Các giải pháp để nâng cao vai trò TTCK đối với nền kinh tế

Thị trường chứng khoán đã xuất hiện ở trên thế giới lâu rồi. Mấy năm gần đây thị trường chứng khoán mới xuất hiện ở Việt Nam. Tuy mới xuất hiện nhưng TTCK ở Việt Nam đã có những thăng trầm mạnh mẽ. Từ đó cũng thu hút rất nhiều các nhà đầu tư vào thị trường nóng hổi này. Đã có thêm rất nhiều các nhà đầu tư mới tham ra vào thị trường chứng khoán lần đầu tạo ra một sự sôi động trên sàn nhất là hai sàn chính thức tại Hà Nội (HASTC) và Thành Phố HCM (VN - INDEX). Qua các khái niệm ở trên về thị trường chứng khoán đã cho chúng ta thấy rằng thị trường chứng khoán là một nơi đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nó rất dễ sinh lời và cũng rất mạo hiểm đối với các nhà đầu tư. Có rất nhiều nhà đầu tư đã trở thành tỷ phú nhờ thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó có nhiều nhà đầu tư đã khuynh gia bại sản vì TTCK. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã phát triển rất mạnh. Thực chứng cho thấy giờ đây khái niệm về chứng khoán đối với mọi người đều không còn xa lạ nữa. Nhưng mỗi một nhà đầu tư cần phải rất thận trọng khi quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó. Đó chính là rào cản chính đối với các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào thị trường chứng khoán. Muốn vượt qua rào cản đó mà không cần mạo hiểm thì tích lũy cho mình kiến thức về nó là rất cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập, TTCK ở Việt Nam sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Vì vậy việc nghiên cứu về TTCK sẽ không phải là quá sớm đối với các sinh viên học về kinh tế như chúng ta. Các nhà đầu tư ở Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu kĩ về thị trường này bởi nó có thể là nơi mà họ kiếm rất nhiều lợi nhuận. Đề án này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những khái niệm cơ bản về TTCK nói chung và TTCK ở Việt Nam nói riêng. Dựa trên cơ sở những tài liệu thực tế về thị trường chứng khoán ở Việt Nam tôi đã có một số kết luận về TTCK ở Việt Nam. Tuy đã nỗ lực hết mình nhưng đề án cũng không tránh khỏi những thiếu sót do hạn chế về mặt kiến thức cũng như là lần đầu tiên làm một đề án lên còn nhiều bỡ ngỡ. Đây cũng là lần đầu tiên tôi có những nghiên cứu về thị trường chứng khoán nên vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về thị trường chứng khoán nói chung và TTCK ở Việt Nam nói riêng. Theo tôi việc nghiên cứu về TTCK từ bây giờ sẽ không là quá sớm, bởi vì nêú muốn tham gia vào thị trường đang có xu hướng phát triển mạnh tại Việt Nam này thì việc tích lũy cho mình một kiến thức sâu về nó là không thừa. Là những sinh viên học về kinh tế như chúng ta thì việc nghiên cứu về TTCK càng cần thiết bởi vì qua TTCK chúng ta có thể thấy dược sự phát triển của nền kinh tế. Từ đó sẽ phục vụ tốt cho yêu cầu của công việc. Và TTCK cũng có thể là nơi mà mọi người có bước tiến lớn trong sự nghiệp nếu có kiến thức tốt về nó. Với xu thế hội nhập kinh tế của đất nước như hiện nay thì sự phát triển của TTCK tại Việt Nam sẽ còn hơn nữa cho nên muốn làm những người không đứng sau thời đại kinh tế thị trường thì việc nghiên cứu về TTCK là rầt cần thiết.

doc25 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp để nâng cao vai trò TTCK đối với nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………. 2 2. Mục đích của đề tài…………………………............................................ 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài……………………………... 3 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu…………………………........... 3 PHẦN NỘI DUNG I. Phần lý thuyết 1. Khái niệm về thị trường chứng khoán………………………………….. 4 2. Chức năng của thị trường chứng khoán……………................................ 4→5 3. Cơ cấu thị trường chứng khoán……………………………………........ 5→6 4. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK………………...……………....... 6→7 5. Các thành phần tham gia vào TTCK…………………………………... . 7→8 II. Thực trạng 1.Bước đầu TTCK Việt Nam chưa thực sự là một kênh huy động vốn………………………………………….... 10→14 2. Thị trường UMCOM khai trương……………………………………… 14→16 3. Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay…………………………………… 16→19 4. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam…………………………………... 19→20 5. Vai trò của TTCK với nền kinh tế Việt Nam…………………………… 21→23 III. Các giải pháp để nâng cao vai trò TTCK đối với nền kinh tế PHẦN KẾT LUẬN PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bản chất của tài chính về hình thức là tất cả những vấn đề liên quan đến tiền, đến sự vận động của tiền tệ. Về bản chất tài chính là tất cả sự vận động của tiền tệ độc lập tương đối với sự vận động của hàng hóa, gắn liền với sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của một chủ thể kinh tế xã hội. Tài chính rất quan trọng đối với môt quốc gia. Nó phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị. Một quốc gia muốn có một nền kinh tế phát triển thì các hoạt động tài chính của quốc gia đó phải được diễn ra một cách mạnh mẽ. VD: Mỗi một doanh nghiệp, cá nhân trong một quốc gia khi tham gia vào các hoạt động kinh tế thì cần phải có một số lượng vốn nhất định. Số vốn này lấy ở đâu ra??? Một phần số vốn đó là do doanh nghiệp, cá nhân tự có còn phần lớn đa số là do doanh nghiệp, cá nhân đi vay của nhà nước hoặc trong cộng đồng dân cư…đó là các hoạt động tài chính. Khi mà các doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động kinh tế phát triển thì làm cho nền kinh tế của đất nước phát triển theo. Các hoạt động tài chính mang tính lịch sử. Nó có quá trình phát triển từ sơ khai rồi tiến dần tới đỉnh cao. Thuế là hoạt động tài chính đầu tiên tới bây giờ thì các hoạt động của thị trường chứng khoán là hoạt động tài chính mang tính cao cấp nhất. Qua quá trình tìm hiểu về hoạt động tài chính ta đã thấy được tầm quan trọng của nó. Mà thị trường chứng khoán lại là nơi mà các hoạt động tài chính diễn ra mạnh nhất. Vì vậy các biến động của thị trường tài chính có ảnh hưởng rất mạnh tới nền kinh tế. Cho nên với những nhà kinh tế trong tương lai như sinh viên hoc về ngành kinh tế cũng như các nhà kinh doanh hiện tại thì việc theo dõi sự biến động của thị trường chứng khoán là rất quan trọng, phải nghiên cứu thật kĩ về nó thì khi muốn tham gia vào TTCK mới không vấp phải những sai lầm nghiêm trọng. 2. Mục đích của đề tài Đề tài trình bày một cách hệ thống các vấn đề của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Từ đó đề tài sẽ trình bày chi tiết các nội dung cơ bản của thị trường chứng khoán, giúp cho người đọc đề tài có thể hiểu rõ hơn về thị trường chứng khoán. Trong phần nội dung của đề tài sẽ cho người đọc có cái nhìn khái quát hơn về thị trường chứng khoán. Tìm hiểu các quá trình hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam, sự biến động của thị trường chứng khoán trong từng thời kì. Và sự ảnh hưởng của các nhân tố tới thị trường chứng khoán. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Bản chất của thị trường chứng khoán ở Việt Nam Những chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán Sự hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam Vai trò của thị trường chứng khoán với nền kinh tế Thực trạng của thị trường chứng khoán ở Việt Nam 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. Đề tài được thực hiện dựa trên các cơ sở lý thuyết về thị trường chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán ở Việt Nam nói riêng. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà tác giả đã sử dụng trong đề tài của mình đó là: Phân tích, tổng hợp, so sánh… Trong đề tài của mình tác giả sử dụng nhiều tài liệu liên quan tới thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Để nêu lên một cách xác thực nhất về thị trường chứng khoán ở Việt Nam. PHẦN NỘI DUNG A/ PHẦN LÝ THUYẾT Khái niệm về thị trường chứng khoán Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Thị trường chứng khoán: là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. 2. Chức năng của thị trường chứng khoán 2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. 2.2 cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. 2.3.Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. 2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. 2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 3.Cơ cấu thị trường chứng khoán Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại: 3.1.Thị trường sơ cấp Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. 3.2.Thị trường thứ cấp Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. 4. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK: 4.1. Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc công bằng Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó. 4.3.Nguyên tắc công khai Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. 4.4. Nguyên tắc trung gian Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 4.5.Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản. 5. Các thành phần tham gia TTCK 5.1 Nhà phát hành Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán 5.2 Nhà đầu tư Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: - Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời. - Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. 5.3.Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. 5.4.Các tổ chức có liên quan đến TTCK: - Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam. - Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCK. - Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. * Các phương pháp phân tích chứng khoán chính (phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật) Có nhiều phương pháp phân tích chứng khoán. Trên thực tế các phương pháp này được dùng kết hợp để bổ sung cho nhau nhằm giúp nhà đầu tư ra quyết định chính xác nhất. Ở đây chỉ giới thiệu hai phương pháp là phần tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. a) Phân tích cơ bản Phương pháp này dựa trên giả thuyết cho rằng, giá trị thực của một Công ty có mối quan hệ mật thiết với các đặc tính tài chính của Công ty. Bất kỳ một sự chệch hướng nào so với giá trị thực cũng là dấu hiệu cho thấy cổ phiếu đang ở dưới hoặc ở trên giá trị thực và nó sẽ có xu hướng điều chỉnh về giá trị thực. Mục đích của phân tích cơ bản là tìm hiểu tất cả các yếu tố tác động tới giá: phân tích nền kinh tế, phân tích ngành, Công ty... trên cơ sở đó tìm ra giá trị nội tại đề so sánh với giá trị hiện hành. Khi tính giá cố phiếu, các nhà phân tích thường sử dụng kết hợp các phương pháp như chiết khấu luồng tiền, tỷ số giá trên thu nhập (P/E), giá trị sổ sách... Khi họ nắm giữ cổ phiếu này tức là họ đang kỳ vọng nó sẽ đem lại lợi nhuận cao hơn mức trung bình của thị trường. Điểm mạnh của phương pháp này là rất tốt cho mục tiêu đầu tư dài hạn. Nó giúp bạn lựa chọn dược cổ phiếu theo cách lựa chọn Công ty tốt, hiểu được các yếu tố chính tác động tới giá trị của Công ty/Ngành. Nhưng điểm yếu của nó là mất nhiều thời gian, phải dưa ra các giả định chủ quan (ví dụ như tốc độ tăng trưởng), các thông tin tài chính có thể không dầy đủ, không chính xác, kỹ thuật định giá được áp dụng không đồng nhất (tuỳ thuộc theo Ngành/Công ty). b) Phân tích kỹ thuật Phân tích kỹ thuật cho rằng giá cả đã phản ánh mọi thông tin (nhà đầu tư không cần biết đó là thông tin gì), giá cả vận động theo xu hướng và lịch sử có tính lặp lại. Mục đích của phân tích kỹ thuật là tìm hiểu động thái của thị trường, tìm ra xu thế giá. Các công cụ dùng trong phân tích kỹ thuật là đồ thị, bảng biểu và các chỉ số kỹ thuật. Các số liệu được dùng là giá và khối lượng trong quá khứ. Nhà phân tích chủ yếu chỉ cần làm mỗi việc là quan sát đồ thị, sử dụng chỉ số để ầm ra xu thế. Nó hơi giống trò chơi đuổi hình bắt chữ, nhưng hơn thế nhiều, nó là cả một nghệ thuật. Điểm mạnh của phân tích kỹ thuật là không phụ thuộc nhiều vào báo cáo tài chính, nguyên tắc dễ hiểu, cho phép nhanh chóng phát hiện ra xu hướng dịch chuyển giá sang một mức căn bằng mới và xác định được thời điểm đầu tư lý tưởng. Tuy nhiên, phân tích kỹ thuật cũng có điểm yếu là nó dựa trên giả thuyết hành vi con người lặp lại, mang tính chủ quan cao (tùy theo nhìn nhận phán đoán của từng người khi quan sát biểu đồ, đồ thị giá cả và các chỉ số kỹ thuật ), hơi chậm trễ so với sự phát triển thực tế của xu hướng; nó mang tính dự báo xác suất chứ không chắc chắn và nó cho rằng thông tin dã hoàn toàn phản ánh trong giá cả. Điều này chưa chắc dã đúng, đặc biệt là trong thị trường chưa hiệu quả như ở Việt Nam. Có người cho rằng, nếu so sánh phân tích cơ bản với phân tích kỹ thuật thì trong phân tích cơ bản có đến 80% là kỹ thuật, chỉ có 20 % là nghệ thuật (nghệ thuật ở dây là tổng hợp của sự nhậy cảm, linh cảm, tài phán đoán, trí tưởng tượng... của người phân tích). Còn trong phân tích kỹ thuật thì có đến 80% là nghệ thuật của người phân tích, còn lại kỹ thuật chỉ chiếm 20% vẻ đẹp, sự hấp dẫn của phản tích kỹ thuật chính là ở tính nghệ thuật của nó và ưu thế đặc biệt của nó cho phép dự báo thời điểm tham gia và thoát khỏi thị trường (tức là thời điểm mua vào hoặc bán ra). Hiện tại, các trang web của Công ty chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Công ty chứng khoán Bảo Việt cũng đã bước dầu cung cấp các phân tích kỹ thuật như đồ thị và các chỉ số kỹ thuật của các chứng khoán niêm yết tại sàn giao dịch TP.HCM, bạn đọc có thể tham khảo tìm hiểu thêm. Sử dụng kết hợp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật sẽ giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định hoàn hảo hơn. (Dựa theo nguồn: Tạp chí Nhà quản lý) B/ THỰC TRẠNG 1. Bước đầu thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự là kênh huy động vốn Khi hình thành thị trường chứng khoán (TTCK), nhiều người hy vọng rằng đây sẽ là một "chỗ trũng” để huy động vốn đầu tư. Nhưng sau ba năm hoạt động, TTCK có lẽ mới dừng ở mức độ tập dượt trên một cái ao nhỏ. Vậy cần làm gì để TTCK phát huy được những mặt tích cực của nó trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Phác họa một bức tranh toàn cảnh! Đến 5/07/2003 đã có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng vốn lên l.086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng, đã có tổng cộng 73 loại chửng khoán với tổng mức vốn hóa khoảng 6.6oo tỷ đồng, gần l,6% GDP. Tính đến 30/6/2003 đã có 570 phiên giao dịch được tố chức với tổng trị giá giao dịch đạt gần 3.700 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%, Có 12 Công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chửng khoán, có 7 tố chức kiểm toán độc lập được UBCKNN chấp thuận trong đó có 01 đơn vị nước ngoài, có 5 ngân hàng lưu ký, 3 trong nước và 02 nước ngoài, và có 01 ngân hàng chỉ định thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việc Nam. Hơn 14.000 tài khoan giao dịch được mở tại các Công ty chửng khoán, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư tổ chức, chiếm 0,6%, và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường này đã hình thành tương đối đầy đủ. Trong thời gian đầu, các nhà đầu tư còn đang mong chờ có nhưng điều kỳ diệu xảy ra như những gì họ dã được học, được biết đến. Tâm lý này làm cho số lượng nhà đầu tư rất cao và nhu cầu mua cổ phiếu rất lớn, chỉ số Vn-lndex tăng mạnh từ 150 điểm tới 260 điểm, giá các loại cố phiếu như HAP, REE, TMS, SAM tăng liên tục trong nhiều tháng liền, giá cố phiếu HAP đã từng lên đến mức khoảng 150.000đ/cổ phiếu. Tuy nhiên, thời gian này, lượng cố phiếu bán ra thị trường lại rất ít cho có 2 loại, sau đó là 4 loại. Giá cổ phiếu tăng và vượt quá xa giá trị thực của nó. Hiện tượng "bong bóng tài chính" đã xuất hiện. Vì vậy để bảo vệ các nhà đầu tư, UBCKNN đã dưa ra một loạt các biện pháp, trong đó đáng kế nhất là tăng cung chứng khoán, giảm biên độ giao dịch, quy định khối lượng giao dịch tối đa cho một loại chứng khoán... Chưa thực sự là một kênh huy động vốn TTCK bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng (POs - Public Oferrings hoặc lPOs - Initial Public Oferring). Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nên kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ rất chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Vậy, hơn ba năm qua, TTCK Việc Nam đã có vai trò như thế nào trong việc huy động vốn phục vụ sụ phát triển kinh tế? Số vốn các doanh nghiệp huy động được qua thị trường chứng khoán còn quá nhỏ. Năm 2000 và 2001, số huy động vốn qua kênh này bằng 0, năm 2002 là 0,035 nghìn tỷ đồng. Nếu so sánh với dư nợ cho vay trung và dài hạn đa là con số không đáng kể, so với tổng dư nợ cho vay của cả hệ thống ngân hàng thì con số là không có ý nghĩa gì. Hoạt động của thị trường sơ cấp rất mờ nhạt trong hai năm đầu đi vào hoạt động có duy nhất Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) phát hành thêm 01 triệu cổ phiếu mới (tương dương với số vốn 35 tỷ đồng) để huy động vốn cho dự án giấy kraft. Đến ngày 30/6/2003 nếu tính cả vốn huy động ngân sách Nhà nước thông qua dấu thầu và bảo lãnh phát hành, đã có 5.400 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển niêm yết trên thị trường. Có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cố phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng. Như vậy, thị trường chứng khoán chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Tình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau: - Những vướng mắc từ cơ chế chính sách của Nhà nước đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng, chẳng hạn, điêu kiện phát hành còn cao, thủ tục phát hành phức tạp, thiếu cơ sở pháp lý cho những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát hành chứng khoán... - Mặt bằng lãi suất từ ngân hàng hiện nay khoảng l0,8%/năm, lợi tức kỳ vọng của các cổ đông hiện tại khoảng 15% năm, đó là số kỳ vọng quá cao. Do đó, huy động vốn trên thị trường chửng khoán là "khá đắt" và khó thực hiện. - Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán các doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục phức tạp hơn nhiều so với thủ tục xin vay tại các tổ chức tín dụng, chẳng hạn, các doanh nghiệp phải xây dựng bản cáo bạch để công khai hoá tài chính, phương án kinh doanh... hơn nữa, nhiêu doanh nghiệp không muốn tiết lộ những thông tin quan trọng cho đối thủ cạnh tranh nên không mặn mà với hình thức huy động vốn trên thị trường chứng khoán. - Thị trường thứ cấp hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính thanh khoản của thị trường không cao là nguyên nhân sâu xa dẫn đến hoạt động yếu kém của thị trường sơ cấp trong thời gian gần đây. Nguyên nhân là do việc công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trong một số trường hợp không trung thực, đánh mất lòng tin của công chúng đầu tư đối với thị trường. Có thể nêu vài ví dụ: Công ty đồ hộp Hạ Long CANFOCO, tổng giám đốc bị truy tố đến sáu tháng mà các nhà đầu tư trên TTCK không hề hay biết Công ty bánh kẹo Biên Hòa đến 30/6/2003 vẫn tiếp tục trì hoãn không công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2002... Một số giải pháp cấp bách Từ những phân tích trên, để TTCK Việt Nam thực sự trở thành một kênh huy động vốn cho phát triển nền kinh tế, cần giải quyết gấp những vấn đề sau đây: - Tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường, tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà dầu tư có thể ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, hệ thống và chính xác. - Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường, thiết lập một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cụ thể là, cho đến năm 2006, khẩn tương triển khai nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật chứng khoán. Đồng thời tăng cường tính hiệu lực của các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động và kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt thích đáng đối với các hành vi vi phạm. - Thực hiện các giải pháp “tăng cung - kích cầu”. Trước hết cần nhanh chóng đưa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội vào hoạt động, dành cho các cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo ra hàng hoá đa dạng cho thị trường. Tăng số lượng Công ty niêm yết, da dạng hoá và nâng cao tỷ trọng các Công ty lớn niêm yết, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, cần xây dựng và mỏ rộng hoạt động cua các trung gian tài chính, các tổ chức hỗ trợt triển thị trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, trái phiếu của Quỹ hỗ trợ đầu tư. Phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường trường chiếm khoảng 2 – 3% GDP vào năm 2005 và 10 – 15% vào năm 2010. - Thiết lập một môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư, các Công ty niêm yết Công ty quản lý quỹ, Công ty chứng khoán như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm đầu hoạt động, không đánh thuế chênh lệch mua bán giá chứng khoán (capital gain). Ngoài ra, UBCKNN không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của các thành viên trên thị trường, nên thực hiện phương châm “các thành viên của thị trường được thực hiện tất cả các hoạt động mà pháp luật không cấm". - Phát triển thị trường OTC (Over-the-counter). Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, trước khi có rnột thị trường chứng khoán phát triển như hiện nay, Trung Quốc đã phát triển thị trường OTC khá tốt. Việc phát triển thị trường OTC một mặt nâng cao kinh nghiệm cua các thành viên tham gia thị trường, mức độ quan tâm và nhận thức cua công chúng. Mặt khác, thị trường OTC cũng là cơ hội tốt để tăng cung chứng khoán cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các Công ty chưa đủ diều kiện niêm yết có cơ hội tiếp cận với thị trường chứng khoán. 2. Thị trường UPCOM khai trương Ngày 24/6/2009, được sự đồng ý của Chính phủ, Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) chính thức được ra mắt cùng với sự khai trương của thị trường UPCoM (thị trường giao dịch chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết). Đây là một sự kiện lớn đánh dấu bước phát triển mới của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và là sự kiện quan trọng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam để chuẩn bị cho một giai đoạn thị trường phát triển bậc cao mang tính chuyên nghiệp. SGDCK Hà Nội được thành lập trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại TTGDCK Hà Nội theo tinh thần của Luật Chứng khoán, Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, và Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập SGDCK Hà Nội. Theo đó, SGDCK Hà Nội chuyển từ một đơn vị sự nghiệp có thu sang hoạt động theo mô hình Công ty TNHH 1 thành viên thuộc sở hữu Nhà nước. SGDCK Hà Nội kế thừa mọi quyền và nghĩa vụ của TTGDCK Hà Nội và thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ tổ chức và hoạt động của SGDCK Hà Nội và các quy định pháp luật khác có liên quan. SGDCK Hà Nội có tên giao dịch quốc tế là Hanoi Stock Exchange (HNX), vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng, bao gồm vốn ngân sách nhà nước cấp do TTGDCK Hà Nội chuyển giao và vốn ngân sách nhà nước bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngày 24/6/2009, được sự đồng ý của Chính phủ, Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (SGDCK Hà Nội) chính thức được ra mắt cùng với sự khai trương của thị trường UPCoM (thị trường giao dịch chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết). Đây là một sự kiện lớn đánh dấu bước phát triển mới của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và là sự kiện quan trọng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam để chuẩn bị cho một giai đoạn thị trường phát triển bậc cao mang tính chuyên nghiệp. Ông Trần Văn Dũng, Giám đốc TTGDCK Hà Nội cho biết: “Mục tiêu của SGDCK Hà Nội là phát triển nhanh và bền vững về quy mô, công khai, minh bạch trong hoạt động; hiện đại về công nghệ, phục vụ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của công chúng đầu tư và doanh nghiệp; thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn - thị trường chứng khoán, và góp phần đưa Hà Nội trở thành Trung tâm Tài chính - Ngân hàng quan trọng của nước”. Sàn UPCoM sắp có thêm nhiều cổ phiếu Thị trường giao dịch cổ phiếu của công ty đại chúng chưa niêm yết chuẩn bị đón thêm 2 mã mới. 6 doanh nghiệp khác cũng đang làm thủ tục đưa cổ phiếu lên giao dịch.   Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) cho biết, 20/11 tới đây là ngày giao dịch đầu tiên của cổ phiếu CT3 của Công ty Đầu tư và Xây dựng công trình 3 trên thị trường UPCoM. Công ty này sẽ đưa lên giao dịch gần 2,2 triệu cổ phiếu mệnh giá 10.000 đồng. HNX cũng chấp thuận cho Công ty Dịch vụ Viễn thông và In Bưu điện đăng ký giao dịch cổ phiếu trên UPCoM. Số lượng cổ phiếu là 6,8 triệu, mã PTP, với mệnh giá 10.000 đồng. Ngoài ra, hiện có 6 doanh nghiệp khác cũng đang tiến hành các thủ tục để đăng ký giao dịch cổ phiếu trên UPCoM, gồm Công ty Ắc quy Tia sáng, Pin Ắc quy Vĩnh Phú, Lương thực Đông Bắc, Diêm Thống Nhất, Hóa chất Hưng Phát Hà Bắc, và CTCP Giấy Việt Trì. Theo trình tự, các doanh nghiệp này sẽ phải đăng ký lưu ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán, đăng ký giao dịch cổ phiếu với HNX và công bố thông tin. 3. Vai trò của các quỹ đầu tư hiện nay Trong khi nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy tài chính phải bán tháo cổ phiếu đã chạm ngưỡng giải chấp (giảm 30%) thì các quỹ đầu tư lại coi đây là cơ hội để gom hàng tích trữ cho năm sau.  Đợt giảm giá chứng khoán vừa qua ít nhất trong trước mắt cũng sẽ khiến cho các nhà đầu cơ ngắn hạn chùn bước. Và đây chính là thời điểm thích hợp để chuyển từ đầu cơ sang đầu tư. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã điều chỉnh sâu nhất trong suốt đợt phục hồi vừa qua khi mất đi gần 100 điểm (tính tới ngày 4/11/2009) so với mức đỉnh 633 điểm đạt được ngày 23/10.Dấu ấn rõ nhất của đợt sụt giảm này là sự tháo chạy của những nhà đầu tư sử dụng nhiều đòn bẩy tài chính khi họ phải bán tháo nhiều cổ phiếu đã chạm ngưỡng giải chấp (giảm giá 30%). Trong khi đó các quỹ đầu tư lại coi đây là cơ hội để gom hàng tích trữ cho năm sau. Có thể nói trong khi sự sụt giảm của thị trường những ngày đầu tháng 11 khiến các nhà đầu tư cá nhân hoang mang thì lại giúp quỹ đầu tư có thời gian tìm hàng đúng mục tiêu. Các quỹ có thể đánh giá, tìm hiểu doanh nghiệp trước khi đưa ra quyết định đầu tư mà không bị áp lực của thị trường.Tổng giám đốc Công ty quản lý quỹ Hà Nội (HFM) chia sẻ: “Vào thời điểm VN-Index có sự suy giảm mạnh, chúng tôi đã tiếp tục chọn mua cổ phiếu, đặc biệt là những cổ phiếu trước đây chúng tôi không thể mua được khi thị trường hưng phấn”.Ông này cho biết thêm, HFM hướng đến chiến lược đầu tư trung và dài hạn nhiều hơn. Hiện HFM đang trong quá trình chuẩn bị cho việc huy động vốn để lập thêm quỹ mới. Việc huy động vốn của HFM hướng đến đối tượng có khả năng đầu tư vào những dự án mang tính trung, dài hạn như hạ tầng, đường sá, cầu đường, giáo dục, y tế.Không chỉ riêng HFM, khá nhiều quỹ như SHF, FPT, SAM… nhìn chung cho biết họ vẫn thực hiện chiến lược nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu/tiền mặt là 90/10, thậm chí HFM còn có ý định giảm tỷ lệ tiền mặt xuống mức dưới 10%.Bên cạnh việc có thời gian và cơ hội tìm mua những cổ phiếu tốt, một lý do khiến các quỹ nhỏ tranh thủ gom hàng vào thời điểm hiện tại là giá cổ phiếu hiện khá hấp dẫn với mức P/E vào khoảng 15.Lãnh đạo nhiều quỹ thừa nhận, ở mức này, nhiều tổ chức sẽ nhảy vào thị trường, bởi trong thời gian tới chứng khoán vẫn là kênh đầu tư tiềm năng, một số kênh đầu tư khác có dấu hiệu kém hấp dẫn như vàng có nhiều rủi ro, còn bất động sản thì nguồn cung sẽ dồi dào vào năm tới, chưa tính tới việc tín dụng bất động sản sẽ bị thắt lại.Theo ông Nguyễn Việt Đức, Phó giám đốc Nghiên cứu kinh tế và phân tích Quỹ đầu tư Hà Nội-Sài Gòn thì vào thời điểm hiện tại, các quỹ lớn như Dragon Capital, Vina Capital đã giải ngân hết, và chỉ cơ cấu lại danh mục đầu tư. Trong khi đó, những quỹ có quy mô trung bình và nhỏ lại đang “âm thầm” gom hàng.Ông Đức nhận định: “Đây là thời điểm thích hợp để các quỹ giải ngân đầu tư dài hạn. Tuy nhiên, các quỹ này sẽ không liên tục mua hoặc lướt sóng mà sẽ gom mỗi ngày một ít và mua giá sàn. Đây cũng là một trong những lý do chủ yếu giúp thị trường không giảm mạnh trong thời gian này, nhưng cũng không có khả năng tăng mạnh.Tất nhiên, các quỹ sẽ chọn lựa những ngành có tiềm năng để có lợi thế về tính thanh khoản. Họ sẽ không bán ra để chốt lời, đẩy kết quả kinh doanh năm nay lên cao. Bởi nếu như vậy thì áp lực về lợi nhuận cho năm 2010 cũng sẽ phải tăng cao. Các quỹ cũng sẽ không làm giá đẩy cổ phiếu lên để lướt sóng bởi tính thanh khoản của thị trường đang kém ”. Mặt dù tín hiệu giải ngân của các quỹ đầu tư tại thị trường Việt Nam đã thể hiện khá rõ, nhưng điều này lại không giúp thị trường đi lên. Tại các thị trường chứng khoán thế giới, các quỹ đầu tư đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt thị trường. Bởi đây là những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, có quy mô vốn lớn.Thế nhưng tại thị trường Việt Nam thì các quỹ đầu tư lại không thể hiện được hết vai trò của mình. Ngoài lý do khách quan là quy mô vốn của các quỹ tại thị trường Việt Nam khá khiêm tốn do tâm lý các nhà đầu tư vẫn thích tự mình đầu tư vào thị trường hơn là thông qua các quỹ, còn có hai nguyên nhân quan trọng khác.Thứ nhất là thị trường Việt Nam chỉ có các quỹ đóng mà thiếu mô hình quỹ mở (nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch).Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây là nguyên nhân chủ yếu khiến các quỹ kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Việt Nam. Vì vậy việc cho phép các quỹ mở được thành lập tại Việt Nam sẽ giúp các quỹ huy động vốn dễ dàng hơn.Nguyên nhân thứ hai là hiện các công ty chứng khoán dường như đang làm thay việc của các quỹ đầu tư. Theo một vị chuyên gia, tại các thị trường quốc tế, các công ty chứng khoán là những người trung gian thực hiện các giao dịch của các nhà đầu tư.Nhưng tại Việt Nam, vai trò của các công ty chứng khoán trên thị trường lại khá lớn và họ dễ dàng thu hút được các nhà đầu tư đến với mình hơn là các quỹ đầu tư.Vị chuyên gia này giải thích, sở dĩ có điều này là vì các công ty chứng khoán đã đưa ra những ưu đãi đặc biệt cho các nhà đầu tư lớn, thậm chí là các cá nhân có vốn lớn (cho quyền ưu tiên đặt lệnh, được hưởng T+1…).Điều này khiến các nhà đầu tư lại càng chẳng mặn mà khi các quỹ kêu gọi vốn, bởi họ đơn thuần nghĩ rằng, những lợi ích và ưu đãi mà công ty chứng khoán mang lại chẳng kém gì so với quỹ đầu tư, mặt khác họ vẫn tự mình nắm giữ và điều hành được tiền của mình.Tuy nhiên, vị chuyên gia này cũng cho rằng, tình trạng này sẽ không kéo dài. Cùng với sự phát triển của thị trường, xu hướng đầu tư thông qua các quỹ sẽ ngày càng tăng. Đến lúc đó thì lực đỡ cho thị trường chính là các quỹ đầu tư, còn hiện nay lực đỡ cho thị trường phụ thuộc phần lớn vào tâm lý của các nhà đầu tư cá nhân. 4. Sự phát triển của TTCK ở Việt Nam Theo Cà phê VN-Index :30.000 đồng cho 1 ly nước sinh tố, mỗi đĩa cơm đắt gấp rưỡi bình thường, vậy mà cửa hàng mang tên Café Vn-Index, Cafe chứng khoán hay, Index... vẫn tấp nập khách ra vào. Họ đến không chỉ để ăn uống, thư giãn mà còn thực hiện các thương vụ mua bán chứng khoán. Những ngày qua, ai đi ngang qua đường Phan Huy Chú, Hà Nội cũng phải ngoái nhìn biển hiệu lấp lánh ánh điện mang tên Cafe VN-Index. Nơi đây vốn là Nhà khách Bộ Tài chính, trước chỉ đơn thuần bán cơm văn phòng phục vụ cán bộ công nhân viên ngành tài chính. Khi thị trường chứng khoán bùng nổ, các dịch vụ ăn theo cổ phiếu lần lượt ra đời, mấy bác lãnh đạo bộ cũng đổi mới tư duy, không bỏ lỡ cơ hội cơi nới, nâng cấp rồi đổi tên thành Cafe VN-Index. Mỗi ngày có khoảng 150 khách hàng đến vừa thưởng thức cà phê, ăn sáng vừa trò chuyện và bàn cách đầu tư. Khách hàng có thể truy cập Internet, xem bảng báo giá chứng khoán, tin tức tài chính, cổ phiếu và các thông tin liên quan. Cùng với điều kiện phục vụ, giá các loại đồ uống tại đây cũng tăng thêm 50% so với trước.Bà Phí Thị Tuyết Dung, Giám đốc Cafe VN-Index cho hay, trước đây mỗi lần đi họp ở Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, bà thường thấy lãnh đạo Bộ Tài chính và các chuyên gia tìm các giải pháp thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Cuối tháng 9/2006, Bộ Tài chính phê duyệt đề án phát triển Nhà khách, quy hoạch lại toàn bộ hệ thống theo 3 khu riêng biệt. Khu ngoài trời có mái che, hệ thống đèn chiếu, bàn ghế, với điểm nhấn là bụi tre, bến nước, rổ rá và vài cặp tượng Chí Phèo - Thị Nở. Khu hội trường nằm sâu phía trong của Nhà hàng cũng được sửa chữa, cơi nới và lắp đắt hệ thống đèn chiếu, dàn âm thanh nổi... với sức chứa khoảng 100 người, tiện cho các cơ quan công sở đến đây để hội họp, liên hoan. Khu khách VIP nằm ở vị trí chính giữa của quán, yên tĩnh, bàn ghế được bày biện lịch thiệp, khách hàng đến đây có thể thưởng thức các món ăn đặc trưng của quán, bàn chuyện làm ăn. Cafe VN-Index không phải là hiện tượng mới ở Hà Nội. Khai trương từ giữa năm 2006 - khi thị trường chứng khoán bước vào thời kỳ cực thịnh nhất, cái tên Cafe-Index do Công ty cổ phần trao đổi và phát triển Ý tưởng thành lập đã trở thành địa chỉ thân thiết với dân chơi cổ phiếu. Cafe-Index tọa lạc tại số 1A, Yết Kiêu, Hà Nội. Anh Bùi Đức Toàn, quản lý Nhà hàng cho biết mỗi ngày có tới vài trăm khách đến đây ăn sáng và tìm kiếm thông tin, thậm chí là trao đổi mua bán. Cuối năm 2006 thị trường OTC bùng nổ, nhà hàng còn sắm cả máy đếm tiền, máy soi tiền giả để phục vụ các thương vụ mua bán này. Bao giờ cũng vậy cứ tầm từ 10h đến 14-15h chiều, cửa hàng đông nghẹt khách. Đây là thời điểm kết thúc các phiên giao dịch chứng khoán, các nhà đầu tư kéo đến đây nghỉ ngơi. Tại đây có cả bảng chứng khoán điện tử, Wifi, các bản tin tài chính, chứng khoán, các loại sách, giáo trình tham khảo để nắm bắt tình hình. 3 màn hình LCD lớn liên tục thay phiên nhau cập nhất các thông tin và những biến động của thị trường tài chính. Tủ sách chứng khoán và cả những đồ ăn cũng mang cái tên lạ tai như: kem Index, nước ép Sunny Day (ngày rực nắng), Banana Boat (thuyền chuối), Golden Dream (giấc mơ vàng). Anh Toàn cho biết công ty đang có ý định cơi nới mở rộng hoạt động theo một chuỗi nhà hàng ở nhiều nơi mang thương hiệu Café Index đã được Cục Sở hữu trí tuệ cung cấp bản quyền. Thị trường chứng khoán những ngày này tuy không còn sôi động như những tháng đầu năm, song theo giới chuyên môn thì bất kể dịch vụ gì, hoạt động nào liên quan tới hai từ cổ phiếu cũng đều gây sự tò mò của người dân. Đây cũng lý giải phần nào chuyện tại sao các nhà hàng, cửa hiệu, sách báo, lớp học liên quan đến chứng khoán đua nhau ra đời. Địa điểm được giới kinh doanh lựa chọn để mở các hàng quán liên quan đến chứng khoán bao giờ cũng phải gần các trung tâm giao dịch, tài chính, ngân hàng bảo hiểm… 5.Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế Với tư cách là phương thức khơi thông dòng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh thị trường chứng khoán có vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế đó là: Thúc đẩy việc tích lũy và tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn của bản thân một đơn vị hoặc qua con đường vay truyền thống thì không đáp ứng được về thời gian và lượng vốn. Vì thế các đơn vị và địa phương có thể phát hành trái phiếu để thu hút vốn nhanh. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước ngoài. Thị trường chứng khoán rất nhậy cảm đối với các hoạt động kinh tế, là thước đo hiệu quả các hoạt động kinh tế. Giá trị cổ phiếu của các công ty (thị giá) tỷ lệ thuận với lợi nhuận mà công ty đạt được. Chỉ số chung của thị trường chứng khoán phản ánh mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó trong thời gian ngắn, trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái phiếu từ đó ngân hàng có thể điều tiết hoạt động của thị trường, khống chế sự co giãn cung cầu tiền tệ, khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và giá trị đồng tiền. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện để sử dụng vốn có hiệu quả hơn đối với cả người có tiền đầu tư và người vay tiền để đầu tư. Thông thường lãi thu được qua đầu tư chứng khoán cao hơn lãi phiếu nhà nước hay lãi gửi tiết kiệm. Từ những nội dung trên đây cho thấy thị trường chứng khoán ngày càng phát huy vai trò trọng yếu trong nền kinh tế, ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều người. Thời gian vừa qua (cuối năm 2006 và đầu năm 2007) đã có lúc ồn ào sôi động thông tin từ thị trường chứng khoán. Tại các sàn giao dịch ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thu hút nhiều tầng lớp. Có cả các công ty sản xuất, các thương lái, sinh viên, cán bộ, viên chức. Có cả người am hiểu và người chưa tường tận, có cả người tỉnh táo và người “ngái ngủ”. Hậu quả là có không ít người có thu nhập rất cao, điều lạ là người ta tham gia công khai ở thị trường đồng thời có cả hiện tượng săn lùng chứng khoán của cả các công ty sắp sửa lên sàn giao dịch (thị trường chưa niêm yết). Kinh nghiệm cho thấy khi có những sự kiện tạo thu nhập bất ngờ thì đồng thời sẽ có những rủi ro khó lường. Xem xét diễn biến của thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần lưu ý một số vấn đề sau đây: Một là: Thị trường chứng khoán sẽ ngày càng phát triển, sẽ có tác dụng tốt cho nền kinh tế nhưng rất cần sự can thiệp, hướng dẫn, quản lý nhà nước thông qua Luật Chứng khoán, thông qua việc kiểm tra kiểm soát các cơ quan tài chính trung gian, yêu cầu thông tin trung thực, kịp thời, đầy đủ từ các công ty sản xuất phát hành cổ phiếu. Việc tăng cường quản lý sẽ tránh được các đổ vỡ dây chuyền và làm cho thị trường vận hành đúng hướng có tác dụng tích cực. Hai là: Người tham gia thị trường chứng khoán, mua hoặc bán cổ phiếu cần am hiểu, tìm hiểu cặn kẽ luật pháp; có tiền đưa vào đầu tư là rất tốt nhưng mua đi, bán lại cổ phiếu chỉ thuần túy kiếm lời là rất mạo hiểm. Chớ nên đem tiền thật đi mua ảo vọng. Là người lao động sản xuất cần mua cổ phần để tăng vốn cho đơn vị mình, là người kinh doanh cổ phiếu phải tuân thủ luật pháp không được lừa dối, không được cung cấp thông tin giả. Bạn là người có tiền không nên cất giữ mà nên mua công trái, trái phiếu, gửi tiết kiệm, liên doanh góp vốn vào sản xuất. Nếu dư dật qua thị trường chứng khoán cũng không nên say sưa quá mức. Cái gì cũng có điểm dừng, dừng đúng lúc là khôn ngoan là hiểu biết. Ba là: Các cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính, các cơ quan ngôn luận rất nên thông tin đầy đủ, huấn luyện, đào tạo để nhiều tầng lớp nhân dân thông suốt về thị trường mới mẻ này tránh những xáo trộn bất ổn trước khi muộn. Cần thiết bổ sung nhanh những chế tài để quản lý thị trường này chẳng hạn xử lý nghiêm minh những sai phạm, thu thuế thu nhập những người có thu nhập cao từ hoạt động chứng khoán v.v... Bất kỳ một loại hoạt động nào cũng phải trải qua thăng trầm trước khi ổn định và phát triển, tuy nhiên nếu thả lỏng quản lý, nếu ồ ạt phong trào sẽ không thể có kết quả tốt cho một nền kinh tế lành mạnh và cuộc sống bình yên của mỗi người. Chúng tôi hy vọng: Mỗi chúng ta cần bình tĩnh, thận trọng khi dấn thân vào thị trường chứng khoán đầy cám dỗ, đầy rủi ro bất thường. PHẦN KẾT LUẬN Thị trường chứng khoán đã xuất hiện ở trên thế giới lâu rồi. Mấy năm gần đây thị trường chứng khoán mới xuất hiện ở Việt Nam. Tuy mới xuất hiện nhưng TTCK ở Việt Nam đã có những thăng trầm mạnh mẽ. Từ đó cũng thu hút rất nhiều các nhà đầu tư vào thị trường nóng hổi này. Đã có thêm rất nhiều các nhà đầu tư mới tham ra vào thị trường chứng khoán lần đầu tạo ra một sự sôi động trên sàn nhất là hai sàn chính thức tại Hà Nội (HASTC) và Thành Phố HCM (VN - INDEX). Qua các khái niệm ở trên về thị trường chứng khoán đã cho chúng ta thấy rằng thị trường chứng khoán là một nơi đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nó rất dễ sinh lời và cũng rất mạo hiểm đối với các nhà đầu tư. Có rất nhiều nhà đầu tư đã trở thành tỷ phú nhờ thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó có nhiều nhà đầu tư đã khuynh gia bại sản vì TTCK. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã phát triển rất mạnh. Thực chứng cho thấy giờ đây khái niệm về chứng khoán đối với mọi người đều không còn xa lạ nữa. Nhưng mỗi một nhà đầu tư cần phải rất thận trọng khi quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó. Đó chính là rào cản chính đối với các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào thị trường chứng khoán. Muốn vượt qua rào cản đó mà không cần mạo hiểm thì tích lũy cho mình kiến thức về nó là rất cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập, TTCK ở Việt Nam sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Vì vậy việc nghiên cứu về TTCK sẽ không phải là quá sớm đối với các sinh viên học về kinh tế như chúng ta. Các nhà đầu tư ở Việt Nam cũng cần phải nghiên cứu kĩ về thị trường này bởi nó có thể là nơi mà họ kiếm rất nhiều lợi nhuận. Đề án này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những khái niệm cơ bản về TTCK nói chung và TTCK ở Việt Nam nói riêng. Dựa trên cơ sở những tài liệu thực tế về thị trường chứng khoán ở Việt Nam tôi đã có một số kết luận về TTCK ở Việt Nam. Tuy đã nỗ lực hết mình nhưng đề án cũng không tránh khỏi những thiếu sót do hạn chế về mặt kiến thức cũng như là lần đầu tiên làm một đề án lên còn nhiều bỡ ngỡ. Đây cũng là lần đầu tiên tôi có những nghiên cứu về thị trường chứng khoán nên vẫn còn nhiều thiếu sót. Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu về thị trường chứng khoán nói chung và TTCK ở Việt Nam nói riêng. Theo tôi việc nghiên cứu về TTCK từ bây giờ sẽ không là quá sớm, bởi vì nêú muốn tham gia vào thị trường đang có xu hướng phát triển mạnh tại Việt Nam này thì việc tích lũy cho mình một kiến thức sâu về nó là không thừa. Là những sinh viên học về kinh tế như chúng ta thì việc nghiên cứu về TTCK càng cần thiết bởi vì qua TTCK chúng ta có thể thấy dược sự phát triển của nền kinh tế. Từ đó sẽ phục vụ tốt cho yêu cầu của công việc. Và TTCK cũng có thể là nơi mà mọi người có bước tiến lớn trong sự nghiệp nếu có kiến thức tốt về nó. Với xu thế hội nhập kinh tế của đất nước như hiện nay thì sự phát triển của TTCK tại Việt Nam sẽ còn hơn nữa cho nên muốn làm những người không đứng sau thời đại kinh tế thị trường thì việc nghiên cứu về TTCK là rầt cần thiết. ------------------------------THE END ------------------------------

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26695.doc
Tài liệu liên quan