Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Xây dựng và Thương mại (TRAENCO) trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của đất nước, làm tiền đề và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Bộ máy của Công ty cũng đã dần thích nghi trong cơ chế thị trường và hoạt động tương đối có hiệu quả, mọi người dù trực tiếp hay gián tiếp đều tích cực đem lại thành công bước dầu cho Công ty.
Tuy nhiên trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nõi riêng, làm thế nào để nâng cao và hoàn thiện hoạt động kinh doanh mà Công ty Xây dựng và Thương mại đang rất quan tâm nghiên cứu. Từ đó đưa ra những định hướng chiến lược để đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp mình.
Chính vì tầm quan trọng đó, với đề tài “Giải pháp nhằm hoàn thiện nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị của Công ty Xây dựng và Thương mại tôi muốn phần nào cùng nghiên cứu, suy nghĩ tìm tòi, và đóng góp một số ý kiến của mình vào quá trình phát triển kinh doanh mà công ty đang tiến hành. Đồng thời việc nghiên cứu các nghiệp vụ thực tế tại Công ty cũng là những kinh nghiệm hết sức quý báu đối với một sinh viên sắp ra trường.
76 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 967 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp nhằm hoàn thiện Quy trình nhập khẩu máy móc thiết bị ở Công ty Xây dựng và Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bị giảm lượng khách hàng ,lại vừa bị cạnh tranh .Ngoài ra Công ty còn bị cạnh tranh bởi các Côngty trách nhiệm hữu hạn ,đây là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh đối với các doanh nghiệp Nhà nước bởi họ tự làm,tự chịu trách nhiệm ,cơ cấu tổ chức gọn gàng ,cumh cách làm ăn linh hoạt ,đôi khi còn tránh lậu thuế.Trong thời gian trước mắt để ổn định và cạnh tranhn với hàng loạt doanh nghiệp
nói trên ,Công ty không thể tránh khỏi những khó khăn nhất định mang tính quyết định trên thương trường.
*Về chính sách thuế của Nhà nước:
Nhà nước nhiều lần tăng thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn do đó làm giảm tiền lãi hoặc làm tăng giá bán dẫn đến hàng hoá bị ứ đọng nhiều. Nguyên nhân này đã làm hạn chế nhiều mặt hàng nhập khẩu của Công ty. Cơ chế xuất nhập khẩu của Nhà nước ta vẫn còn một số vấn đề nan giải mà rất nhiều các đơn vị cần quan tâm là yêu cầu giải quyết kịp thơì, đó là thủ tục hành chính trong kinh doanh xuất nhập khẩu còn rườm rà, còn cán bộ thì thiếu năng lực chuyên môn.
2.2. Những khó khăn riêng của Công ty:
* Những tồn tại trong quá trình nhập khẩu:
Trong những năm vừa qua, hoạt động nhập khẩu của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Hoạt động nghiên cứu thị trường nhập khẩu của Công ty còn yếu, việc nắm bắt thông tin trên thị trường nước ngoài chưa hoàn thiện và đầy đủ. Công tác dự báo nhu cầu, xác định nhu cầu của thị trường còn chưa thực sự bám sát, nhạy bén để đưa ra chiến lược thích hợp. Hoạt động mở rộng thị trường còn chậm, chưa tích cực nghiên cứu các thị trường tiềm năng ở các nước có nền công nghiệp phát triển về máy móc thiết bị như: Mỹ, úc, Pháp . . .
Một khó khăn lớn nữa của Công ty trong hoạt động nhập khẩu là tình trạng thiếu vốn kinh doanh nhập khẩu. Về vốn ngân sách, thực chất là Nhà nước cho Công ty “thuê vốn”, Công ty được tự do sử dụng trên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở tôn trọng luật pháp nhưng vốn này thường được cấp ít, “nhỏ giọt”. Về vốn tự có của Công ty chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu vốn kinh doanh. Công ty phải tạo vốn bằng cách vay Ngân hàng nhưng lãi suất vay Ngân hàng còn quá cao, riêng việc trả lãi suất Ngân hàng đã chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số chi phí kinh doanh. Khó khăn này còn suất phát từ việc ứ đọng hàng hoá nhập khẩu do tiêu thụ chậm dẫn đến ứ đọng vốn.
* Về tổ chức quản lý của Công ty:
Công ty có một bộ máy tổ khá phức tạp, công tác điều hành còn hạn chế, thiếu khoa học. Sự phân cấp quá nhiều quyền hạn không ràng buộc trách nhiệm cho đơn vị thành viên khiến cho nguồn vốn kinh doanh đã bị thiếu lại còn bị phân tán, mạnh mún, dẫn
đến mất sự kiểm soát các hoạt động, buông lỏng quản lý kinh tế, khi cần tập trung vốn thì không thực hiện được. Công ty vẫn còn thiếu những cán bộ có kinh nghiệm, thực sự giỏi kinh doanh và quản lý kinh tế. Trình độ ngoại ngữ và chuyên môn chung của toàn Công ty vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong giai đoạn mới.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH
NHẬP KHẨU MÁY MÓC VẬT TƯ THIẾT BỊ GIAO THÔNG VẬN TẢI CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG VÀ THƯƠNG MẠI (TRAENCO)
I. Phương hướng phát triển nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị giao thông vận tải trong giai đoạn tới của Công ty:
1. Phương hướng phát triển nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị của ngành
Giao thông vận tải:
Như nghị định của Trung ương đã ghi rõ mục tiêu kinh tế của đất nước ra trong giai đoạn hiện nay là công nghệ hoá - hiện đại hoá. Ngành Giao thông vận tải cũng đã xây dựng kế hoạch cơ khí hoá hiện đại hoá trên các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng cho hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, hàng không, đầu tư phát triển công nghệ đóng tàu, cơ khí chế tạo ô tô, phương tiện vận tải, các cảng sông cảng biển, phát triển giao thông nông thôn nhằm giao lưu kinh tế giữa các vùng của đất nước, tập trung đầu tư phát triển giao thông ở hai thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp phía Bắc Hà Nội, vành đai kinh tế phía Đông Bắc ba tỉnh: Hải Phòng; Hải Dương; Quảng Ninh . . . .
Trong sáu năm qua Bộ Giao thông vận tải đã triển khai 46 dự án với nguồn vốn ưu đãi của ngân sách Nhà nước và nước ngoài để khôi phục, nâng cấp, cải tạo và xây dựng mới hơn 2000 km đường bộ và cầu đường sắt. Đường sá trong các thành phố được mở mang, hàng nghìn km đường nông thôn được nâng cấp, nhiều cảng biển quan trọng đã được cải tạo và xây dựng mới. Nhờ đó kết cấu hạ tầng giao thông vận tải Việt nam đã được cải thiện rõ rệt. Những dự án đầu tiên đã hoàn thành, đưa vào khai thác mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và của tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, năng lực của ngành Giao thông vận tải còn rất hạn chế, nhiều vấn đề cấp bách được tập trung giải quyết. Để đạt tới mục tiêu cơ bản từ năm 2005 đến năm 2010 khối lượng vận tải tăng gấp 3-4 lần hiện nay, những việc ngành Giao thông vận tải phải làm là:
Hoàn thành việc nâng cấp một số tuyến đường trọng điểm ở các vùng kinh tế tập trung như vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các tuyến thuộc hành lang Đông - Tây trong khuôn khổ dự án phát triển và hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mê Kông mở rộng (Việt Nam - Thái Lan - Lào - Cămpuchia và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc), các tuyến đường thuộc địa bàn phát triển chiến lược kinh tế.
Mở rộng hệ thống giao thông đô thị, xây dựng các tuyến vành đai và các trục hướng tâm tại các thành phố lớn . . .
Vì vậy, Bộ Giao thông vận tải và Nhà nước đã tập trung vốn đầu tư phát triển cho việc hiện đại hoá các thiết bị cơ sở vật chất để các tuyến đường trọng điểm, cầu phà, các phương tiện giao thông đường thuỷ bộ nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng cơ sở hạ tầng
hiện tại cũng như tương lai, đồng thời vẫn đảm bảo hiệu quả công trình xây dựng. Muốn vậy thì không còn cách nào là phải nhập khẩu các máy móc thiết bị, phương tiện vật tư hiện đại của nước ngoài trong điều kiện kinh tế và nền khoa học kỹ thuật của nước ta còn chưa đáp ứng được.
Sự vận động khách quan của cơ chế thị trường đòi hỏi phải có các chính sách về điều tiết nhập khâủ của Nhà nước. Các doanh nghiệp đòi hỏi phải có môi trường ổn định, hạn chế các biến động xấu của nền kinh tế thế giới. Nhập khẩu hàng ngoại có mức độ và hợp lý sẽ tạo nên thị trường sôi động và lành mạnh. Trong quá trình quản lý hoạt động nhập khẩu, Nhà nước luôn quán triệt ba mục tiêu:
- Nhập đúng chủng loại, số lượng, kịp thời và liên tục.
- Hạn chế tối đa hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng xa xỉ.
- Nhập khẩu trên cơ sở bảo vệ sản phẩm trong nước.
Trong những năm qua vốn đầu tư xây dựng cơ bản giao thông vận tải có xu hướng tăng nhanh với tốc độ bình quân hàng năm tăng 35%. Theo vụ Kế hoạch - Đầu tư Bộ Giao thông vận tải thì trong giai đoạn 1999 - 2005, bình quân vốn đầu tư xây dựng cơ bản giao thông vận tải xấp xỉ 10.512 tỷ đồng/ năm và nhu cầu vốn tăng bình quân mỗi năm khoảng
20%. Ngoài ra hàng năm ngân hàng Nhà nước cấp cho sự nghiệp kinh tế giao thông một khoản tiền khá lớn để duy trì bảo dưỡng đường xá, cảng . . . mỗi năm bình quân năm bình quân từ 265 đến 300 tỷ đồng. Cùng với một số vốn đầu tư xây dựng cơ bản và vốn duy tu bảo dưỡng các công trình giao thông vận tải hàng năm thì thị trường cung ứng vật tư thiết bị cũng tăng lên.
Với chức năng là một doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của ngành Giao thông vận tải. Công ty Xây dựng và Thương mại có nhiệm vụ bảo đảm cung ứng vật tư thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng Giao thông vận tải của đất nước phục vụ đắc lực cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề nhưng vẻ vang mà Đảng, Nhà nước và Bộ Giao thông vận tải đã giao cho Công ty. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ Công ty đã đặt ra những mục tiêu và phương hướng cụ thể cho các năm tới như sau.
2. Phương hướng hoàn thiện và phát triển nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị Giao thông vận tải của Công ty trong thời gian tới:
Trên cơ sở nhiệm vụ của Công ty đã được Bộ quy định và thị trường kinh doanh đã
được xác lập, sản xuất kinh doanh của Công ty có sự điều chỉnh theo hướng:
Giữ vững sản lượng và mặt hàng truyền thống với mức tăng trưởng trung bình 5%
gồm: Nhựa đường, thiết bị thi công, săm lốp các loại, phương tiện vận tải . . .
Tăn nhanh doanh số sản xuất và dịch vụ từ 30% - 40% năm. Trong đó chú trọng vào lĩnh vực xuất khẩu lao động và xây dựng công trình giao thông.
Trên cơ sở phát triển sản xuất, lực lượng lao động cũng tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ và thay thế lao động hàng năm 5%. Bên cạnh đó tăng cường sử dụng lao động tại chỗ, hợp đồng thời vụ để tăng biên chế lao động một cách hợp lý.
Thu nhập người lao động cũng tăng trên cơ sở hiệu quả kinh doanh tăng.
Các chỉ tiêu cụ thể của Công ty trong ba năm tới:
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
I
1.
2.
3.
Tổng doanh thu
Thương mại: Xuất nhập khẩu và kinh doanh máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng.
Xây dựng
Xuất khẩu lao động
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Người
237
177
50
1500
269
185
69
2300
322
212
93
3000
II
Nộp ngân sách
Tỷ đồng
30
36
43,2
III
Số lao động (kể cả lao động thời vụ)
Người
1000
1200
1400
IV
Thu nhập bình quân
1000đ/năm/ngư ời
18000
21000
24000
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2002
Riêng kế hoạch xuất nhập khẩu là khâu then chốt và trọng tâm phát triển của Công ty đặc biệt đối việc nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị Giao thông vận tải lại càng quan trọng. Công ty đã lên kế hoạch nhập khẩu từng loại mặt hàng thiết bị với yêu cầu về thông số kỹ thuật phù hợp để cung cấp cho các đơn vị trúng thầu các công trình xây dựng cầu đường. Hiện nay, trong điều kiện cạnh tranh việc cung ứng máy móc thiết bị thi công cũng được đưa ra đấu thầu. Vì vây Công ty Xây dựng và Thương mại đã không ngừng tìm hiểu thị trường ngoài nước nhằm nhập khẩu những hàng hoá tốt nhất, giá cả phù hợp, đa dạng về chủng loại để phù hợp với nhu cầu trong nước. Trong bản kế hoạch dự kiến phương hướng phát triển của Công ty trong 3 năm dưới đây, riêng về nhập khẩu máy móc thiết bị làm đường Công ty phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 18% mỗi năm trong đó chú trọng nhập khẩu các máy móc thiết bị chuyên dụng và dây truyền công nghệ sản xuất ra nguyên liệu phục vụ ngành Giao thông vận tải.
Đây là một mục tiêu lớn và quan trọng của Công ty. Muốn hoàn thành thành tốt mục tiêu nhiệm vụ Công ty phải không ngừng cố gắng đây mạnh và hoàn thiện công tác nhập khẩu sao cho vừa đạt chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên đồng thời mang lại hiệu quả cao cho Công ty.
II. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện nhập khẩu máy móc vật tư thiết bị
giao thông vận tải ở công ty xây dựng và thương mại
A. Những giải pháp về phía Công ty
1. Tăng cường biện pháp nghiên cứu thị trường
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải gắn liền với thị trường, lấy thị trường làm mục tiêu hoạt động của mình. Thị trường cũng là nơi sàng lọc những doanh nghiệp không thích nghi được với nó. Đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì công tác nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước là rất cần thiết .
* Nghiên cứu thị trường trong nước:
Khi nghiên cứu thị trường máy móc thiết bị vật tư trong nước, công ty cần chú trọng nghiên cứu tình hình sử dụng máy móc cũng như tình hình sản xuất máy móc trong nước ra sao. Để biết được tình hình tiêu thụ và sử dụng máy thi công trong nước cần tạo ra các mối quan hệ chặt chẽ với vụ kế hoạch nhằm theo dõi sự biến động của thị trường trong nước. Căn cứ vào các luận chứng kinh tế kỹ thuật và khối lượng công việc thi công mà Công ty có thể đánh giá được tình hình thị trường trong nước, lập ra phương án kinh doanh hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu.
Khi nghiên cứu thị trường trong nước, Công ty cần có những thông tin về đối thủ
cạnh tranh như:
+ Thông tin vế số lượng các đối thủ cạnh tranh có mặt hàng cạnh tranh với Công ty.
+ Thông tin về khả năng tài chính của các đối thủ
+ Thông tin về quy mô kinh doanh, kế hoạch kinh doanh, giá cả, hoạt động dịch vụ
vận chuyển của đối thủ.
Đối với thị trường có tính chất sống còn, Công ty nên tổ chức các đại diện thương mại chuyên biệt với chức năng nghiên cứu và thông báo thường xuyên các thông tin về thị trường hàng hoá tại địa bàn đó để giúp cho Công ty xây dựng được các kế hoạch tác nghiệp cụ thể, nhanh chóng chớp lấy thời cơ kinh doanh để đạt được hiệu quả cao.
Hệ thống tổ chức thu thập thông tin của doanh nghiệp phải được tổ chức theo vùng lãnh thổ tức là lập ra nhóm chịu trách nhiệm nghiên cứu địa bàn được giao từ khâu thu thập cho đến khẩu xử lý thông tin và báo cáo kết quả cho Công ty, kết hợp chặt chẽ với việc nghiên cứu tại văn phòng nghiên cứu thị trường nhằm giảm bớt độ nhiễu tạp của thông tin, tăng độ chính xác và nhanh chóng để phục vụ kịp thời cho việc ra quyết định kinh doanh.
Hiện nay đối thủ cạnh tranh của Công ty khá nhiều gồm các Công ty trong ngành
Giao thông vận tải, ngoài ngành và cả các Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn.
* Đối với thị trường ngoài nước:
Chuyển sang hoạt động theo hạch toán kinh doanh, Công ty phải tự tìm bạn hàng giao dịch nên nắm vững thị trường nhập khẩu là công việc rất có ý nghĩa đối với Công ty. Trong thời gian tới, Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu cần đây mạnh hơn công tác này, cần nghiên cứu cụ thể hơn và nắm chính xác các chế độ chính sách, luật pháp có ảnh hưởng như thế nào đến kinh doanh trực tiếp ở thị trường đó cũng như phong tục tập quán ở thị trường đó. Cần nắm rõ hơn uy tín, cơ sở vật chất và tình hình kinh doanh nội địa của bạn hàng cần giao dịch, xác định được phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của người đứng tên giao dịch bên bạn, áp dụng kỹ thuật hiện đại phân tích thị trường và so sánh giữa chúng để tìm ra thị trường nhập tối ưu. Nghiên cứu nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết qua mạng Internet.
Hiện nay Công ty nhập máy móc thiết bị chủ yếu từ thị trường của các nước đã phát triển và trong tương lai hầu hết các loại máy móc sẽ được nhập khẩu từ các nước này. Do đó cần có những thông tin về khu vực đó bao gồm: Khả năng đáp ứng của từng nước, giá cả như thế nào? đặc đặc cần quan tâm đến các nước xuất khẩu lớn như: Nhật, Nga, . . . Các thông tin nghiên cứu thị trường phải đầy đủ để có thể có được nhận định tổng quát về diễn biến tình hình thị trường thế giới và thị trường khu vực. Trên cơ sở đó doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng kinh doanh, xác định số lượng nhập và lựa chọn thương nhân phù hợp.
* Về nghiên cứu giá cả:
Khi nghiên cứu thiết bị toàn bộ doanh nghiệp cần tiến hành so sánh tổng giá trị các thiết bị đơn chiếc trong dây chuyền sản xuất mà có thể nhập khẩu riêng lẻ trên thị trường thế giới và trị giá thiết bị toàn bộ trong đơn chào hàng của khách hàng nước ngoài. Kinh
nghiệm của Công ty cho thấy rằng giá thiết bị toàn bộ trong các đơn chào hàng thường cao hơn tổng giá trị các thiết bị lẻ bao gồm trong thiết bị toàn bộ ấy khi công ty nhập khẩu riêng rẽ trên thị trường thế giới. Để từ đó tránh sự nhập khẩu với giá quá cao, không tiết kiệm được chi phí và nâng giá thành lên.
Tuy nhiên cần chú ý rằng danh mục hàng hoá trong mậu dịch quốc tế rất rộng và không ngừng tăng lên do đó khi nghiên cứu giá cả của mặt hàng máy móc thiết bị làm đường doanh nghiệp cần lưu ý đến những đặc điểm kỹ thuật của loại hàng hoá ấy để phân tích và đánh giá xu hướng biến động của giá cả cho chính xác.
Từ nhận định tổng quát về thị trường trong nước và ngoài nước, về giá cả nhập khẩu công ty phải xác định được số lượng máy móc thiết bị nhập khẩu và các yêu cầu về thông số kỹ thuật, chất lượng, nhãn hiệu . . . của hàng hoá. Để xác định số lượng máy móc nhập khẩu, công ty cần nắm vững nguồn hàng nhập khẩu của các đơn vị, hiệp định đã ký, hạn ngạch được cấp hoặc chỉ tiêu đã được đăng ký. Ngoài ra công ty cần xác định được số lượng mặt hàng tối ưu là số lượng hàng nhập vừa thoả mãn đưọc nhu cầu trong nước, vừa tiết kiệm được chi phí đặt hàng.
Tiếp theo là việc lựa chọn thương nhân hay đối tác kinh doanh là lựa chọn bạn hàng khả dĩ có thể cộng tác tốt ở nước ngoài, bên cạnh các công ty sản xuất máy móc thiết bị ngày càng phát triển, có uy tín trong giao dịch buôn bán còn có một số công ty “ma” chỉ có một lượng vốn ít hoặc các công ty nhỏ dựa vào công ty lớn để làm ăn. Giao dịch với các công ty này rất nguy hiểm. Vì vậy công ty phải nghiên cứu kỹ tình hình tài chính, uy tín của các hãng nước ngoài nhằm đảm bỏ an toàn cho hoạt động kinh doanh của mình. Máy móc thiết bị thi công thường có giá trị cao, vốn bỏ ra lớn nên công ty cần phải thận trọng trong giao dịch. Tóm lại nghiên cứu thị trường để quyết định xem mua như thế nào? Mua khi nào? Mua của ai? Và mua với giá nào?
Các thông tin sau khi được thu nhập phải xử lý và cần được sử dụng kịp thời để
phục vụ cho công tác nhập khẩu nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Vận dụng kết quả nghiên cứu thị trường, giá cả trong việc đề ra chiến thuật kinh doanh của Công ty. Căn cứ vào việc dự đoán xu hướng phát triển của thị trường và trước hết do nhu cầu về máy móc thiết bị làm đường trong ngành càng tăng, doanh nghiệp cần lên
kế hoạch nhập khẩu từng loại mặt hàng thiết bị với yêu cầu về thông số kỹ thuật phù hợp để
cung cấp cho các đơn vị trúng thầu các công trình xây dựng giao thông đường bộ.
Vậy trong điều kiện cụ thể hiện nay của các doanh nghiệp cần áp dụng chiến thuật kinh doanh: Ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng với số lượng lớn (có thể dựa vào đơn đặt hàng của các đơn vị) nhằm giảm được giá nhập khẩu, giảm chi phí tăng lợi nhuận.
Giá máy móc thiết bị thuộc loại hàng hoá được sản xuất trong ngành kinh tế có trình độ tập trung sản xuất và lũng loạn cao, do vậy nọ chịu ảnh hưởng của các chính sách về giá cả của các tập đoàn lũng loạn rất lớn. Khi dự đoán xu hướng giá trên thị trường sẽ tăng lên thì Công ty cần tích cực mua nhanh khối lượng hàng cần nhập để tránh khi giá tăng. Nếu giá trên thị trường có xu hướng giảm xuống thì tới mức thấp nhất mới mua vào với số lượng lớn nhất. Nhưng giá máy móc thiết bị làm đường biến động rất ít nên Công ty có thể áp dụng chiến thuật chủ động tới mức mua vào một khối lượng hàng hoá trong kế hoạch dự định nhập khẩu khi giá xuống thấp nhằm tiếc kiệm được ngoại tệ.
* Vận dụng kết quả nghiên cứu thị trường cho việc giao dịch và ký hợp đồng:
Do đặc điểm tình hình của thị trường nên việc lựa chọn thời gian giao dịch đúng lúc có ý nghĩa rất quan trọng, lựa chọn thời gian giao dịch kịp thời hay chậm trễ sẽ đem lại những kết quả rất khác nhau.
Thời gian giao dịch dài hay ngắn là tuỳ ở khối lượng hàng hoá định mua và dung lượng thị trường. Nếu khối lượng hàng hoá ít thì không nên kéo dài thời gian giao dịch. Ngược lại, nếu khối lượng hàng hoá lớn mà dung lượng thị trường lại hạn chế thì thời gian tiến hành phải dài thích đáng. Vì đối với số lượng lớn trị giá hàng triệu USD doanh nghiệp phải có thời gian nghiên cứu cẩn thận và chính xác.
Khi ký kết hợp đồng nhập khẩu doanh nghiệp cần phải vận dụng các kết quả nghiên cứu và đánh giá tình hình thị trường và các hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị thường có giá trị lớn nên phải cẩn thận để tránh thiệt hại. Thông thường trong thực hiện đều có sự trả giá tuỳ thuộc vào nghệ thuật thương lượng, khối lượng mua và các điều kiện khác. Những cuộc thương lượng là những phương pháp đảm bảo giá cả cạnh tranh. Do đó Công ty phải nắm bắt được các tình huống có lợi cho việc thương lượng.
Trong việc ký kết hợp đồng Công ty cũng cần có sự xem xét chặt chẽ các điều khoản trong hợp đồng để tránh rắc rối về sau và tránh sơ hở về pháp lý kinh tế.
Hoàn thiện tiếp nhận và kiểm tra hàng hoá:
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty với những mặt hàng có độ phức tạp rất cao như máy thi công, sắt thép xây dựng và sắt thép chuyên dụng. Đây là những mặt hàng rất khó xác định về chất lượng, giá trị vì vậy khi nhận hàng từ phía đối phương cần hết sức nghiêm túc tuân theo những điều khoản đã quy định trong hợp đồng như chất lượng, trọng lượng, kiểu dáng mẫu mã. Củng cố, nâng cao và tuyển chọn đội ngũ nhân viên có chuyên môn, kinh nghiệm để hạn chế sự sai lệch khi nhận hàng.
Đặc biệt trong số máy móc thiết bị nhập khẩu từ Nhật và Tây Âu có một số là hàng cũ. Do vậy để tránh việc nhập các thiết bị đã qúa cũ cần có những cán bộ chuyên môn giỏi về kỹ thuật, phối hợp chặt chẽ và thực hiện tốt khâu kiểm tra và giám định hàng hoá. Nên áp dụng phương pháp giám định tại bến đi (PSI) giám đinh toàn diện mọi loại hàng nhập tại nước cung ứng trước khi hàng gửi đi. Việc giám định sẽ chấp nhận chất lượng và số lượng hàng hoá có phù hợp với yêu cầu đặt hàng không. Giám định tại Cảng đến không cho phép khắc phục các hư hỏng hay thiếu hụt của lô hàng. Điều đó sẽ dẫn đến bế tắc trong thông quan hàng hoá tại cảng đến và mọi chi phí liên quan sẽ tăng lên.
Nếu thực hiện tốt khâu này Công ty sẽ tránh được những tổn thất không đáng có trong nhập khẩu hàng hoá.
Mở rộng thị trường nhập khẩu và hình thức nhập khẩu:
Để có những điều kiện thuận lợi trong nhập khẩu, Công ty cần có nhiều nguồn. Do đó vấn đề mở rộng thị trường và mở rộng quan hệ với bạn hàng có ý nghĩa chiến lược. Ngoài những bạn hàng truyền thống như các Công ty ở Nga, Nhật, Trung Quốc . . . Công ty cần phải xúc tiến hơn nữa trong việc mở rộng thị trường ở các nước Úc; Pháp; Mỹ; Anh; Đức . . . đó là các nước có nền công nghiệp về máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải phát triển, có khả năng cung cấp vật tư cho ngành giao thông vận tải phong phí đa dạng do nhu cầu của các nưóc trên thế giới cũng như nước ta nói riêng. Do vậy, Công ty cần tìm kiếm tích cực và tiến tới đàm phán ký kết hợp đồng khi làm ăn với một số đối tác mới có khả năng quan hệ lâu dài thì cần gây ấn tượng tốt và tích cực bày tỏ sở trường, những ưu
thế, thuận lợi của mình, tìm hiểu kỹ về đối tác để tạo cơ sở cho việc thiết lập mối quan hệ
của hai bên . . .
Đối với các thị trường trọng điểm, Công ty cần phải chú ý đến 4 yếu tố thông tin là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, do đó Công ty cần phải thiết lập một sự trao đổi thông tin qua lại giữa Công ty và công ty khác, hoặc với đại diện thương mại của Việt nam ở nước ngoài và các Công ty nước ngoài mà Công ty có mối quan hệ làm ăn. Những thông tin nắm bắt cần phải kịp thời, đáng tin cậy và có hiệu quả.
Mở rộng hình thức nhập khẩu:
Cùng với việc mở rộng thị trường nhập khẩu thì việc đa dạng hoá hình thức nhập khẩu là một yếu tố khách quan. Các hình thức nhập khẩu mới sẽ ngày càng đòi hỏi sự đứng vững trên khả năng, trình độ nghiệp vụ của các bên kinh doanh đồng thời đòi hỏi tạo lập một hệ thống bạn hàng liên doanh lâu dài. Tức là khi đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu tự doanh thì vấn đề tạo lập “phường hội” vẫn phải đặt lên hàng đầu nếu không thì có thể dẫn đến sự thất bị trong cạnh tranh trên thương trường. Do vậy hình thức nhập khẩu liên doanh cần được phối hợp đẩy mạnh không ngừng ở Công ty cả về mặt số lượng và sự ràng buộc, gắn bó chặt chẽ giữa các bên nhằm khẳng định và tạo uy tín quan hệ làm ăn với nhau.
Bên cạnh đó, hình thức nhập khẩu uỷ thác cũng cần được đây mạnh ở Công ty. Cần chú trọng nhập uỷ thác vật tư máy móc thiết bị cho các dự án được tài trợ vốn nước ngoài (viện trợ, cho vay . . .). Tiếp tục nhận làm uỷ thác nhập khẩu với các chủng loại hàng nhưng cần tránh những loại hàng chủ lực mà Công ty đang nhập vì dễ gây nên cạnh tranh và làm mất cân đối cung cầu, làm tồn đọng vốn và hàng hoá của Công ty.
Trong doanh nghiệp hình thức hàng đổi hàng cũng cần được quan tâm, đây là một phương án tương đương với hai phương án, một xuất và một xuất nhập thu lợi từ hai phía. Mặt khác hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng rất thuận tiện, tránh được thủ tục chuyển tiền phiền hà cho cả hai bên.
Các hình thức nhập này không những giúp cho doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn mà còn giúp cho doanh nghiệp nâng cao được trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu và được hưởng phí uỷ thác, thu được một khoản lợi nhuận trong kinh doanh.
Tóm lại: Công ty Xây dựng và Thương mại phải xây dựng được hệ thống thu thập thông tin chuyên biệt về thị trường, về cung cầu, giá cả, chất lượng chủng loại, từng đối thủ cạnh tranh, những lợi thế và khó khăn của mình . . . đồng thời phải có hệ thống xử lý thông tin có hiệu quả nhất phản ánh kịp thời biến động của môi trường để từ đó có quyết định kinh doanh đúng đăn.
2. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý có hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, Công ty cần phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hiệu quả, kết hợp chặt chẽ nhu cầu thị trường với khả năng cung cấp, khắc phục dần tình trạng bị động trong kinh doanh, xây dựng cho mình khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường cao nhất. Khuyến khích và giao nhiệm vụ cho những cán bộ có kinh nghiệm, năng lực tham gia xây dựng và hoàn thiện chiến lược kinh doanh. Ngoài chiến lược kinh doanh chính cũng cần phải có chiến lược kinh doanh dự phòng.
Ngoài ra việc xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn và dài hạn cũng thực sự cần thiết. Nó không những mâu thuẫn với chiến lược kinh doanh mà còn có quan hệ mật thiết và thúc đẩy hoàn thành chiến lược kinh doanh, giúp Công ty kinh doanh có hiệu quả trong từng giai đoạn.
Hiện nay khi mà cơ chế thị trường đang hoàn thiện dần thì Công ty cũng như mọi chủ thể kinh doanh cần có triết lý kinh doanh của mình. Triết lý kinh doanh của Công ty phải độc đáo, phù hợp nhất và phải công bố cho mọi thành viên của Công ty biết và làm theo.
3. Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá của Công ty:
Nhập khẩu là một hoạt động hết sức phức tạp. Trong cơ chế thị trường, Công ty thực hiện chính sách giao việc theo từng bộ phận chuyên môn. Phòng Kinh doanh Xuất nhập khẩu có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động xuất nhập khẩu nên phải chịu trách nhiệm trước cấp trên về các hoạt động đó trên các mặt kinh tế và tính hợp pháp.
Các chủ trương, chính sách của Nhà nước về ngoại thương không phải là cố định. Do đó người cán bộ làm công tác nhập khẩu luôn nắm bắt các tập quán thương mại đối với các thị trường mà mình hoạt động.Điều này đòi hỏi họ luôn phải có thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu. Phòng thư viện của Công ty phải đảm bảo cung cấp sách báo
chuyên ngành và những ấn phẩm có liên quan, phục vụ tốt cho việc mở rộng tầm nắm bắt thông tin. Mặt khác, mỗi cán bộ luôn sự trau dồi bản thân qua việc rút kinh nghiệm thực tiễn trong các hoạt động nhập khẩu đã thực hiện.
Trong nghiệp vụ nhập khẩu thì việc giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng cần được chú trọng. Bất cứ một sơ ý nào trong việc xác định các điều khoản hợp đồng đã ký kết thì sửa lại là một vấn đề phức tạp nếu không xem xét cẩn thận thì dẫn tới hậu quả không thể lường trước được. Những cuộc đàm phán thương lượng tốt là biện pháp đảm bảo giá cả cạnh tranh, thương lượng tốt sẽ đi đến một giá cả hợp lý với số lượng mua và các điều kiện thanh toán, giao nhận thuận lợi.
Công ty cần có kế hoạch đào tạo cán bộ trực tiếp tiến hành đàm phán giao dịch, đảm bảo họ không những có đủ kiến thức về ngoại thương mà còn là người có kinh nghiệm làm ăn với bạn hàng nước ngoài. Họ phải nắm được các tình huống đàm phán, những cơ hội có lợi cho doanh nghiệp để dành lấy điều kiện có lợi nhất . Trong thời gian qua công tác đàm phán giao dịch của Công ty bị kéo dài nên ảnh hưởng không ít tới hiệu quả kinh doanh. Để khắc phục nhược điểm trên, các cán bộ trực tiếp đàm phán giao dịch có thể vận dụng một số sách lược như sau:
- Tạo sự cạnh tranh
- Từng bước tiến tới
- Gây áp lực
- Đề cao mục tiêu của mình
- Không bộc lộ suy nghĩ của mình
- Tuỳ cơ ứng biến
- Tránh việc thoả thuận nhanh chóng
- Phải làm cho đối phương nhượng bộ từng vấn đề vẫn đảm bảo thể diện của họ.
Do đó để đàm phán thương lượng đạt kết quả mong muốn, cần vận dụng tổng hợp tất cả sách lược nêu trên, biến hoá khôn lường để dễ dàng đi đến sự nhất trí chung. Ngoài ra còn cần phải khéo léo sử dụng các kỹ thuật khác như nghệ thuật trả giá, nghệ thuật hỏi và trả lời . . . để đạt được kết quả thương lượng đàm phán cao nhất.
Hợp đồng nhập khẩu nên được ký ngay tại bàn đàm phán, khi đã có sự nhất trí chung về các điều kiện giá cả, chất lượng, chủng loại.
Hợp đồng nhập khẩu phải được ký kết bằng văn bản, đây là điều tiên quyết cho các bên thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm, nếu chỉ là những thoả thuận miệng thì họ có thể không thực hiện những gì thoả thuận. Khi đã ký kết hoặc thoả thuận nhập hàng đồng thời phải có các hợp đồng bán, nếu hợp đồng nhập không được thực hiện thì hợp đồng bán hàng cũng bị cắt bỏ, do đó sẽ bị phạt do không thực hiện hợp đồng. Hợp đồng miệng sẽ trở nên không có giá trị pháp lý để giải quyết tranh chấp , do đó nhất thiết doanh nghiệp phải lập văn bản có xác nhận của các bên, nếu thấy cần thiết thì đăng ký tại cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền để đề phòng trường hợp xấu xẩy ra.
Một vấn đề nữa là trong thời gian qua, một số hợp đồng nhập lại không đề cập đến vấn đề chọn nguồn luật giải quyết khi xảy ra tranh chấp. Đây là điều nguy hiểm cho các doanh nghiệp, nếu họ không thực hiện hợp đồng đã ký kết thì sẽ gây khó khăn cho khiếu nại kiện tụng. Để hạn chế và khắc phục các vấn đề trên Công ty cần phải xác định rõ các điều kiện về hàng hoá và giám định chất lượng, số lương, đồng thời lựa chọn nguồn luật giải quyết tranh chấp và quy định cụ thể trong hợp đồng với sự nhất trí của đôi bên. Tốt nhất nên lựa chọn luật của Việt Nam để nâng cao được uy tín của chúng ta trên thương trường và giảm thời gian, chi phí xảy ra khi giải quyết tranh chấp.
Trong qúa trình thực hiện hợp đồng nhập khẩu, Công ty cần chú ý đến khâu giao nhận hàng hoá, thường xuyên bám sát thực tế để kịp thời phát hiện hư hỏng sai sót từ đó đề ra những biện pháp thích hợp. Đề nghị các cơ quan giám định, bảo hiểm phân tích đánh giá hàng hoá về chất lượng và số lượng xem có phù hợp với quy định trong hợp đồng hay không, nếu có sự không phù hợp về chất lượng, số lượng (vượt quá quy định) thì cần lập ngay biên bản hàng hoá kém chất lượng, không đủ về số lượng và thông báo ngay cho người bán để có hướng giải quyết nhanh chóng, đảm bảo lợi ích và có đủ hàng về số lượng,
chất lượng và chủng loại cung cấp cho thị trường tiêu thụ.
khẩu:
4. Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và đổi mới hoạt động kinh doanh nhập
Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với con người phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước là một bộ phận
quan trọng trong chiến lược đổi mới quan hệ sản xuất mà Đảng ta đã chỉ ra từ Đại hội lần thứ VII, lấy việc giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội cải thiện đời sống người lao động là mục tiêu hàng đầu.
Nhằm đạt được mục tiêu của Nhà nước giao, nâng cao hiệu quả kinh doanh đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, Công ty phải có một chiến lược đổi mới tổ chức cán bộ công nhân viên phù hợp cho từng giai đoạn của Công ty.
* Chuyển hướng tổ chức với bộ máy tinh giảm gọn nhẹ:
Để có thể tồn tại trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì Công ty cần phải có một cơ cấu gọn nhẹ,linh hoạt với trình độ chuyên môn cao. Tại Công ty hiện nay, số cán bộ công nhân viên tham gia các hoạt động kinh doanh còn ít nên cần phải giảm bớt những cá nhân không làm việc tại các bộ phận kinh doanh để thu gọn được số lượng, đồng thời bổ sung những cán bộ có năng lực trình độ chuyên môn cao vào những vị trí thích hợp. Trong qúa trình kinh doanh cần phải giảm bớt những cá nhân làm việc yếu kém để dần thanh lọc được đội ngũ cán bộ có trình độ, có trách nhiệm, năng động sáng tạo phù hợp với cơ chế mới.
Thực hiện khoán trong các khâu sản xuất, kinh doanh, xây dựng quy chế phù hợp rõ ràng trong kinh doanh làm sao có thể gắn bó giữa trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn, lợi ích của cán bộ kinh doanh. Đó là mấu chốt để khơi dây tinh thần sáng tạo, tích cực trong kinh doanh của mỗi cá nhân. Bên cạnh đó Công ty cần tăng cường hơn nữa chế độ khen thưởng vật chất , nó không chỉ tác động khuyến khích vật chất đơn thuần mà còn nâng cao ý thức cho toàn thể cán bộ công nhân viên trong công tác, giúp họ xây dựng lòng tin với lãnh đạo. Còn cho họ thấy rằng ngoài lương ra họ còn có thêm thu nhập nếu làm tốt, tăng doanh thu, lợi nhuận của Công ty. Bên cạnh đó cũng cần có chế độ kỷ luật nghiêm khắc để bảo đảm thưởng phạt phâm minh.
* Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên
Để hoạt động nhập khẩu của Công ty đạt hiệu quả cao đòi hỏi các cán bộ phải có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi, có trình độ ngoại ngữ và tin học. Trong khi đó cán bộ nhân viên xuất nhập khẩu của Công ty nói chung trình độ chuyên môn và ngoại ngữ còn hạn chế.
Vì vậy để đạt được trình độ cần thiết, công ty cần phải có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ những kiến thức cơ bản đến kiến thức chuyên ngành. Tránh tình trạng đào tạo tràn lan, vừa tốn tiền vừa không tạo ra hiệu quả của việc đào tạo. Có chính sách tuyển dụng người hợp lý và thực hiện theo công thức 4Đ: Đào tạo, đào tạo nâng cao, đào tạo lại và cuối cùng là đào thải để lựa chọn những người có khả năng nhất về nghiệp vụ kinh doanh cũng như kinh doanh ngoại thương phục vụ mục tiêu chung là nâng cao uy tín của Công ty trên thương trường. Đối với các cán bộ lãnh đạo củ Công ty và các Phòng ban phải là những có trình độ lãnh đạo, am hiểu sâu trên mọi phương diện, có đầu óc sáng tạo, năng động. Cần nâng cao trình độ cán bộ lãnh đạo qua đào tạo tại trường và đào tạo tại chỗ để mỗi người tối thiểu có đại học và các cán bộ kinh doanh nói chung có trình độ ngoại ngữ thành thạo.
Trong những năm tới, Công ty cần tiếp tục đào tạo đội ngũ cán bộ của mình để có trình độ, nghiệp vụ ổn định, nắm vững chắc hơn. Theo ông Harod Geneen - Giám đốc ITT một công ty hàng đầu của Mỹ về thông tin và điện thoại đã nói “Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của một Công ty". Điều đó chứng tỏ việc phát triển và đào tạo con người đóng một vai trò vô cùng then chốt là tiên quyết trong quá trình thực hiện giải pháp phát triển kinh doanh của mình. Mục tiêu đầu tư phát triển con người của Công ty phải là chất lượng, phải tinh thông một nghề và giỏi nhiều nghề để đáp ứng nền kinh tế thị trường đang hoàn thiện và cạnh tranh mạnh mẽ.
5. Những giải pháp về vốn trong kinh doanh
Việc kinh doanh nhập khẩu liên quan trực tiếp đến việc sử dụng ngoại tệ. Ngoài vốn tự có do Nhà nước cấp thì Công ty cần phải tìm kiếm các giải pháp để tạo nguồn vốn cho kinh doanh vì vốn kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, là tiền đề cho doanh nghiệp tiến hành kinh doanh. Nếu thiếu vốn sẽ không thực hiện được các mục tiêu nhiệm vụ và giảm khả năng cạnh tranh trên thương trường.
Trong thời gian qua các doanh nghiệp phải vay vốn Ngân hàng thương mại để mở rộng sản xuất kinh doanh trong đó có Công ty Xây dựng và Thương mại. Nhưng do phải vay với khối lượng lớn với lãi suất cao 1,1%/tháng tính ra là 12,2%/năm nên Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong hoạch định giá thành và thu lợi nhuận. Để giải quyết những khó
khăn này, Công ty nên có chính sách đi vay tín dụng ưu đãi lãi suất thấp, dài hạn từ những nguồn tài chính trong và ngoài nước. Có như vây mới đảm bảo kinh doanh có lãi.
Do sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu nên Công ty phải chú ý đến vấn đề ngoại hối, theo dõi và dự đoán chính xác tỷ giá hối đoái với đồng Việt Nam. Thông thường Công ty tiến hành mua hàng ở nước ngoài bằng ngoại tệ và bán trong nước bằng nội tệ. Khi đã thanh toán xong và bán được hàng thì việc có lãi hay không còn phải xem xét. Do tỷ giá của ngoại tệ luôn biến động nên thực tế tiền lãi vốn có thể lại thành lỗ ở những thời điểm khác nhau. Do vậy Công ty nên duy trì một số vốn bằng ngoại tệ trong vốn dành cho nhập khẩu. Cần tạo hợp đồng ngoại hối trong Ngân hàng mình mở tài khoản điều đó giúp cho Công ty luôn có ngoại tệ trong tay.
Công ty cần phải mềm dẻo, linh hoạt trong quản lý vốn. Mặc dù quy định vòng quay vốn không được quá 90 ngày nhưng đối với một số mặt hàng do thời gian ngắn vận chuyển lâu hay do đặc điểm tiêu thụ chậm nhưng lãi cao hoặc những mặt hàng có tính thời vụ cần dự trữ chờ giá lên mới bán thì Công ty cần linh động gia hạn thời gian hoàn vốn hoặc giảm mức phạt, đền bù để tạo điều kiện cho phương án mang lại hiệu quả cao nhất. Tránh áp đặt nhiều khi gây ra sự cơ nhỡ thời cơ, sự cân nhắc lưỡng lự, không quyết định trong các phương án làm thu hút sự sáng tạo và hiệu quả không cao.
Một vấn đề tồn tại hiện nay của Công ty là vấn đề ứ đọng vốn, do vậy cần có các biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn, vòng quay vốn. Các biện pháp cần phải làm là giải quyết tồn kho, ứ đọng hàng hoá, thực hiện mua nhanh bán nhanh, Công ty cần chấn chỉnh công tác đăng ký cho từng kế hoạch và giao kế hoạch một cách cụ thể, kiên quyết cho từng đơn vị trên cơ sở phù hợp với năng lực của từng đơn vị, chấn chỉnh việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, Phòng tham mưu phải thường xuyên đôn đốc nhắc nhở các đơn vị báo cáo giải quyết những vật tồn kho ứ đọng, khai thác ngành hàng và thị trường ngay ở khu vực.
B. Những kiến nghị đối với Nhà nước:
Để thành công trong kinh doanh, ngoài nỗ lực và hướng đi đúng đắn của mình thì Công ty còn phải phụ thuộc rất nhiều vào những chủ trương, chính sách của Nhà nước cũng như của Bộ chủ quản. Thông qua các chế độ, chính sách, pháp luật, kế hoạch Nhà nước tạo ra hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh hoàn hảo bình đẳng cho nền kinh tế hoạt động
hiệu quả. Các chế độ chính sách được đặt ra một cách khoa học phù hợp với thực tế sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động tốt và ngược lại, nếu không nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế.
1. Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước:
Chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước cần tiếp tục mở rộng và tăng cường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ. Về phương diện kinh tế Nhà nước nên xác định đúng đắn các khu vực thị trường thế giới có lợi cho nền kinh tế Việt Nam để có phương hướng tiếp cận từ phía Nhà nước, tạo bước đệm cho các doanh nghiệp của Nhà nước. Với quan hệ gắn bó giữa hai Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của hai quốc gia trao đổi, tận dụng lợi thế của nhau phát triển trong môi trường thuế quan mậu dịch thuận lợi, dựa trên sự bình đẳng hai bên cùng có lợi.
2. Chính sách thuế:
Hiện nay thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước và cũng là một trong những cách thức bảo hộ sản xuất trong nước.
Chính sách thuế đòi hỏi phải thống nhất bình đẳng với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh nếu hoạt động trong cùng một lĩnh vực, tránh hiện tượng bảo hộ nâng đỡ một cách quá đáng tạo ra sự độc quyền cung cấp, độc quyền giá làm ổn định đến lợi ích của người tiêu dùng và Công ty khác.
Đối với hàng hoá nhập khẩu, Nhà nước cần từng bước hạ mức thuế nhập khẩu theo những thời điểm thích hợp với tiến bộ hoà nhập nền kinh tế nước ta vào xu thế phát triển chung của thời đại, của thế giới. Theo ý kiến của một số chuyên gia nghiên cứu thương mại quốc tế. Các nước thành viên GAT/WTO đều được hưởng quy chế tối huệ quốc (MEN). Việt nam cần tiến hành đàm phán, chuẩn bị tham gia WTO để áp dụng chế độ tối huệ quốc và chế độ GSP (ưu đãi thuế quan phổ cập) trong quan hệ buôn bán quốc tế.
Đối với các mặt hàng vật tư thiết bị giao thôgn vận tải, việc quy đinh thuế suất của Nhà nước vẫn còn không phù hợp, chẳng hạn như thuế suất nhập khẩu săm lốp ô tô có sự chênh lệch quá cao giữa hai loại chiều rộng lớp, làm cho xu hướng hàng nhập khẩu sẽ ít đi, trong khi đó năng lực sản xuất của chúng ta lại quá nhỏ bé. Vì thế nên không cung cấp dù cho nhu cầu tiêu dùng đồng thời không khuyến khích được các đơn vị xuất nhập khẩu
kinh doanh mặt hàng này. Thay đổi cách tính thuế nhập khẩu trên cơ sở trọng lượng lốp để
có hiệu quả tạo mức thuế nhập khẩu bình đẳng cho tất cả các loại lốp nhập khẩu.
Do tình hình thị trường biến động, Nhà nước luôn thay đổi biểu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng vì vậy gây khó khăn rất lớn trong việc định giá và xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh. Vì vậy thuế suất nói chung phải ổn địnhtrong một thời gian dài,nếu có thay đổi phải thông báo trước ít nhất 6 tháng để công ty có thời gian xây dựng phương án.
Nhà nước nên điều chỉnh hợp lý thuế nhập khẩu đối với hàng thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ đã qua sử dụng,đảm bảo tính ổn định cho biểu thuế xuất nhập khẩu để có thể lập phương án kinh doanh ổn định,không bị động bởi thuế nhập khẩu luôn biến đổi.
3. Về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Nhà nước quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật và bằng giấy phép,hạn ngạch.Dựa trên mức độ phát triển chung của nền kinh tế cũng như của từng lĩnh vực cụ thể Nhà nước thông qua các cơ quan ,bộ máy của mình tiến hành các kế hoạch cân đối lớn như tổng cung - tổng cầu ,tiết kiệm và đầu tư...từ đó xác nhận nhu cầu đòi hỏi cho từng lĩnh vực để xem xet cấp giấy phép hạn ngạch xuất nhập khâủ cho các doanh nghiệp.
Để doanh nghiệp đạt hiệu quả trong hoạt động kinh doanh yêu cầu từ phía doanh nghiệp đối với Nhà nước phải có sự ổn định về môi trường kinh doanh ,chính sách thuế và giá cả ... Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần thực hiện tốt các chức năng :định hươngsuwj phát triển kinh tế trong từng thời kỳ ,tránh sự can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Về thủ tục Hải quan - thông quan hàng hoá nhập khẩu.
Để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.Nghành Hải quan,một trong những cơ quan liên quan trực tiếp đến kinh tế đối ngoại cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chínhtrong hoạt động Hải quan,giảm bớt phiền hà sách nhiễuđể thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.Ngành Hải quan cần phải công khai tất cả các qui định ,thủ tục hải quan,chính sách pháp luật liên quan đến thông quan hàng hoá xuất nhập khẩunhằm giúp doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Tổng cục Hải quan đã ra Quyết định số 299/1998/QĐ-TCHC về việc bổ sung sửa đổi một số điểm trong bản
hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuáat nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định số 50/1998/QĐ-TCT ngày 10/03/1998 của Tổng cục hải quan, trong đó quy định bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu loại 7 chữ số do Bộ Thương mại cấp, thay bằng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu do cục hải quan tỉnh, thành phố cấp. Đối với trường hợp hàng hoá nhập khẩu thuộc diện phải có văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương mại hoặc xác nhận của Bộ quản lý chuyên ngành thì thay bằng giấy phép. Đây là một đổi mới cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay, phù hợp với nghị định 57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ.
5. Về quản lý thị trường
Trong thời gian qua khâu quản lý thị trường còn nhiều lỏng lẻo, hiện tượng hàng giả, buôn lậu có xu hướng tăng mạnh do đó gây khó khăn lớn cho doanh nghiệp kinh doanh đúng pháp luật. Nạn buôn lậu và hàng giả đang là vấn đề nhức nhối hiện nay, vừa làm cho ngân sách NHà nước bị thất thu lớn, vừa làm cho thị trường bị rối loạn ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng, vừa tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa đơn vị kinh doanh đúng pháp luật với đơn vị thực hiện hành vi buôn lậu, làm hàng giả do họ có lợi thế (trái pháp luật) về giá thành nên đẩy các doanh nghiệp vào chỗ kinh doanh thua lỗ.
Do vậy, Nhà nước cần phải có các biện pháp cương quyết cứng rắn trong khâu quản lý thị trường làm tiền đề cho việc xây dựng một môi trường kinh tế ổn định và lành mạnh, tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các đơn vị. Nhà nước cần tổ chức lại hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước vì trong thời gian qua các cơ quan này hoạt động chưa hiệu quả, chưa phân định rõ chức năng và nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan dẫn đến hiện tượng hoạt động chồng chéo của các cơ quan này với các quan hệ kinh tế, cản trở hoạt động của chủ thể kinh tế. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới Nhà nước cần hoàn chỉnh luật tổ chức hành chính trong đó quy định rõ chức năng , quyền hạn và thẩm quyền của từng cơ quan, tiến hành sắp xếp, tổ chức theo hướng tinh giảm và hiệu quả, khắc phục hiện tượng quan liêu về hành chính giấy tờ.
Để thị trường máy móc thiết bị tiếp tục phát triển một cách bình thường, các cơ quan quản lý Nhà nước nên có biện pháp chấn chỉnh tình hình kinh doanh trốn thuế, bán phá giá của một số doanh nghiệp trong và ngoài nước, tạo ra sự bình đẳng tỏng kinh doanh, ổn định
giá cả thị trường. Cần ngăn chặn kịp thời những hành vi nhập máy kém chất lượng vào
Việt nam gây thiệt hại cho người sử dụng.
6. Các biện pháp trong lĩnh vực tài chính - tín dụng:
* Chính sách về vốn:
Thực tế hiện nay các công trình đang gặp khó khăn cấp bách về vốn xây dựng cơ bản chưa đáp ứng được so với nhu cầu. Nhưng bằng mọi cách vẫn phải đảm bảo yêu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng tăng trưởng kinh tế (Theo nghị quyết Quốc hội về chi ngân sách).
Các Bộ ngành liên quan kết hợp với Bộ Giao thông vận tải tổ chức điều hành và quản lý các nguồn vốn lưu chuyển có hiệu quả, tập trung vào các công trình cấp bách để đạt tiến độ yêu cầu. Bắt buộc quy trình hoạt động phải có vốn mới thi công, không có vốn thì phải tìm cách giải quyết. Tránh tình trạng các doanh nghiệp ứng tiền ra thi công nhưng không được thanh toán.
Để xử lý các khoản dư nợ đọng đặc biệt là các Tổng Công ty có số nợ lớn. Các Bộ kế hoạch đầu tư, Tài chính, Giao thông vận tải thành lập đoàn chuyên trách xử lý các khoản nợ vượt kế hoạch. Bộ Giao thông vận tải cũng được phép sử dụng nguồn thu từ phí giao thông kể cả thu vượt. Từ năm 1999 trở đi, Bộ Giao thông vận tải được giữ lại 100% các nguồn phí nhằm cân đối chung và đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn.
Việc giải ngân cho các công trình giao thông đã trở nên hết sức cần thiết để nhanh chóng tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
* Chính sách về tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một đơn vị
tiền tệ nước khác.
Chính sách tỷ giá hối đoái có quan hệ trực tiếp đến việc tăng hay giảm xuất nhập khẩu của nền kinh tế và của các doanh nghiệp vì nó liên quan đến tỷ suất ngoại tệ hàng hoá xuất nhập khẩu. Khi doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu hàng hoá phải tính ra tỷ suất hàng hoá nhập khẩu. Tỷ suất ngoại tệ hàng nhập khẩu là số lượng bản tệ chi ra để có được một đơn vị ngoại tệ, sau đó đơn vị xuất nhập khẩu đem số tiền ngoại tệ đó ra Ngân hàng ngoại
thương đổi lấy tiền Việt nam. Như vậy đơn vị xuất nhập khẩu sẽ bị thiệt hại do sự chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán của Ngân hàng, nên nếu chênh lệch này quá lớn sẽ làm giảm phần lợi nhuận của doanh nghiệp , làm mất đi động lực kinh tế của họ. Để khắc phục tình trạng này Nhà nước cần có sự quản lý và kiểm soát mức biến động của tỷ giá hối đoái sao cho phù hợp với thị trường, giảm bớt sự chênh lệch giữa giá mua vào và bán ra của ngân hàng ngoại thương.
Đồng EURO được sử dụng trong lưu thông tiền tệ từ 01/1999 sẽ tác động theo những mức độ khác nhau trên lĩnh vực tài chính tiền tệ của Việt Nam. Đặc biệt đồng EURO sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ thương mại xuất nhập khẩu. Do vậy phải cân đối, sử lý giao dịch giữa đồng EURO với các đồng tiền mạnh khác trên thế giới hiện nay như đồng USD, YEN...Trong ký kết và thanh toán thương mại, các doang nghiệp phải theo dõi, phán đoán chặt chẽ không chỉ giữa đồng Việt Nam và USD mà còn tỷ giá giữa đồng Việt Nam
và EURO, giữa EURO và USD để tránh thua thiệt.
nước.
7. Về cung cấp các nguồn cung cấp thông tin kinh tế - xã hội trong và ngoài
Nước ta hiện nay rất thiếu các trung tâm tư vấn về xuất nhập khẩu trong việc cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả của từng loại hàng, nguồn nhập... lượng thông tin, thời gian cũng như chất lượng thông tin không đầy đủ đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu.
Nhà nước đã có đầu tư lớn cho mạng lưới thông tin liên lạc, bưu điện viến thông trong nước đã hoà nhập vào thế giới nhưng các thông tin về kinh tế giấ cả, thị trường vẫn còn đơn giản, chưa bắt kịp với nhịp độ phát triển của kinh tế.
Trong thời gian tới, Nhà nước ngoài việc đầu tư nâng cấp hệ thống thông tin để cung cấp thông tin cho các quyết định kinh tế phải hình thành hệ thống các đơn vị tư vấn kỹ thuật và nghiệp vụ về ngoại thương trong cả nước. Thông qua đó có thể tận dụng mọi năng lực của các chuyên gia giúp cho các doanh nghiệp có thêm nguồn thông tin và trình độ để lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả lớn. Đồng thời Nhà nước cần hình thành thêm các nguồn cung cấp thông tin chuyên ngành, giới thiệu về thị trường, hàng hoá, giá cả thị trường thế giới . . . một cách thường xuyên hơn đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về thông tin cho nền kinh tế cũng như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu..
KẾT LUẬN
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Xây dựng và Thương mại (TRAENCO) trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc hiện đại hoá cơ sở hạ tầng của đất nước, làm tiền đề và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Bộ máy của Công ty cũng đã dần thích nghi trong cơ chế thị trường và hoạt động tương đối có hiệu quả, mọi người dù trực tiếp hay gián tiếp đều tích cực đem lại thành công bước dầu cho Công ty.
Tuy nhiên trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nõi riêng, làm thế nào để nâng cao và hoàn thiện hoạt động kinh doanh mà Công ty Xây dựng và Thương mại đang rất quan tâm nghiên cứu. Từ đó đưa ra những định hướng chiến lược để đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp mình.
Chính vì tầm quan trọng đó, với đề tài “Giải pháp nhằm hoàn thiện nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị của Công ty Xây dựng và Thương mại tôi muốn phần nào cùng nghiên cứu, suy nghĩ tìm tòi, và đóng góp một số ý kiến của mình vào quá trình phát triển kinh doanh mà công ty đang tiến hành. Đồng thời việc nghiên cứu các nghiệp vụ thực tế tại Công ty cũng là những kinh nghiệm hết sức quý báu đối với một sinh viên sắp ra trường.
Đề tài này được xây dựng trên cơ sở đi từ nắm vững lý luận đến việc sử dụng lý luận để nghiên cưú, tìm hiểu về hoạt động kinh doanh nhập khẩu thực tế của Công ty để từ đó tìm ra những giải pháp có ý nghĩa thiết thực là một công việc hết sức phức tạp. Nhưng với sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS. Nguyễn Thừa Lộc và các cô, chú, anh chị trong Công ty, tôi đã cố gằng hoàn thành tốt nhất đề tài thực tập này. Tuy nhiên với trình độ và kiến thức còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót nên mong thầy cô và các bạn hết sức giúp đỡ.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8327.doc