ngoài nước.
Về chính trị, thực hiện đang cầm quyền duy nhất và đi theo đường lố dẫn dắt của đảng, mở rộng quan hệ với các nướ không phân biệt chính trị. đây là bước thay đổi cơ bản của chính phủ Việt Nam. Trong khi các nước cùng khu vực đã có bước nhảy vọt về kinh tế thì Việt Nam vẫn trong tình trạmg chậm phát triển do quan hệ dựa vào chínhtrị là chính. Vì vậy, để có thể teo kịp các quốc gia này, Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ hơn nữa, không chỉ bố buộc trong phạm vi khu vực mà trên toàn thế giới. Tại đại hội lần thứ VII, tháng 6/ 1991 Đản đề ra khẩu hệu "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển ". Đảng đã thay đổi chính sách ưu tiên " quan hệ quốc tế XHCN ", coi trọng với các nước XHCN ,mà trung tâm là Liên Xô trước đây vào thực hiện chính sách ngoại giao đa phương dựa vào " quan hệ quốc tế nói chung " không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. quan hệ hợp tác quốc tế không chỉ mở rộngquan hệ kinh tế quốc tế, ổn định,có hoà bình ổn định thì kinh tế mới phát triển.
Về luật pháp, chúng ta ban hành thêm luật mới trong đó có luật đầu tư nước ngoài ban hành tháng 12/ 1987 mở ra một phương thức mới trong hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo cơ sở pháp lý đưa nền kinh tế Việt Nam vào thị trường thế giới theo luật này thì FDI là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam bằng vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính Phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với Việt Nam hoặc tự mình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Để sánh kịp với các quốc gia phát triển trong khu vực và đẩy mạnh quấ trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đang thay đổi mạnh mẽ để phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc thu hút đầu tư nước ngoài là rất cần thiết đặc biệt là đầu tư trực tiếp của Nhật Bản. Nền kinh tế lớn của thế giới, nguồn dự trữ tài chính và có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến nhất.
Phía Nhật Bản
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các khu vực Đông nam á. Từ giữa những năm 80 bắt đầu tăng lên so với nước ngoài, hạn chế khả năng sinh lãi của chúng.Do vậy, để tồn tại và duy trì được sức cạnh tranh các công ty Nhật Bản, nhất là các công ty chế tạo xuất khẩu phải đầu tư ra nước ngoài để lợi dụng chi phí rẻ hơn.
Từ cuối những năm 70 lại đây sự xâm nhập mạnh của các hàng xuất khẩu Nhật Bản đã gây ra những bất bình sâu sắc ở các nước phát triển lẫn đang phát triển Châu á. Tâm lý tẩy tray hàng Nhật Bản và bảo hộ ngày càng nổi rõ ở những nước bạn hàng của Nhật Bản, nhất là Bắc Mỹ và EU. Do đó, tăng FDI và chuyển các cơ sở sản xuất nhất là những cơ sở chế tạo có tiềm năng khẩu cao ra nước ngoài như là một cách để Nhật Bản lẫn tránh xu hướng bảo hộ mậu dịch này.
Nhật Bản vốn vẫn phụ thuộc nặng vào các ngành nguyên nhiên liệu nhập khẩu cho các ngành công nghiệp của mình. Vì vậy, đầu tư ra nước ngoài để xây dựng các nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu an toàn, ổn định và rẻ là chính sách sống còn của Nhật Bản.
Thiếu lao động nhất là lao động có trình độ kỹ thuật cao dã bắt đầu trở thành một vấn đề lớn cho các ngành công nghiệp Nhật Bản. Ngoài việc thiếu lao động tuyệt đối là tình trạng không phù hợp của các kỹ năng trên thị trường lao động nạn thiếu lao động không lành nghề trong ngành chế tạo nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngành xây dựng nghiêm trọng hơn trong ngành dịch vụ. Các công ty phải chia ngày càng nhiều lao động một phần thời gian, lao động nữ và cả lao động nước ngoài. Như vậy vấn đề thiếu lao động đã và sẽ là vấn đề sống còn cho các nhà chế tạo Nhật Bản, đặc biệt trong các ngành cần nhiều lao động.Để kiếm được lao động tốt và tương đối rẻ, họ đã phan phối lại các cơ sở sản xuất của mình sang những nơi có lợi thế về mặt này.
Vào cuối những năm 1980, tình hình kinh tế và tài chính ở Nhật Bản tiến triển khá đặc biệt, tạo điều kiện khá thuận lợi cho các công ty Nhật Bản gây được quỹ để đầu tư với lãi xuất thấp cùng với các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Chính Phủ, các công ty có điều kiện mở rộng kinh doanh của mình ra nước ngoài.
Với những lý do trên đã phần nào giải thích đầu tư trực tiếp Nhật Bản bắt đầu tăng trong khu vực Châu á. Chúng cũng chính là lý do để Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam trong những năm 1980 và sau này và càng nhiều laô động một phần thời gian, lao động nữ và cả lao động nước ngoài. Như vậy, vấn đề thiếu lao động đã và sẽ là vấn đề sống còn cho các nhà chế tạo Nhật Bản, đặc biệt trong các ngành cần nhiều lao động. Để kiếm được lao động tốt và tương đối rẻ, họ đã buộc phải phân bố lại các cơ sở sản xuất của mình sang những nơi có lợi thế về mặt này
Vào cuối những năm 1980, tình hình kinh tế và tài chính ở Nhật Bản tiến triển khá đặc biệt, tạo điều kiện khá thuận lợi cho các công ty Nhật Bản gây được quỹ để đầu tư với lãi suất thấp cùng với các chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài của Chính Phủ, các công ty có điều kiện mở rộng kinh doanh của mình ra nước ngoài
Với những lý do trên đã phần nào giải thích đầu tư trực tiếp Nhật Bản bắt đầu tăng trong khu vực Châu á, chúng cũng chính là lý do để Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam trong những năm 1990
III. Thực trạng đầu tư trực tiếp Nhật Bản vào Việt Nam
1. Tốc độ đầu tư
Nhật Bản bắt đầu đầu tư vào Việt Nam chỉ sau khi Việt Nam ban hành luật đầu tư nước ngoài tháng 12/ 1997
Năm 1989, Nhật Bản có 4 dự án đầu tư tại Việt Nam nhưng những dự án mang tính thăm dò khảo sát trong các ngành cơ khí, chế bién thực phẩm và khách sạn. trong 9 tháng đầu năm 1994, các công ty Nhật Bản cũng chỉ tham gia vào 21 dự án với tổng số vốn đầu tư là 162 triệu USD, tới 107% so với năm 1997. Tính đến hết năm 1994, Nhật Bản đứng hàng thứ 5 trong số các nước chủ yếu đầu tư vào Việt Nam
Đài Loan 2512 (triệu USD)
Hồng Kông 2024
Singapor 1213
Hàn Quốc 1075
Nhật Bản 949
ôxtralia 678
Malaixia 618
Mỹ 517
Nguồn : Uỷ ban hợp tác đầu tư, từ 1988 - 3 / 1995
ở bảng trên cho thấytốc độ đầu tư cả nhật Bản vào Việt Nam là tương đối chậm chạp. So với đầu tư của Nhật Bản ở các nước đang phát triển khác ở Châu á thì số lượng đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam là quá nhỏ. Nếu so sánh đầu tư của Mỹ thì đầu tư của Nhật Bản ở Việt Nam là rất chậm, mặc dù " ccs công ty Mỹ là người đến dự tiệc sau '. Vì mãi đến tháng 2/ 1994 chính quyền Mỹ mới bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Chỉ sau 1 năm, từ 3/ 1994 - 3/ 1995, đầu tư của Mỹ ở Việt Nam đã lên tới con số 517 triệu USSD, đứng thứ 8 trong thứ tự các nước đầu tư ở việt Nam từ năm 1988, sau Đài Loan với tổng số vốn đầu tư 2,5 tỷ USD, tiếp theo là Hồng Kông 2,02 tỷ USD, Xingapor 1,21 tỷ USD. Như vậy, lượng bằng hơn nữa số lượng mà các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam trong tháng 7 năm 1988 - 1994
Thời gian tiếp theo, dưới tác động của đồng yên lên giá, Việt Nam được đánh giá là nước có nhiều hứa hẹn đối với đầu tư ngắn hạn của Nhật Bản, đứng thứ 6 Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ, Inđinôxia, Malaixia và đứng thứ 2 trong số các nước có nhiều hứa hẹn về đầu tư dài hạn chỉ sau Trung Quốc ( 1994 ). Thực tế, trong năm tài chính kết thúc ngày 31/3/1995 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản ở Việt Nam, mặc dù còn nhỏ về số lượng tuyết đối ( 176 triệu USD ) nhưng đã tăng với mức cao nhất 275% so vơí mức tăng 223% ở Philipin ( 668 triệu USD ), 174% ở ấn Độ ( 96 triệu USD ), và 52% ở Trung Quốc. Đầu tư của nhật Bản ở Việt Nam đã tăng rất nhanh vào thời gian đầu 1995 từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 3 trong quí I, rồi vị trí thứ I với 754 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 1995. Tính đến tháng 10/ 1996, Nhật Bản đã có 145 dự án với tổng số vốn đầu tư là 2,3 tỷ USD, đứng thứ 4 trong số các nhà đầu tư lớn nhất vào Việt nam, sau Đài Loan, Singapor và Hàn Quốc. Tuy vậy, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam rất nhỏ, chỉ chiếm 0,2% tổng đầu tư của Nhật ra nuớc ngoài và khoảng 0,7% đầu tư của Nhật vào Châu á, Nhật Bản mới chỉ chiếm 11% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của tất cả các nước trên thế giới vào Việt Nam. Theo báo cáo của bộ kế hoạch và đầu tư, tính từ 1/1/1988 đến hhết năm 1997, Nhật Bản đã đầu tư vào việt Nam 230 dự án với tổng số 3,215 tỷ USD và đến hết tháng 6/ 1998, đầu tư trực tiếp Nhật Bản tại Việt Nam đạt 3,43 tỷ USD với 260 dự án đang hoạt động trong đó có 107 dự án 100% vốn nước ngoài ( trị giá 854,2 triệu USD ), 140 dự án liên doanh ( trị giá 2,18 tỷ USD ) và 15 dự án hợp doanh ( trị giá 401 triệu USD ).
Mặc dù số dự án cũng như số vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ngày càng tăng , nhưng nếu so sánh giữa các nước có nhiều triển vọng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản thì Việt Nam còn thua xa các nước khác. Theo thống kê của ngân hàng eximbank - Nhật Bản, năm 1996 có 4 nước thành viên ASEAN là Thái Lan, Inđinoxia, Malaixia và Philipin là các nước hấp dẫn hàng đầu dối với 361 công ty của Nhật trong đó Thái Lan ( 120 công ty ), Inđinôxia ( 119 công ty ), ấn Độ ( 113 công ty ), Mỹ ( 112 công ty ) Việt nam dứng vị trí hàng cuối cùng ( 87 công ty ) còn Trung Quốc là được các công ty của Nhật đặc biệt chú ý ( 240 công ty ).
Với nền kinh tế đứng ở vị trí thứ hai trên thế giới sau Mỹ vậy mà số dự án cũng như số vốn đầu tư của Nhật vào Việt Nam còn rất hạn chế. Nguyyen nhân nào dẫn đến các công ty Nhật Bản chậm chạp trong hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Nếu như môi trường đầu tư của Việt Nam kém phát triển thì tại sao các nền kinh tế khác Nhật Bản như Đài Loan, Hồng Kông, Singapor và Hàn Quốc lại đầu tư nhanh và nhiều hơn Nhật Bản. Hay do Nhật Bản không đủ mạnh về kinh tế . Một số lý do sau đây sẽ lý giải các câu hỏi trên.
Thứ nhât, do bị chi phối bởi lệnh cấm vận ở Việt Nam, dù sao lợi ích kinh tế của Nhật Bản cần gắn liền và phụ thuộc vào chến lược kinh tế của Mỹ.
Thứ hai, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản vẫn còn hạn chế và mới chỉ thực sự được cải thiện, thúc đẩy sau chiến thăm chính thức của thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt sang thăm đầu năm 1993. Do vậy hạn chế trong quan hệ cũng góp phần hạn chế đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài lúc nào và ở đâu cũng là một cuộc cạnh tranh quyết liệt về việc thu hút vốn đâù tư của các nước trên toàn thế giới, các nền kinh tế mới công nghiệp hoá mới, các nước ASEAN và Trung Quốc luôn là đối thủ cạnh tranh nhau quyết liệt trong việc thu hút vốn đaàu tư của Nhật Bản. Trong khi môi trường đầu tư nước ngoài rõ ràng hơn hản ở Việt Nam cho đến nay, không chỉ có các nhà đầu tư Nhật Bản, mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác nói chung vẫn còn kêu ca, phàn nàn về hệ thống hạ tầng cơ sở ( đường xá, cầu cống ) càng yếu kém, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và giá nhà dất cho thuê quá đắt mặc dù luật đầu tư ở Việt Nam tự do hơn ở các nước khác, nhưng lại thiếu một hệ thống hành chính hoàn chỉnh để thực hiện luật .
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu á đã tác động đến các nền kinh tế trong khu vực, gây bất ổn định khiến các nhà đầu tư vào các khu cực khác an toàn hơn cuộc khủng hoảng này làm cho các nền kinh tế lớn của khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến khó khăn về tài chính. Thêm nữa là đồng yên Nhật bị giảm giá đã kích thích các nhà đầu tư quan tâmđến lợi ích thị trường trong nước. Phía Việt Nam tuy không ảnh hưởng trực tiếp của cu\ộc khủng hoảng nhưng cũng gặp khó khăn và chậm chạp trong việc giải ngân vốn nước ngoài, mà một nửa vốn nhưa được giải ngân lại nằm trong các dự án phát triển bất động sản ( khách sạn, nhà hàng, du lịch..) từ những khó khăn do cuộc khủng hoảng gây ra nên đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong hai năm 1997 - 1998 so với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam các năm trước đó giảm nhiều mặc dù năm 1997 Nhật vào Việt Nam các năm trước đó giảm nhiều mặc dù năm 1997 Nhật Bản đứng thứ hai về số dự án đầu tư ở Việt Nam ( sau Đài Loan 64 dự án ) và đứng thứ hai về tổng số vốn đầu tư (sau Hồng Kông gần 695 triệu USD ) với 54 dự án và gần 606 triệu USD bước sang năm 1998, chỉ tính riêng năm tháng đầu năm, đầu tư nước ngoài của các nước châu á nói chung cũng như của Nhật bản nói riêng vào các thành phố lớn của Việt Nam đều giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong năm 1998 đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ còn 138 triệu USD với 13 dự án.
Tuy nhiên khi nền kinh tế ổn định trở lại, chắc chắn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ tăng lên một cách đáng kể và sẽ dẫn đầu trong 10 các quốc gia đầu tư lớn nhất vào Việt Nam.
2. Cơ cấu, quy mô đầu tư
Thời gian đầu Nhật Bản chủ yếu đầu tư trong các nghành cơ khí, chế biến thực phẩm và khách sạn. Tính đến 1994, Nhật Bản đầu tư cao nhất là hai lĩnh vực là dầu khí ( 9,4% ) và khách sạn du lịch ( 9,4% ) dưới đó là các nghành dịch vụ ( 4,7% ), công nghiệp ( 4,6% ) và ngư nghiệp đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam không chỉ thấp về mức vốn mà còn qui mô dự án .
Bảng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Lĩnh vực đầutư
Dự án
Tổng số vốn ( triệu USD )
% của Nhật Bản trong tổng số vốn
Tổng số
Nhật Bản
Tổng số
Nhật Bản
Công nghiệp
492
40
3838,2
175,4
4,6
Dầu khí
25
4
1284,9
121,4
9,4
Nông lâm nghiệp
75
5
385,8
7,7
2,0
Ngư nghiệp
20
-
60,4
-
-
Giao thông vận tải
Bưu điện
21
-
636,8
-
-
Khách sản, du lịch
104
5
1954,1
9,4
Dịch vụ
127
12
729,6
4,7
Tài chính ngân hàng
15
-
176,6
-
Các ngành khác
930
-
1647,6
-
Tổng số
930
66
9554,0
5,5
Nguồn : Nguyễn xuân Trình, Uỷ ban Nhà nước về hợp tác đầu tư
So với tổng số vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, đầu tư Nhật Bản chỉ chiếm 5,5% trong cả thời kỳ 1988 đến 1994. Sau đó đầu tư của Nhật Bản đã dần dần mở rộng ra lĩnh vực khach như chế biến thực phẩm, điện tử và khai thác dầu khí. Các công ty Nhật Bản đã thành lập 11 liên doanh chế biến thực phẩm để xuất khẩu sang Nhật Bản và chuyển một phần cơ sở chế biến từ Thái Lan sang Việt nam. Sở dĩ Nhật Bản thường đầu tư vốn nhỏ vào Việt Nam là vì cho mãi đến tháng 2/ 1994, sau khi Mỹ đã xoá bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam thì Nhật Bản vẫn còn ở trong giai đoạn xem xét, thăm dò, họ chưa thực sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam. Đa số các dự án vốn đầu tư nhỏ đều sử dụng nhiều lao động mà không có sự khác biệt về chất lượng công nghiệp Việt Nam và công nghiệp Nhật Bản, trong khi giái thành lao động của công nghiệp Việt Nam rất rẻ. Điều đó chứng tỏ Nhật Bản rất quan tâm đến nguồn lao động tiền lương của Việt Nam.
Theo số liệu của vụ Quản lý dự án, bộ kế hoạch và đầu tư, tính 31/ 12/ 1998 thì thấy rằng, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đã bắt đầu có sự đa dạng trong các nghành được đầu tư. Với những nghành có số dự án cao trong thời gian đầu đến nay đã có nhiều dự án về các nghành khác xuất hiện, chủ yếu tập chung vào lĩnh vực công nghiệp then chốt như điện tử, lắp ráp ô tô, sản xuất xi măng và thép. Cơ cấu nghành nghề được điều chỉnh theo lương ngày càng hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp then chốt.
Bảng đầu tư của Nhật vào Việt Nam theo nghành ( tính dến 31/ 12/ 1998)
Nghành
số dự án
Tổng số vốn
vốn thực hiện
Công nghiệp nặng
96
1784
645
Công nghiệp dầu khí
4
131
40
Xây dựn hạ tầng KCN - KCX
1
53
14
Công nghiệp nhẹ
51
250
168
Công nghiệp thực phẩm
14
52
25
Nông lâm nghiệp
16
51
19
Khách sạn, du lịch
7
128
45
Xây dựng văn phòng, cán bộ
13
173
76
Giao thông vận tải, bưu điện
17
405
41
Xây dựng
18
421
95
Văn hoá - y tế - giáo dục
6
34
9
Thuỷ sản
4
14
11
Tài chính - ngân hàng
2
21
15
Nguồn : Báo đầu tư
Về hình thức đầu tư, Việt Nam tiến bộ hơn một số nước khác trong khu vực về hình thức đầu tư vì Việt Nam có quy định cả hình thức đầu tư theo phương pháp hợp đồng hợp tac kinh doanh, trong khi đó các nước khác như : Myama, Lào, Campuchia... thì không có. Trong số các dự án đầu tư của Nhật Bản, có tới 42% là các dự án theohình thức 100%. Mạc dù vốn thực hiện của nhóm dự án này mới đạt khoảng 250 triệu USD, nhưng doanh thu đạt khá lớn ( khoảng 576 triệu USD ). Điều này chứng tỏ hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có hiệu quả rất cao và hình thức đầu tư được các nhà đầu tư Nhật Bản ưa thích bởi tính độc lập, khả năng kiểm soát và hướng toàn bộ lợi nhuận. Hình thức này chủ yếu là các dự án đầu tư vào sản xuất hàng tiêu dùng và lĩnh vực dịch vụ. Nhóm các dự án liên doanh chiếm khoảng 52% số dự án và 62% tổng số đầu tư, với tổng số vốn thực hiện đạt 911 triệu USD và doanh thu khoảng 870 triệu USD. Như vậy, hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện của các nhóm dự án này đạt 90% chủ yếu là các đa chế biến công nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ và dịch vụ. Hình thức còn lại là hợp đồng hợp tac kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các dự án thăm dò khai thác dầu khí. Việt Nam đang khuyến khích doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào những nghành, lĩnh vực cao và có định hướng xuất khẩu.
Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng đã có chuyển biến tích cực. Thời gian đầu, đầu tư vào nước ngoài chủ yếu vào các tỉnh phía Nam, đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố đều có dự án đầu tư nước ngoài, các tỉnh phía bắc đã tập trung được gần 29% số dự án với 39% vốn đầu tư. Riêng thành phố Hồ Chí Minh tập chung được nhiều dự án cũng như vốn dầu tư nước ngoài nhiều nhât, với hơn 90 văn phòng đại diệ của các hãng và ngân hàng Nhật bản, ở Hà Nội có khoảng 60. Đặc biệt là những năm gần đây, có nhiều dự án lớn vào cơ sở hạ tầng như khu chất xuấy Tân Thuận, Linh Trung, dự án bắc nhà bè - Nam Baình Chánh, dự án đô thị mới Nam Sài Gòn và dự án nhà máy nước Bình An. Tuy nhiên, đến năm 1997, tổng số vốn đầu tư nươc ngoài vào thành phố Hồ Chí Minh bị chững lại và có phần suy giảm. Năm 1997, tổng số vốn đầu tư chưa bằng một nửa của năm 1996, chiếm khoảng 1,3 tỷ USD. Đầu tư vào Hà Nội, trong tháng năm đầu của 1997 mặc dù có tăng về số dự án ( 21 dự án ), nhưng số vốn không cònvào ồ ạt như trước nữa. trong số 21 dự án, chỉ có một dự án lắp ráp xe máy Yamaha Co, của Nhật Bản là cos vốn đầu tư nhiều nhất ( 80 triệu USD ), còn lại các dự án khác đều có giá trị dưới 10 triệu USD. Năm 1996, Nhật Bản có 31 dự án với 342 triệu USD vốn đầu tư vào Hà Nội, đứng thứ hai về số dự án ( sau Hồng Kông ) và đứng thứ 5 về vốn đầu tư ( sau Hàn Quốc 744 triệu USD, Singapor 586 triệu USD, úc 399 triệu USD, Thuỵ Điển 387 triệu USD ).
Quy mô trung bình của các dự án đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đến năm 1994 là 4 triệu USd cao hơn một chút so với quy mô trung bình 3,5 triẹu USD của các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam năm 1998 và thấp hơn một nửa quy mô trung bình của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam tính đến năm 1994, với giá trị mỗi dự án là 10 triệu USd. Trong số những dự án này, có nhiều dự án chỉ sử dụng nhiều lao động chứng tỏ các dự án này mang tính chất thăm dò vì đối với các nhà đầu tư vào Nhật Bản, Việt Nam là thị trường có độ rủi do cao.
Với sự trở lại của các công ty lớn ở Việt Nam trong các lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo đã được đầu tư quy mô lớn. Ví dụ : Công ty Misubitsi cùng với các cômg ty yokohama Rubber Co và một công ty Việt Nam với dự án đầu tư ước tính khoảng 60 triệu USD sẽ sản xuất lớp xe ô tô, sản xuất và lắp ráp ô tô, công ty Naruberi quan tâm đến các dự án về cơ sở hạ tầng như mỏ than Hồng gai, khai thác dầu và trạm điện ở Phú Mỹ và Phả Lại, dự án xây dựng xi măng Hoành Bồ và Hoàng Thạch, nhà máy sản xuất mỳ ăn liền, dịch vụ vận tải, nhà máy dệt và các máy móc xây dựng cho thuê.
Tính đến tháng 10 năm 1996, quy mô dự án lớn nhất của Nhật Bản là xây dựng nhà máy xi măng Nghi Sơn với tổng số vốn lên tới 317 triệu USD ký kết với Mitsubisi Co., dự án xây dựng nhà máy ô tôToyota ở Mê Linh và dự án khu công nghiệp Nomura ở Hải Phòng. Hiện nay, hai dự án đầu tư của Nhật Bản đã đi vào hoạt động tại Đồng Nai là công ty Shirassaki và công ty máy tìnhuiisu Việt Nam là hai công ty hoạt động đầu tiên của đầu năm 1999 trong các dự án đầu tư nước ngoài và Fugisu Việt Nam có dự án đầu tư với vốn lớn nhất trong 27 dự án của Nhật tại Đồng Nai.
Hầu hết các tập đoàn công nghiệp lớn Nhật bản đã có vốn đầu tư tại Việt Nam như Mitsubishi, Sony, Nissho, Toyota, Honda, Suzuki... Ngoài các ngân hàng lớn của Nhật Bản như ; ngân hàng Tokyo, ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, ngân hàng Fugitsu cũng có mặt tại Việt Nam. Như vậy là các tổ chức kinh tế - tài chính này đã tìm thấy những lợi nhuận và thuận lợi trong kinh doanh ở Việt Nam nên băt đầu chú trọng đầu tư.
Có thể nói đến thời điểm này chúng ta mới có những nhận xét chính xác trong việc đánh giá cơ cấu ddầu tư nước ngoài cảu Nhật Bản vào Việt Nam theo vùng, lãnh thổ. ậ thời kỳ đầu, đầu tư nước ngoài của Nhật Bản tập chung chủ yếu vào các tỉnh phía Nam, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh và các dự án khai thác dầu khí ở vũng tàu. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có đã có rải rác cácdự án đầu tư nước ngoài của Nhật Bản, các tỉnh phía Bắc tập trung được 20% tổng số các dự án, chiếm khoảng 40% trong tổng vốn đầu tư.
Một số dự án đầu tư của Nhật tại Việt Nam
Tên dự án
Địa phương
Mặt hàng sản xuất
Vốn đầu tư
Khu công nghiệp Bắc Thăng Long
Hà Nội
Xây dựng cơ sở hạ tầng
54 triệu USD
Liên doanh Toyota VN
Vĩnh Phúc
Xe ô tô
90 triệu USD
Liên doanh Sony VN
Tân Bình
Hàng điện tử
17 triệu USD
Liên doanh Thăng Long - Ton
Hà Nội
Xây dựng nền móng
3,5 triệu USD
Nhìn lại tình hình đầu tư
Fuitsu
Đồng Nai
Linh kiện điện tử máy tính
198,8 triệu USD
Goshi - Thăng Long
Hà Nội
Phụ tùng xe máy
13,7 triệu USD
Liên doanh Yamaha Co
Hà Nội
Lắp ráp xe gắn máy
80 triệu USD
Việt Nam đang tiếp tục nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Nhật làm ăn lâu dài và ổn định ở Việt Nam. Mặc dù nằm ngoài phạm vi của cơn bão nhưng những tá động của có đã ảnh hưởng ít nhiều đến các hoạt động đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Theo đánh giá của nhũng nhà chuyên môn, năm 1998 khối lượng vốn FDI của Nhật Bản vẫn đỏ vào Việt Nam là bởi lý do: các dự án dài hạn vẫn đang trong thời gian hoạt động và đương nhiên Nhật Bản vẫn phải tiếp tục theo đuổi những dự án đó đến cùng. Việt Nam cũng mong muốn Chính phủ Nhật Bản tăng cường bảo hiểm và đầu tư khuyến khích các công ty Nhật mở rộng quy mô đầu tư nhất là trong các lĩnh vực khác tài nguyên, đóng tàu, luyện thép, sản xuất xe máy, xăm lốp ô tô, hoá dầu, phân bón, vật liệu xây dựng, điện tử. Chúng ta mong muốn phía Nhật Bản tăng thêm tỷ lệ đầu tư cho ngành nông nghiệp .
Và phát triển nông thôn và tăng cường việc chuyển giao công nghệ
Năm 1999, cùng với xu thế chung của các đối tác trong khu vực,đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam tụt xuống đứng hàng thứ 9 trong các nước đầu tư vào Việt Nam ( chỉ có 13 dự án trong năm với tổng số vốn là 46,97 triệu USD ). Trong 10 tháng đầu của năm 2000, Nhật Bản đã đầu tư thêm vào Việt Nam 19 dự án với số vốn là 56,348 triệu USD, nâng tổng số dự án cho đến tháng 10 năm 2000 của Nhật Bản vào Việt Nam là 227 dự án vơi tổng số vốn là 3582 triệu USD. Mức độ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đã dần tăng lên, tuy nhiên so sánh với giai đoạn trước thì có lẽ đay mới chỉ là bước khởi đầu trở lại của tiến trình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam .
Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam ( 1998 - 2000 )
Tính đến năm
Số dự án được cấp gấy phép
Tổng số vốn đầu tư ( USD )
1998
211
3.550.000.000 USD
1999
212
3.570.940.000 USD
Tháng 10 năm 2000
227
3.852.000.000 USD
Với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay, Việt Nam vẫn được xem là một nước có nhiều tiềm năng khai thác đối với nhiều công ty Nhật. Theo đánh giá của Chủ tịch Uỷ ban hỗn hợp Viêt - Nhật, đồng thời là chủ tịch tập đoàn Sumitomo Keidanren, ông Kẹni Miyahara, Việt Nam đã rất nổ lực trong việc hạn chế những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Tuy nhiên, những nổ lực này cũng không tránh khỏi xu thế chung của toàn khu vực là việc nguồn vốn dầu tư nưóc ngoài bị giảm sút. Theo ong Miyahara, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh, " Cơn bão tiền tệ rồi cũng qua đi. Vì vậy Việt Nam cần phải chuẩn bị tốt hơn nữa để đón nhận làn sóng đầu tư mới của Nhật Bản của các nước khác". Nhiều doanh giai Nhật Bản đánh giá khu vực Châu á, trong đó có Việt Nam vẫn là khu vực đầu tư sản xuất lý tưởng và họ sẽ không bỏ cơ hội này.
3.Tích cực và hạn chế
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986 đã làm cho nền kinh tế thay dổi một cách cơ bản. Những thành tựu đạt được mới là bước đầu, nhưng rất quan trọng, nó là sự mở đầu ttót đẹp cho một quá trình cải cách và xây dựng đất nước lâu dài để có thể bắt kịp với nền kinh té chung của khu vực thế giới. Những khó khăn trong quá trình đổi mới sẽ không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào những nổ lực của bản thân tất nhiên là nhân tố chính nhưng cũng cần có sự hợp tác và viện trợ quốc tế.
Mặt tích cực, đầu tư trực tiếp Nhật Bản đã bổ xung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần đưa dất nước thoat khỏi khủng hoảng đi vào ổn địnhvà phát triển kinh tế, đóng góp đáng kể vào sự thành công của công cuộc đổi mới. Nó cung cấp cho thị trường một lượng hàng hoá lớn, nhấtlà những hàng hoá thay thế nhập khẩunhư xi măng, săt thép, điện tử, điẹn dân dụng, hàng tiêu dùng... góp phần bình ổn cung cầu và giá cả thị trường. đầu tư trực tiếp của Nhật Bản chủ yếu đầu tư vào khu vực công nghiệp, dầu khí, dịch vụ, khách sạn góp phần nâng cao tỷ trọng của các khu vực này trong nền kinh tế. Đặc biệt nhờ có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, nhiều nghành mũi nhọn của nền kinh tế đã xuất hiện như thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất lắp ráp ôtô, xe máy... Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như chế tạo máy và sản phẩm cơ khí điều khiển theo chương trình, dây truyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử. Nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị đã có trong nước là thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khui vực. Hoạt động chuyển giao công nghệ đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt, kiểu dáng đẹp, chất lượng đều đạt tiêu chuẩn Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản không chỉ góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà còn hình thành quan hệ sản xuất mới : Đó là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn. Sự xuát hiện này đã thúc đẩy sự hợp tác và nâng cao sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế. Nó còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước, cải thiện mức sống của người lao động ; lương trung bình cao hơn 30% đến 505 so với công nhân trong các lĩnh vực không có đầu tư, tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng công nghệ và quản lý tiên tiến, rèn luyện về kỷ luật và tác phong lao động ccông nghiẹp.
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản làm tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu các mặt hàng điện tử, hàng thuỷ sản, nông lâm sản.
Bên cạnh đó, còn một số hạn chế của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam như về công tác quy hoạch còn nhiều yếu kém, nhiều nghành công nghiệp do quy hoạch chạm và dự án chưa chính xác nên đã cấp nhiều dự án đầu tư trực tiếp làm cho công suất khai thác đạt mức thấp so với công suất thiết kế ( như các dự án lắp ráp ô tô, xe máy...) gây ảnh hưởng sản xuất trong nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý như tập trung quá nhiều vào ác nghành cônh nghiệp trong khi đầu tư trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản còn quá nhỏ bé so với nhu cầu đầu tư và tiềm năng phát triển. Thị trường và dịch vụ tài chính, ngân hàng còn chưa thực sử mở đối với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản.
Vấn đề nào cũng có mặt mạnh, mặt yếu. Với lĩnh vực dầu tư thì càng không thể tránh khỏi quy luật này. tuy nhiên nếu biết vận dụng nó một cách hợp lý sẽ làm tăng mặt tích cực và giảm các mặt hạn chế. việt Nam đã là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Châu á - Thái Bình Dương, việc hợp tác kinh tế với các quốc gia khác là rất cần thiết, Việt Nam đang từng bước thay đổi và hoàn thiện mình để thu thu hút đầu tư nước ngoài một cách mạnh mẽ và hiệu quả.
Chương III: Giải pháp thu hút dầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Một số vấn đề đặt ra thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật bản tại việt nam
1. Môi tường đầu tư
Các nhà kinh doanh nói chung và nhật bản nói riêng đều cho rằng môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn. Việt Nam mới có thời gian đổi mới 15 năm để chuyển từ một nền kinh tế kế hoạch tập chung, sản xuất nông nghiệp lạc hậu và trong một hoàn cảnh chiến tranh kéo dài sang phát triển nền kinh tế thị trường. Với thời gian như vậy làm sao Việt nam có thể kịp xây dựng được một nền kinh tế có thị trường phát triển đầy đủ như các nước phát triển đã tạo dựng nên qua hàng trăm năm hoặc khoảng 30 - 40 năm. Tuy nhiên, do nhận thức được sự yếu kém về môi trường đầu tư và những cản trở về mặt thủ tục đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã có những cố gắng rất lớn để giảm bớt những khó khăn cho các công ty của Nhật Bản, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư vào Việt Nam.
Môi trường đầu tư ở Việt nam bao gồm nhiều vấn đề cần được phải xem xét.
Thứ nhất, Về cơ sở hạ tầng công nghiệp và xã hội còn nhiều hạn chế
Các nhà kinh doanh Nhật Bản đều có nhận xét, cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn nhiều yếu kém.
Thứ hai, Tính ổn định của hệ thống luật pháp và ý thức chấp hành luật pháp chưa cao.
Nhật bản là một nước kinh tế phát triển, ngoài hệ thống hạ tầng phát triển đầy đủ và đạt mức hoàn thiện, còn có hệ thống pháp luật đầy đủ và mang tính ổn dịnh cao ; ngược lại dối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, tính ổn định chưa cao và ý thức chấp hành luật pháp không nghiêm .
Mối quan hệ giữa hệ thống luật pháp của Nhà nước với việc thi hành của địa phương còn hạn chế, chưa được nhất quán, gây khó khăn, cản trở cho các đối tác đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà kinh doanh Nhật Bản.
" Việt Nam không chỉ thiếu luật mà họ còn thay đổi luật thường xuyên và rất nhanh chóng . Ví dụ như trong lĩnh vực xuất khẩu các tấm nâng hàng bằng gỗ trong khoảng hai năm rưỡi, Chính phủ đã huỷ bỏ rồi ban lẹnh cấm tới 5 lần và cuối cùng đến mùa hè 1994 cấm toàn bộ việc xuất khẩu mặt hàng này để bảo vệ cho đất nước. ý kiến trên từ phía người nhật bản phần nào cũng phản ánh dược thực trạng của hệ thống luật pháp Việt Nam. Một phần do hoàn cảnh khách quan, mặt khác, nhận thức chủ quan vẫn còn hạn chế.
Thứ ba, Những mặt yếu của hệ thống quản lý.
Hệ thống quản lý các hoạt động kinh tế đối ngoịa còn có vấn đề chồng chéo, thiếu tập trung, phân tán và hiệu quả kinh tế chư cao.
Trong một cuộc điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keidanren thực hiện, các nhà kinh doanh Nhật bản đã yêu cầu phải cải thiện điều kiện trong một loạt các lĩnh vực, bao gồm :
Tiếp tục cải thện những điều kiện trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư chủ yếu - như cơ sở hạ tầng, hệ thống luật pháp, thủ tục hành chính và các bảng biểu thống kê.
Phát triển và ổn dịnh nguồn cung cấp điện nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong tương lai, xoá bỏ hệ thống hai giá do Nhà nước thực hiện.
Mở rộng các cảng biển,sân bay giảm mức lẹ phí ở các cửa hàng, tăng hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ giải phóng nhập cảng.
Giảm cước phí diện thoại quốc tế, một mặt phát triển thêm các đường cáp quốc tế ngầm dưới biển có chi phí thấp hơn nhiều so với sử dụng các kênh qua vệ tinh, mặt khác đơn giản hoá các thủ tục cấp phép cho vệc tiếp nhận các chương trình thông qua vệ tinh.
Điều chỉnh các luật lệ về tỷ giá hối đoái, hải quan, thuế quan và sửa đổi các bộ luật về thương mại, gồm có luật công ty, luật chống tơ - rớt, luật dân sự và luật về tài sản trí tuệ.
Thực hiện thống nhất một cơ quan cấp phép đầu tư thông qua SCCI như hội đồng đầu tư ( BOI ) của Thái Lan hoặc MIDA ở Malaixia, xoá bỏ chế độ duyệt trước không chính thức qua nhiều coq quan Chính phủ.
Từ những dẫn chứng trên đây, có thể khẳng định rằng ; Môi trường đầu tư ở Việt Nam có những vấn đề chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư trực tiếp của Nhật Bản.
Tính chất toàn cầu hoá đầu tư trực tiếp của Nhật Bản cao nên yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng cao hơn
Khác với các nhà đầu tư ở Châu á như Hàn Quốc, Hồng kông, Đài Loan, Singapore. Nhật Bản là một nước có tiềm lực kinh tế mạnh, đầu tư khắp thế giới. theo số liệu công bố của ban thư ký ASEAN về phân bố đầu tư trực tiếp của Nhạt Bản ra nước ngoài năm tài chính tích luỹ 1990 - 1998 là 49108,5 tỷ yên, trong số đó vào các nước ASEAN chỉ có 11% ( 5217,7 tỷ yên ). Việt Nam chỉ chiếm có 35 trong tổng đầu tư của Nhật Bản vào Inđônêxia 32%, Thái Lan 23% Singapre 20%, Malaixia 15%, Philippin 8%. Các số liệu trên cho thấy Nhật Bản đã quan tâm đâu tư vào ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng nhưng so với các nước trong khu vực thì Việt Nam còn thua kém hơn nhiều. ở đây cũng cho thấy xu hướng đầu tư của Nhật Bản chủ yếu là vào Bắc Mỹ, chiếm 42%, châu âu 22%. Điều này phản ánh tính chất toàn cầu hoá JDI rất cao, Nhật Bản đầu tư nhiều nhất vào những nơi có cơ sở hạ tầng phat triển, trình độ lao động cao, luật pháp ổn định rõ ràng, mức độ rủi do thấp.
Cùng khu vực với các nước ASEAN, chỉ trên Campuchia và Mianma, trừ Lào và Brunây không có số liệu công bố. Trong khi đó JDI vào Thái Lan gấp 8 lần, vào Malaixia gấp 5lấn so với Việt Nam. Nguyên nhân của vấn đề này là ở đâu? Môi trường đầu tư của Việt Nam chưa đủ sức hấp dẫn đối với Nhật Bản. Các nước và các khu vực khác có lợi thế hơn so với Việt Nam, do là lợi thế cạnh tranh cấp cao, còn lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là lợi thế cạnh tranh cấp thấp. Mặt khác do Nhật Bản có tiềm lực kinh tế mạnh và có nhiều lợi thế cấp cao, nên thị trường của đầu tư Nhật Bản trên phạm vi toàn cầu, điêu, điều đó khác với các đối tác khác như Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Hàn Quốc còn kém Nhật Bản ở nhiều mặt. Vì thế các tập đoàn lớn của Nhật Bản mới chỉ đầu tư vào Việt Nam với tính chất thăm dò và thực sự Việt Nam chưa hấp dẫn đối với Nhật Bản như với các đối tác kể trên
Các giải pháp của Việt Nam đối với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản
Nhận thức đúng vai trò và định hướng rõ ràng vấn đề thu hút FDI từ Nhật Bản
Trong bối cảnh của thế giới hiện nay và trong quan hệ của Việt Nam, với các nước lớn, FDI của Nhật Bản vẫn đóng vai trò quan trọng đối với các nước Châu á, đặc biệt đối với các nước ASEAN. Việt Nam là thành viên của tổ chức các nước ASEAN nên là một trong những địa bàn đầu tư của Nhật Bản. Quan hệ giữa Việt Nam và nhật Bản đang không ngừng phát triển. Nhật bản đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương và ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN và WTO. " Việt Nam là thành viên mới của ASEAN. Hiện nay trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, mặc dù quá trình đàm phán mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu. Nhật Bản hoan nghênh các nền kinh tế chưa phải làthành viên WTO gia nhập tổ chức này.
Nhật Bản hiện là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam, là nước cấp ODA nhiều nhất cho VIệt Nam, đồng thời Nhật Bản đã đứng vị trí thứ tư về FDI tại Việt nam; Do vậy khả năng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam sẽ lớn hơn trong thời gian tới.
Để đẩy nhanh hơn nữa vấn đề thu hút FDI đặc biệt là JDI, chúng ta cần tham khảo kinh ngiệm của các nước như Malaixia, Thái Lan, Singapore, Inđonêxia, Philipin kể cả mặt thành công và thất bại.
Các nước này, họ rất coi trọng JDI, coi đó là yếu tố hữu cơ trong phát triển kinh tế. Và thực tế đã chứng minh rõ ràng nếu như không có FDI nói chung và JDI nói riêng thì các nước ASEAN 5 không thể có sự phát triển như ngày nay. Nhật Bản có lợi thế là gần các nước ASEAN so với mỹ và EU, lợi ích gắn chặt với các nước ASEAN. Bộ ngoại giao Nhật bản đã phát hành ấn phẩm: Nhật Bản và ASEAN hướng tới thế kỷ XXI; điều đó khảng định phía Nhật Bản có chiến lược mở rộng hợp tác tích cực và toàn diện với các nước ASEAN. Nếu chúng ta có chính sách tích cực và ưu tiên hơn đối với Nhật Bản, chắc chắn rằng JDI vào Việt Nam sã tăng lên nhanh chóng, góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển.
Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn hơn hiện nay
Trên cơ sở luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 9/ 6/ 2000, cần chỉ đạo các ban hành kịp thời các thông tư hướng dẫn theo đúng tinh thần của luật đầu tư nước ngoài mới. Cần để phòng tình trạng các bộ trong khi ban hành thông tư hướng dẫn dưa những nội dung mà họ không nhất trí với luật sửa đổi vào các văn bản đó, như thường đã xảy ra
+ Đầu năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã có một số quyết định có liên quan đến đầu tư nước ngoài, đáng tiếc là một số chủ trương đã không được các ngành thực hiện nghiêm túc, do đó làm giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với Chính phủ Ví dụ : Tổng công ty diịe lực Việt Nam cho đến nay vẫn chưa hoàn lại tiền ứng trước của các doanh nghiệp FDI xxây dựng hệ thống cung ứng điện ngoài hàng rào... Thủ tướng Chính phủ cần có thái độ nghiêm khắc hơn đối với những tổ chức và cá nhân không thi hành các quyết định của mình để tạo ra kỷ cương trong hoạt động của bộ máy Nhà nước.
+ Các thủ tục hành chính còn khá phức tạpcuộc cải cách để giảm thiểu các thủ tục phiền hà đang gặp trở ngại lớn chính từ các cán bộ lãnh đạo của bộ, ngành địa phương đụng đến quyền lực và lợi ích của hàng vạn người đã quen với cơ chế xin cho. Môi trường đầu tư có được cải thiện hay không, theo ý kiến của đại bộ phận nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước, chính là có cải cách được bộ máy nhà nước, giảm thiểu được thủ tục hành chính không cần thiết, giảm thiểu chi phí cơ hội, tiíet kiệm thời gian hình thành và triển khai dự án đầu tư... Do vậy, Chính phủ cần nhiều thời gian để chỉ đạo có hiệu lực hơn công cuộc cải cách hành chính, giảm thiểu thủ tục hành chính, cần có các hình thức khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân và tổ chức trong việc thực hiện chủ trương quan trọng và có ý nghĩa thời sự trọng đại này.
+ Cần ban hành, dù dưới dạng thí điểm như đã dự kién, chủ trương cho các doanh nghiệp FDI được phát hành cổ phiếu ở thị trường trong nước và có thể ở cả thị trường nước ngoài để thu hút thêm vốn đầu tư. cần có chủ trươnh về khuyến khích lập các quỹ đầu tư vào Việt Nam, mà hiện nay do ngân hàng nhà nước đang nghiên cứu, chưa được hình thành văn bản pháp quy, nên chưa động viên được sự quan tâm của các nhà đầu tư, như các nước trong khu vực đã và đang làm.
+ Cần nghiên cứu có hệ thống hơn, trên cơ sở đó chuẩn bị có văn bản tốt hơn đối với những vấn đề có liên quan đến hoạt động đầu tư như hệ thống thuế thu nhập cá nhân, hệ thống tín dụng, bảo lãnh đầu tư, những vấn đề có liên quan đến lao động từ việc tuyển chọn, đào tạo tuyển chọ cán bộ, cho đến việc tranh chấp lao động. Thực tế hiện nay đã có đủ cơ sở để tìm ra phương thức giải quyết đúng đắn các vấn đề phức tạp này trong tình hính nước ta, tránh tình trạng các bộ các địa phương tự ý ban hành những quy định trái với tư tưởng chỉ đạo của đảng và nhà nước về khuyến khích đầu tư với nước ngoài.
Cần tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư mạnh mẽ hơn, có trọng điểm thị trường về đầu tư để các công cuộc vận động đầu tư mang lại hiệu quả thiết thực
Đối với thị trường đầu tư, cần có sự phân tích một cách nghiêm túc cái gọi là thị trường truyền thống ở Châu á, để giải thích được những hiện tượng vì sao Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam chỉ bằng 57% Singapore, trong khi đó lại chiếm đến 235 tổng đầu tư vào Thái Lan. Từ đó, có những giải pháp hữu hiệu trong việc xúc tiến đầu tư với các tập đoàn lớn của Nhật Bản, mà có vẻ hiện nay khá nhiều tronh số đó không quan tâm lắm đến thị trường Việt nam, cũng như các công ty vừa và nhỏ. Đối với Đài Loan, Hàn Quốc và thị trường khác cũng cần có sự phân tích cụ thể. Đôi svới các thị trường mới, đặc biệt là Mỹ, cần nghiên cứu có hệ thống từ luật pháp của liên bang, của các bang, các loại hình doanh nghiệp từ lĩnh vực bao gồm cả các công ty vừa và nhỏ để có biện pháp xúc tiến đầu tư phù hợp nhăm lôi kéo bằmg được những nhà đầu tư đối với từng dự án.
Một chương trình xúc tiến đầu tư, có sự phân công giữa các ngành, các địa phương, trên cơ sở định hướng thống nhât, đối với từng thị trường, từng đối tác là rất cần thiết trong điều kiện hiện nay.
Hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
Nhăm nâng cao hiệu quả hoạt động FDI, cần tránh tình trạng sáp nhập, tổ chức mới, giải thể khá tuỳ tiện, mà không tính đến hiệu quả của sự thay đổi với tâm lý nhà đầu tư, cũng như khả năng của quản lý nhà nước đối với FDI
5. Xử lý đối với 4 loại dự án đã có
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động ở Việt Nam cần được phân loại dựa trên thực tế hoạt động kinh doanh của họ hiện na, để đánh giá chính xác hơn về thực trạng, mhững khó khăn, tình trạng lời lỗ của các doanh nghiệp, trên cơ sở đó có giải pháp xử lý đúng đắn.
+ Đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực dầu khí, cần được đánh giá cụ thể tình trạng thăm dò, kết quả các hợp đồng đã được ký cho đến nay năng lực có thể thăm dò của Petrol Việt Nam, khả năng đưa vào khai thác các giếng dầu do nhà đâu tư nước ngoài thăm dò trong thời gian sắp tới, các hoạt động sau khâu khai thác như lọc dầu hoá dầu... để có đước bức tranh tổng quat, nhằm điều chỉnh hợp lý chiến lược của ngành dầu khí trong 5 năm sắp tới.
+ Đối với các dự án công nghiệp, cần được tổng hợp và đánh giá để có một nhận định chính xác về hiệu quả kinh tế xã hội, về tình trạng công nghệ, về ưu thế của từng hình thức đầu tư như liên doanh 100% vốn nước ngoài.
+ Đối với các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao như điện tử, linh kiện điện tử, phần mềm cần xem xét các ưu đãi hiện hành và đối chiếu với mục tiêu phát triển trong giai đoạn sắp tới, đồng thời phân tích kỹ các đối tác đầu tư, để có thể đạo ra được môi trường hấp dẫn, nhằm đặt được mục tiêu tạo ra đột phá chiến lược trong 5 năm sắp tới.
+ Đối với các dư án trong lĩnh vực và dịch vụ, hiẹn đang gặp khó khăn do tình trạng thừ tương đối công suất của các khách sạn, văn phòng cho thuê, do giá cả giảm nhiều vì cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, cần có giải pháp cụ thể đối với từng trường hợp, để cùng với các doanh nghiệp đó tháo gỡ các khó khăn trước mắt, phục hồi hoạt động kinh doanh bình thường.
+ Đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, hàng. không, dịch vụ bảo hiểm, kiểm toán, ngân hàng cũng cần được đánh giá hiệu quả của các doanh nghiệp FDI, các hình thức đầu tư, để có được những chủ trương phù hợp với các cam kết quốc tế mà nước ta phải thực hiện.
+ Đối với các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản, bao gồm các dự án trồng trọt, chăn nuôi, công nghiệp chế biến, mà hoạt động FDI khó chuyển khai thì chưa có phương thức hợp lý, cần được phân tích để tìm ra nguyên nhân chủ yếu, trên cơ sở đó đề ra các chủ trương mới phù hợp hơn.
Việc xử lý đối với các dự án đang hoạt động cần được coi là co stầm quan trọng đặc biệt và cần có chủ trương nhất quán bằng các giải pháp hữu hiệu, khuyến khích đầu tư chiều sâu, mở rộng kinh doanh của các dự án này, để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn, đó cũng là cách tốt nhất biểu hiện môi trưưòng đầu tư tại Việt nam thông qua kết quả hoạt động thiết thực của các dự án này.
b. Đối với các dự án đang triển khai hoạt động mà gặp khó khăn về tài chính hoặc những nguyên nhân khác cần xem xét cụ thể để có biện pháp sử lý hữu hựu, kể cả việc khuyến khích các ngân hàng tài Việt Nam cấp tín dụng đầu tư, hoặc thu hút các nhà đầu tư mới tham gia vào những dự án đó để đưa vào kinh doanh. Một số trường hợp cá biệt như khách sạn Vàng - Hà Nội cần được xử lý, để tránh tình trạng kéo dài vô thời hạn các công trình xây dựng dở dang ở các thành phố lớn.
c. Đối với các dự án chưa triển khai thực hiện, trong báo cáo nội bộ cần phản ánh đầy đủ số lượng dự án, số vốn đầu tư không thể triển khai thực hiện được, để chấm dứt tình trạng ảo tưởng đối với số vốn đầu tư chưa được thực hiện.
d. Đối với những dự án đầu tư còn có hy vọng thực hiện, cần tiếp xúc vơi chủ đầu tư để nhận biết được ý đồ và năng lực thực sự của họ, từ đó để đánh giá chính xác mức độ và thời gian có thể bắt đầu triển khai thực hiện dự án, cũng như đưa dự án vào kinh doanh.
Việc đánh giá 4 loại dự án trên đây là rất cần thiết, để có cơ sở đánh giá tổng vốn đầu tư của các dự án hiện có sẽ được đưa vào hoạt động trong 5 năm sắp tới, mức vốn đầu tư của từng lĩnh vực, từ đó đối chiếu với nhu cầu về vốn đầu tư mà FDI phải đảm nhiệm để có những giả pháp hữu hựu
Kết luận
Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh.
Trên thực tế thời gian qua FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đã góp phần đáng kể trong công việc cải tạo cơ cấu hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á ( ASEAN ) Việt Nam cần tranh thủ những chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN và Nhật Bản để thu hút vốn từ các cường quốc kinh tế này, phịc vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng thời học tập và rút ra các bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng trong quá trình phất triển kinh tế thị trường và quá tình thu hút và sử dụng vốn đầu tư.
Có thể nói quan hệ với Nhật Bản là cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế và công nghiệp hoá - hiện đậi hoá của Việt Nam. Do đó, có thể thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư tực tiếp, Việt Nam cần phải phát huy tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuâts hướng vào hàng xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển, chắc chắn trong tương lai quan hệ Việt Nam - Nhật Bản sẽ phát triển hơn nữa nhất là trong lĩnh vực đầu tư.
Mục Lục
Mở đầu:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp
I. Khái niệm, Đặc điểm của FDI
1. Khái niệm chung về FDI
2. Đặc điểm của FDI
II. Các hình thức FDI
1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
2. Doanh nghiệp liên doanh
3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
III. Vai trò và nhân tố tác động đến FDI
1.Vai trò của FDI
2.1. Đối với quốc gia đi đầu tư
2.Những nhân tố tác động đến FDI
2.2. Đối với quốc gia nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
I. Vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật bản
II. Những yếu tố chi phối đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
1. Phía Việt Nam
2. Phía Nhật Bản
III.Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
1. Tốc độ đầu tư
2. Cơ cấu, quy mô đầu tư
3. Những mặt tích cực và hạn chế
Chương III: Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
I. Một số vấn đề dặt ra để thu hút FDI của Nhật Bản tai Việt Nam
1. Môi trường đầu tư
2. Tính chất toàn cầu hoà đầu tư trực tiếp của Nhật Bản rất cao nên yêu cầu của các nhà đầu tư Nhật Bản cũng càng cao
II. Các giải pháp của Việt Nam đối với thu hút FDI của nhật Bản
1. Nhận thức đúng vai trò và địng hướng rõ ràng vấn đề thu hút FDI từ Nhật Bản
2. Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn hơn hiện nay
3. Cần tổ chức hoạt động xúc tiến đầu tư mạnh mẽ hơn, có trọng điểm về thị trường đầu tư về đối tác đầu tư, để các cuộc vận động đầu tư mang lại hiệu quả thiết thực
4. Hình thành một hệ thống tổ chức hợp lý đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
5. Xử lý đối với 4 loại dự án đã có
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0204.doc