3.7. Giải pháp về phát triển du lịch nông nghiệp
sinh thái
Phát triển du lịch cộng đồng gắn với du lịch nông
nghiệp sinh thái là loại hình du lịch đưa du khách
trở về thiên nhiên, tìm hiểu phong tục tập quán,
đời sống sinh hoạt của bà con bản địa. Tuy nhiên,
thời gian tới Việt Nam cần tận dụng các nguồn vốn
để đầu tư cơ sở hạ tầng, tích cực tuyên truyền,
vận động người dân gìn giữ nét đẹp văn hóa, khôi
phục làng nghề, trồng hoa ở các bản du lịch. Hình
thành các vùng sản xuất tập trung như cây mắc
ca, lúa, rau sạch để các bản làng trở thành điểm
đến lý tưởng của du khách.
3.8. Giải pháp về đa dạng hóa các sản phẩm
du lịch
Một giải pháp hết sức quan trọng mà các vườn
quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phải triển khai
ngay, để phát huy các tiềm năng sẵn có và tăng
cường sự cuốn hút với du khách, đó là phát triển
các sản phẩm du lịch sinh thái đặc thù. Tùy theo
tiềm năng và điều kiện thực tế, mỗi vườn quốc
gia và khu bảo tồn thiên nhiên nghiên cứu, phát
triển và xây dựng các sản phẩm phù hợp. Chẳng
hạn như các tour xem chim, xem thú, tham quan
các hệ sinh thái và cảnh quan đặc trưng, các hoạt
động tình nguyện gắn với công tác bảo tồn. Đây
là điểm mấu chốt để làm nổi bật hoạt động du lịch
sinh thái tại các các vườn quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên, song đến nay ngoài một số vườn
như Cúc Phương, còn đa số vẫn chưa được thực
hiện tốt.
4. KẾT LUẬN
Du lịch sinh thái ở Việt Nam là hướng phát triển
có nhiều triển vọng dựa trên sự đa dạng và phong
phú của các hệ sinh thái đặc trưng, điển hình.
Các hệ sinh thái ở nước ta hình thành trong điều
kiện đặc thù, tạo bởi hoàn cảnh địa lý, vị trí và lịch
sử hình thành của thiên nhiên Việt Nam. Chính
điều này đã tạo nên sức hấp dẫn to lớn về mặt
sinh thái.
Tuy nhiên, để đưa những đặc thù sinh thái thành
tiềm năng du lịch đòi hỏi phải có công đoạn nghiên
cứu chuyển dạng, chuyển từ tiềm năng tự nhiên
sang tiềm năng du lịch sinh thái. Làm sao cho du
khách thấy được những gì mà thế giới sinh vật
của khu vực có, của châu Á có, ở các hệ sinh thái
của chúng ta cũng có như một bức tranh sinh thái
nhỏ của toàn khu vực, ngược lại cũng cho họ thấy
những gì mà có trong các hệ sinh thái của Việt
Nam. Đây chính là tạo nên sức thu hút, hấp dẫn
du lịch của du lịch sinh thái Việt Nam.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các hệ sinh thái đặc trưng - Cơ sở của phát triển du lịch sinh thái Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
107
LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
CÁC HỆ SINH THÁI ĐẶC TRƯNG - CƠ SỞ CỦA PHÁT TRIỂN
DU LỊCH SINH THÁI VIỆT NAM
THE TYPICAL ECOLOGICAL SYSTEM - THE BASIS FOR
ECOLOGICAL TOURISM DEVELOPMENT IN VIETNAM
Nguyễn Thị Thảo
Email: nguyenthaosd@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 24/01/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 23/9/2018
Ngày chấp nhận đăng: 28/9/2018
Tóm tắt
Với ý nghĩa là du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường, du lịch sinh thái là
hoạt động có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hoá, đảm bảo mang lại lợi ích cao
về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn. Sự phong phú và đa
dạng của hệ động - thực vật là thế mạnh để du lịch sinh thái của nước ta có nhiều triển vọng phát triển.
Hệ thống các hệ sinh thái Việt Nam có lịch sử phát triển độc đáo, điều này chi phối đặc điểm chung của
các hệ sinh thái là tính phong phú và đa dạng. Đó là những đặc điểm cơ bản tạo nên sự hấp dẫn của
du lịch sinh thái Việt Nam. Bài viết này dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá những tiềm năng, lợi thế của
các hệ sinh thái đặc trưng, những hạn chế trong phát triển du lịch sinh thái, từ đó đề xuất giải pháp phát
triển du lịch sinh thái một cách bền vững tại Việt Nam.
Từ khóa: Hệ sinh thái; du lịch sinh thái; sinh thái và môi trường.
Abstract
With the meaning of natural tourism which has high education level in ecology and environment, ecological
tourism is an activity which has positive effect to environment protection and culture, it is also certainly
bring high financial benefit for local community and contribute to conservation efforts. The variety and
diversity of ecosystem is so strong that our ecological tourism has a lot of development prospects. Each
ecosystem is typical by ecological condition and development history. Vietnam ecosystem has unique
development history causing the common characteristics of ecosystem which are variety and diversity.
These are basic characteristics which make attraction for ecological tourism in Vietnam. This paper
is based on analyzing and evaluating the potentials as well as the advantages of typical ecosystems
and the disadvantages of ecotourism development, thereby proposing solutions to the sustainable
ecotourism development in Vietnam.
Keywords: Ecological system; ecological tourism; environment and ecological.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếp cận sinh thái là một hệ phương pháp nghiên
cứu dựa trên sự xem xét quan hệ đặc thù giữa
sinh vật và môi trường sinh tồn của chúng. Các
sinh vật sống và các vật thể vô cơ bao quanh liên
kết chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ tương
hỗ bền chặt. Mỗi đơn vị sinh thái bất kỳ đều
bao gồm tất cả các cơ thể chức năng trong một
khu vực nhất định và tác động liên kết với môi
trường xung quanh (sinh thái cảnh). Rõ ràng là
mỗi hệ sinh thái của nước ta có các đặc trưng
sinh vật riêng trong một môi trường sinh tồn
nhất định.
Môi trường sinh tồn cho sinh vật Việt Nam có đặc
thù riêng từ lịch sử hình thành và vị trí của lãnh thổ
Việt Nam có vị trí chuyển tiếp trong bình đồ kiến
tạo châu Á, là nơi chuyển tiếp từ lục địa xuống đại
dương, từ núi cao châu Á (cao nhất hành tinh)
xuống vực sâu đại dương (sâu nhất hành tinh), là
đới tiếp xúc giữa miền nền Hoa Nam và miền nền
Indoxini Đông Dương. Chính vì vậy mà địa hình
Việt Nam có cấu trúc thành các dải thung lũng
xen kẽ nhau chạy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam. Các dòng sông chảy trên địa phận Việt Nam
phần lớn theo hướng Tây Bắc - Đông Nam ra biển
Đông xuống đại dương. Mặt khác, nước ta có vị
trí nằm ở giữa ô gió mùa châu Á, là nơi tiếp xúc
của ba khu vực gió mùa châu Á: khu vực Bắc Á,
khu vực Nam Á và khu vực Đông Nam Á. Vì vậy,
không nơi nào cùng vĩ tuyến lại có mùa đông lạnh
như ở phần miền Bắc nước ta.
Điểm lý thú khác là Việt Nam vừa là cái nôi của
các loài sinh vật bản địa, vừa là nơi tiếp giao của
Người phản biện: 1. GS.TSKH. Phạm Hoàng Hải
2. TS. Nguyễn Đăng Tiến
108
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
các luồng sinh vật từ các khu hệ sinh vật phía Bắc
(Hymalaya - Nam Trung Hoa), khu hệ sinh vật
phía Nam (Malaysia - Indonesia) và khu hệ sinh
vật phía Tây (Ấn Độ - Miến Điện).
Những đặc điểm này được in đậm thêm bởi tính
chất kế thừa trong lịch sử phát triển lãnh thổ Việt
Nam, nghĩa là các cấu trúc lãnh thổ vẫn còn được
lưu giữ qua các giai đoạn. Lãnh thổ nước ta không
bị ảnh hưởng trực tiếp của các đợt băng hà Đệ Tứ
xảy ra trên hành tinh mà chỉ bị ảnh hưởng bởi các
đợt lạnh đi của khí hậu xen với các đợt biển tiến
thời kỳ tan băng, do vậy, sinh vật nước ta có lịch
sử phát triển dài từ Đệ Tam, có những thực vật tàn
dư từ Trung Sinh cùng với sự hội nhập qua các
đợt đi lên (khí hậu nóng lên vào thời kỳ tan băng)
của các sinh vật phía Nam, đi xuống của các sinh
vật phía Bắc (thời kỳ lạnh đi khi có băng hà Đệ Tứ)
cũng như sự di chuyển của các sinh vật từ đất liền
ra hải đảo khi nước biển rút vào thời kỳ băng hà.
Chính vì vậy, các hệ sinh thái của nước ta có tính
chất pha trộn khá cao, nếu không xem xét kỹ sẽ
khó thấy những gì đặc thù và quan trọng hơn là
hướng du lịch sinh thái vào chính những nét pha
trộn đó để tìm ra các đặc biệt, trong đó nhằm
tạo nên sự hấp dẫn trong từng hệ sinh thái nói
riêng và trong đặc thù du lịch sinh thái Việt Nam
nói chung.
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có xu thế phát
triển nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới,
ngày càng chiếm được sự quan tâm của nhiều
người bởi đây là loại hình du lịch tự nhiên có trách
nhiệm, hỗ trợ cho các mục tiêu bảo tồn tự nhiên,
môi trường và phát triển cộng đồng. Ngoài ý nghĩa
trên, sự phát triển của du lịch sinh thái trên cơ sở
khai thác các tiềm năng tự nhiên đã và đang mang
lại những nguồn lợi kinh tế to lớn góp phần tích
cực vào sự phát triển du lịch nói riêng và phát triển
kinh tế - xã hội nói chung.
Theo Tổ chức Du lịch sinh thái quốc tế, du lịch sinh
thái là du lịch có ý thức và trách nhiệm đối với môi
trường thiên nhiên, như bảo tồn môi trường và
bảo đảm lối sống lành mạnh cho người dân quanh
khu vực. Đây là một loại hình du lịch mà mỗi cộng
đồng trong khu vực nên có trách nhiệm bảo tồn
tính bền vững, hướng tới mục tiêu tạo công ăn
việc làm cho người dân địa phương, khuyến khích
người dân có ý thức bảo vệ môi trường, tạo thuận
lợi cho họ làm kinh tế du lịch và bảo vệ môi trường
tự nhiên [2].
Mặc dù du lịch sinh thái được xác định là một
trong những tiềm năng và thế mạnh đặc thù của
du lịch Việt Nam và phát triển du lịch sinh thái là
một hướng ưu tiên trong chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam, song cho đến nay việc khai thác
những tiềm năng to lớn này còn nhiều hạn chế.
Có thể thấy rằng, các chuyến du lịch đến các khu
tự nhiên của Việt Nam hiện nay còn mang tính đại
chúng, chưa đích thực là du lịch sinh thái. Du lịch
với số đông thường gây nên những tác động tiêu
cực đến môi trường tự nhiên và văn hóa, đặc biệt
là những khu vực nhạy cảm. Trong khi đó công tác
quy hoạch – phân vùng phát triển du lịch sinh thái
còn nhiều bất cập do du lịch Việt Nam chưa có
chiến lược cụ thể phát triển du lịch sinh thái – một
trong bốn dòng sản phẩm chính của du lịch Việt
Nam. Đây là một trong những nguyên nhân cơ
bản hạn chế phát triển du lịch sinh thái hiện nay.
Quy mô và hình thức tổ chức hoạt động sinh thái
còn nhỏ lẻ, mờ nhạt. Đầu tư phát triển du lịch sinh
thái chưa cao, chủ yếu vẫn là các dự án hỗ trợ
của các tổ chức quốc tế mang tính chất bảo tồn và
nâng cao năng lực cộng đồng tham gia vào du lịch
sinh thái tại một số vườn quốc gia và khu bảo tồn.
Chưa có các nghiên cứu thị trường bài bản nên
việc xác định thị trường mục tiêu, các phân đoạn
thị trường khách du lịch sinh thái chưa rõ ràng,
cùng với đó là xúc tiến, quảng bá du lịch sinh thái
còn yếu dẫn đến việc chưa thu hút, hấp dẫn khách
đến với dòng sản phẩm du lịch sinh thái.
Mặt khác, một phần do hạn chế của công tác quản
lý, một phần do ý thức du khách và người dân
chưa cao nên những hiện tượng tiêu cực vẫn xảy
ra tại các khu bảo tồn thiên nhiên như: chặt phá
rừng bừa bãi, săn bắn động vật trái phép, xả rác
không đúng nơi quy định, khắc đẽo thân cây
Thiếu sự đầu tư về kết cấu hạ tầng, cơ sở vật
chất kỹ thuật đặc thù cho phát triển du lịch sinh
thái hoặc lại xây dựng bừa bãi, không tuân thủ
các nguyên tắc phát triển du lịch sinh thái, gây phá
vỡ cảnh quan môi trường. Những trung tâm giáo
dục và diễn giải môi trường cho cả khách du lịch
và dân cư địa phương tại các vườn quốc gia, khu
bảo tồn còn rất hạn chế.
Điều bất cập hơn nữa là vai trò của cộng đồng địa
phương chưa được coi trọng, lợi ích từ du lịch hầu
như chưa đến được với họ.
Để góp phần tạo cơ sở ban đầu cho phát triển du
lịch sinh thái ở Việt Nam, việc nghiên cứu đánh
giá tiềm năng của các hệ sinh thái đặc trưng nhằm
phát triển loại hình du lịch này ở nước ta là quan
trọng và cần thiết. Điều này không chỉ có ý nghĩa
về mặt lí luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn trong
công tác quy hoạch phát triển du lịch sinh thái ở
các khu bảo tồn tự nhiên, phát triển các tuyến
điểm du lịch sinh thái trên phạm vi cả nước phù
hợp với đặc điểm tài nguyên, kinh tế - xã hội và
109
LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
góp phần hạn chế những tác động tiêu cực tiềm
ẩn của du lịch sinh thái đến môi trường tự nhiên,
văn hóa mà nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới đã phải trả giá khi phát triển loại hình du lịch
hấp dẫn này.
2. CÁC HỆ SINH THÁI ĐẶC TRƯNG
Tính chất đặc thù của thiên nhiên Việt Nam là mức
độ cao của đa dạng sinh học xuất phát từ đặc
điểm hình thành đã nêu. Giới sinh vật Việt Nam có
số lượng loài rất lớn.
Về thực vật, có tới 14.624 loài thuộc gần 300 họ,
trong đó có 1.009 loài và phân loài chim, 265 loài
thú, 346 loài bò sát lưỡng cư, 2.000 loài cá biển,
hơn 500 loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài tôm,
cua, nhuyễn thể và thủy sinh vật khác [1].
Loài cổ xưa và hiếm có như Tuế phát triển từ
Đại trung sinh, các loài có giá trị kinh tế gồm hơn
1.000 loài lấy gỗ, 100 loài có dầu, 90 loài có sợi,
70 loài có nhựa, 100 loài có chất chát, hơn 1.000
loài cây thuốc, 15 loài có bột, 100 loài quả rừng ăn
được [1].
Việt Nam là một trong những cái nôi của cây nông
nghiệp. Trên thế giới có 8 trung tâm cây trồng thì
3 trung tâm tập trung ở khu vực Đông Nam Á với
270 loài cây nông nghiệp, trong đó trung tâm lớn
nhất là Nam Trung Hoa có 136 loài. Tính sơ bộ ở
Việt Nam đã có hơn 200 loài cây trồng, trong đó
có tới 90% cây trồng thuộc Trung tâm Trung Hoa,
70% cây trồng thuộc trung tâm Ấn, Miến. Đây là
tiền đề cho tổ chức du lịch sinh thái canh nông [4].
Giới động vật Việt Nam có 10 loài đặc trưng nhiệt
đới: cheo, đồi, chồn bay, cầy mực, culi, vượn, tê
tê, voi, heo vòi, tê giác.
Tuy số lượng loài rất phong phú song số lượng cá
thể mỗi loài lại thấp. Vì vậy, trong quần thể độ bắt
gặp của các cá thể thường nhỏ, nhiều khi nhỏ hơn
chỉ số bắt gặp các loài khác nhau.
Các hệ sinh thái tự nhiên điển hình đặc trưng gồm:
2.1. Hệ sinh thái san hô
Hệ sinh thái san hô ở Việt Nam khá giàu về thành
phần loài, tương đương với các khu vực giàu san
hô khác ở Tây Thái Bình Dương, trong đó:
- Vùng ven bờ phía Bắc bước đầu đã định tên 95
loài thuộc 35 giống,13 họ.
- Vùng ven bờ phía Nam có 255 loài thuộc
69 giống.
- Vùng giàu san hô trên thế giới chỉ có số lượng
là 75 loài [5].
Các rạn san hô ở phía Bắc là các rạn san hô riềm
bờ. San hô tạo rạn thường mọc trên các sườn
ngầm của các đảo hoặc trong các bãi tùng áng
ven đảo phân bố từ vùng triều thấp tới độ sâu
10 m, trong đó có các rạn trong vùng kín điển hình
ở vùng Vạn Bội, Vạn Hà ở Đông Nam đảo Cát Bà,
các rạn ở eo biển hay lạch triều phân bố điển hình
ở phía ngoài Cát Cò, ở lạch triều gần Vạn Hà, ở
Đông Bắc đảo Cô Tô và Tây Nam đảo Thanh Lân,
các rạn ở mũi nhô hay quanh đảo tách biệt thấy
được ở phía ngoài đảo Ba Mùn, phía ngoài hòn
Vành, phía Đông Nam đảo Thân Lân và đảo Cô Tô.
Trong các rạn san hô phía Bắc quần tụ nhiều loài
sinh vật khác nhau, thường gặp là nhóm thân
mềm, nhiều đặc sản như tu hài, sò lông, trai ngọc,
bào ngư, bàn cuốc có số lượng khá lớn, các
loài trai ốc đẹp như ốc nón, ốc bảo bối chỉ gặp ở
các rạn quanh quần đảo Cô Tô. Nhóm giáp xác
cũng phong phú, trong đó có nhiều loài kinh tế
như tôm hùm, ghẹ, cua Các loài da gai như
hải sâm, sao biển Nhiều loài có màu sắc sặc
sỡ. Xen vào đó là các loài cá, rắn, rùa biển. Thực
vật sống trên cạn với số lượng phong phú là tảo
vôi, tảo lục, tảo nâu, trong đó rong mỡ là loài
kinh tế.
Tính chất đặc thù của tự nhiên cũng thể hiện trong
tính đa dạng của các loài san hô ở Việt Nam. Trong
mỗi hệ sinh thái san hô đều phong phú thành phần
loài, thường là hơn 100 loài, trong hệ sinh thái đều
có thể thấy sự có mặt của hầu hết các dạng san
hô ở các vùng khác.
Sự phân bố của các rạn san hô theo hai miền liên
quan đến các điều kiện khí hậu - hải văn trên vùng
Biển Đông, đặc biệt là các vùng biển ven bờ mà
nguyên nhân là hoạt động của các loài hoàn lưu
gió mùa, chủ yếu là không khí lạnh NPc vào mùa
đông ở các vùng biển phía Bắc nước ta.
Tác động của hoàn lưu ảnh hưởng mạnh đến nhiệt
độ nước biển, sóng, dòng chảy, do vậy mà các hệ
sinh thái san hô ở vùng biển phía Bắc kém phát
triển, nghèo về thành phần loài và kém đa dạng về
cấu trúc, độ lớn và độ che phủ của các rạn.
Mặt khác, do vùng biển ven bờ phía Bắc hàng năm
tiếp nhận một lượng cát bùn, phù sa lớn từ hệ
thống các sông ngòi trên lục địa như hệ thống các
sông Hồng, Thái Bình, Mã, Cả, đã ảnh hưởng
đến sự phát triển của các hệ sinh thái san hô.
Tuy vậy, sự đa dạng về thành phần loài, về cấu
trúc các rạn san hô của Việt Nam có ý nghĩa lớn
về du lịch sinh thái. Để tăng sức hấp dẫn, cần có
các hoạt động quảng bá trên các phương tiện
thông tin đại chúng về hệ sinh thái san hô của Việt
Nam. Đây chính là thực hiện yêu cầu cơ bản thứ
hai của du lịch sinh thái.
Các loại hình du lịch sinh thái có thể được khai
thác dựa trên hệ sinh thái san hô là du lịch
mạo hiểm, du lịch lặn biển, du lịch tham quan
nghiên cứu
110
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
2.2. Các hệ sinh thái đất ngập nước
Cũng như các hệ sinh thái san hô, các hệ sinh thái
đất ngập nước điển hình trên thế giới có thể tìm
thấy trên lãnh thổ nước ta.
Các hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng có
những đặc thù riêng, trong đó nổi bật là các hệ
sinh thái ngập mặn ven biển.
Ở đồng bằng Đông Nam Bộ, trên châu thổ sông
Cửu Long phân bố một diện tích lớn các hệ sinh
thái đất ngập nước, chủ yếu là các hệ sinh thái
ngập mặn và các hệ sinh thái đất ngập phèn (hệ
sinh thái đầm lầy nội địa).
Hệ sinh thái ngập mặn ven biển từ Vũng Tàu đến
Cà Mau là 191.800 ha, chiếm 76,11% tổng diện
tích rừng ngập mặn ven biển toàn quốc. Trong số
51 loài thực vật trong các vùng rừng ngập mặn
toàn quốc thì rừng ngập mặn ở đất Mũi có 21 [6].
Trong các hệ sinh thái ngập mặn thì các hệ sinh
thái rừng ngập mặn châu thổ sông Cửu Long nuôi
dưỡng một số lớn diệc, cò tại đây có các sân
chim lớn của Việt Nam. Rừng ngập mặn là nơi
sinh sản, cư trú của nhiều hải sản, chim nước,
chim di cư và các loài động vật có ý nghĩa kinh tế
lớn như khỉ, lợn rừng, kì đà, chồn, trăn
Nếu hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Việt Nam có
thành phần loài khá phong phú so với các nước
khác ở khu vực Đông Nam Á thì đa dạng này tập
trung chủ yếu ở các rừng ngập mặn châu thổ sông
Cửu Long, điều này được giải thích bởi sinh thái
cảnh ở đây rất thuận lợi với nền nhiệt cao, ổn định
quanh năm, cùng với sự trao đổi nước hai mùa:
mùa lũ – nước từ lục địa đổ ra, mùa khô – nước
biển tràn vào. Không chỉ vậy, khi triều cường và
triều rút cũng tác động đến lưu thông nước tạo
nên nguồn thức ăn phong phú cho động vật và
điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển. Vì vậy
mà các vùng ngập mặn ở châu thổ sông Cửu
Long có sức hấp dẫn cao.
Đứng sau rừng ngập mặn ven biển châu thổ sông
Cửu Long về diện tích là các rừng ngập mặn ven
biển khu vực Đông Bắc (Quảng Ninh) với diện tích
39.400 ha (15,6% tổng diện tích rừng ngập mặn).
Mức độ phong phú và đa dạng của hệ sinh thái
rừng ngập mặn Quảng Ninh kém hơn nhiều so
với ở ven biển Nam Bộ, song các hệ sinh thái này
có đặc trưng riêng của sinh thái cảnh, chịu ảnh
hưởng của mùa đông lạnh với các loài chim di
cư hàng năm đến đấy với số lượng lớn. Vì thế,
việc nghiên cứu quy hoạch các điểm du lịch sinh
thái rừng ngập mặn ở Đông Bắc cần được đầu tư,
xem xét trong hệ thống tuyến du lịch Quảng Ninh
nói riêng và Đông Bắc nói chung.
Một dạng hệ sinh thái đất ngập nước điển hình
khác là các đầm lầy nội địa, trong đó có các hệ sinh
thái rừng tràm U Minh, Đồng Tháp (tứ giác Long
Xuyên) của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là
rất nổi tiếng. Các hệ sinh thái này gắn liền với các
sinh thái cảnh thấp, trũng của các đồng bằng sông
Cửu Long và sông Hồng, với chế độ ngập nước
thường xuyên hoặc ngập nước theo mùa do ảnh
hưởng của chế độ lũ của các hệ thống sông tạo
châu thổ. Nguồn nước lũ hàng năm là nguồn cung
cấp các chất dinh dưỡng và tạo chế độ thay nước
định kỳ cho các vùng đầm lầy nội địa.
Các hệ sinh thái đầm lầy nội địa kết hợp với các
vùng sình lầy của sông tạo nên các vùng đất ngập
nước lớn ở hai châu thổ, nơi có số lượng lớn chim
cư trú và chim di cư hàng năm cùng với nguồn lợi
hết sức quý là mật ong rừng.
Một dạng đất ngập nước khác là đầm phá ven
bờ. Đây là dạng đất ngập nước đặc biệt điển hình
của các cửa sông vùng cồn cát miền Trung, hình
thành do cửa sông bị cát chắn theo chu kỳ.
Trong các đầm phá nổi tiếng là đầm Cầu Hai và
phá Tam Giang nằm trong tổng thể của quần thể
du lịch Huế. Nhiều đầm phá miền Trung nằm trong
quần thể có bãi biển dài, nước khá trong, độ dốc
thoải trong mùa nắng, nhiệt độ vừa phải (mùa khô
ở Thuận An) là đặc trưng của mô hình du lịch 3S:
Sun, Sea, Sand (nắng, biển và cát).
Các đầm phá ở miền Trung trong điều kiện sinh
thái khá ổn định và có mùa mưa lệch pha (từ
tháng 8 đến tháng 1) làm cho nguồn lợi sinh vật
phong phú, tạo những hấp dẫn lớn cho du lịch
sinh thái [5].
2.3. Hệ sinh thái vùng cát ven biển
Hệ sinh thái vùng cát ven biển của nước ta đa
dạng với hơn 60 vạn ha, tập trung chủ yếu ở ven
biển miền Trung (30% tổng diện tích).
Các nhóm hệ sinh thái cát hình thành trên các loại
cát khác nhau: hệ sinh thái vùng cồn cát trắng
vàng, hệ sinh thái vùng đất cát biển, hệ sinh thái
vùng đất cát đỏ.
Trong ba nhóm trên, nhóm hệ sinh thái cồn cát
trắng vàng phân bố ở hầu hết các tỉnh nhưng tập
trung ở vùng biển Nam Trung Bộ với các cồn cát
di động, sạch thuần khiết có ý nghĩa lớn cho du
lịch, nhất là trong điều kiện ven biển miền Trung
nơi mùa mưa ngắn và dịch về thu đông (từ tháng
9 đến tháng 12).
Nhóm 2, nhóm đất cát có độ mùn thấp 1% nhưng
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp sinh thái trên
đất cát, tập trung ở Nam Trung Bộ và Khánh Hòa.
Nhóm 3, đất cát đỏ có khoảng 77.000 ha, tập
trung ở hai tỉnh cực Nam Trung Bộ, là nhóm cát
111
LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
đặc biệt do tỷ lệ sắt cao, oxit silic có hàm lượng
khá cao (85-90%) có độ thuần khiết lớn. Đặc biệt
lớn là khối cát đỏ Tây Bắc Phan Thiết. Các cồn cát
đỏ do gió tác động thành các cồn cát di động nên
có khả năng vừa sử dụng trực tiếp các cồn cát đỏ
cho du lịch sinh thái, vừa có thể tạo sinh thái canh
nông trên đất cát (trồng hoa màu, dưa hấu, đào
lộn hột) tạo nên sức thu hút lớn du khách trong
và ngoài nước.
2.4. Các hệ sinh thái rừng nhiệt đới
Đặc trưng của các hệ sinh thái này là hệ thống
các vườn quốc gia, nơi lưu trữ các nguồn gen quý
hiếm của nước ta phân bố ở khắp các miền từ
Nam ra Bắc, từ đất liền đến các hải đảo.
Mỗi đơn vị vườn quốc gia và hệ thống rừng đặc
dụng có đặc điểm tự nhiên đặc thù, trong đó có
các loài động, thực vật quý hiếm cũng như sự
khác biệt về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, các đặc
điểm nhân văn do vậy là những địa điểm có ý
nghĩa lớn cho công tác nghiên cứu khoa học, cho
hoạt động tham quan thiên nhiên, trở về cội nguồn.
Trong các hệ sinh thái rừng nhiệt đới có các dạng
đặc thù là hệ sinh thái núi cao, hệ sinh thái rừng
khô hạn và hệ sinh thái rừng mưa.
Đặc trưng của các hệ sinh thái núi cao Việt Nam là
hệ sinh thái núi cao Fanxipang với đỉnh Fanxipang
cao 3.143 m.
So với núi cao khác thì khu vực Fanxipang không
phải là cao quá, song do địa hình hiểm trở, do thời
tiết không mấy khi thuận lợi nên việc chinh phục
đỉnh núi này cũng không dễ dàng. Mặt khác đây
là khối núi cao nhất Đông Nam Á, trên đó sự phân
hóa sinh thái phức tạp giữa sườn Đông và sườn
Tây, giữa các dạng địa hình, giữa các đá sinh vật
trên núi với rừng rêu, rừng đỗ quyên, rừng trúc
lùn trên các sống phân thủy, các đỉnh núi, đặc biệt
trong điều kiện không có dòng chảy từ độ cao trên
2400÷2600 m đã thu hút nhiều hoạt động du lịch
sinh thái.
Vùng núi cao Fanxipang nằm trong khu Bảo tồn
thiên nhiên Hoàng Liên Sơn với nhiều loài gen
quý hiếm như pơmu, tùng La hán, dương xỉ cây
Đa dạng sinh học của vùng núi cao Fanxipang và
khu nghỉ mát trên núi cao Sa Pa, là quần thể du
lịch đặc sắc, trong đó có hướng du lịch sinh thái
đang hứa hẹn nhiều triển vọng.
Ngoài ra còn có các vùng sinh thái núi cao khác
như Đà Lạt, Tam Đảo, Ba Vì, mỗi vùng có sắc
thái riêng đang chờ khai thác theo hướng du lịch
sinh thái.
Hệ sinh thái rừng khô hạn là loại hình đặc trưng
ở Đông Nam Á, tập trung ở khu vực Tây Nguyên.
Đây là các hệ sinh thái hình thành trong điều kiện
mùa mưa tập trung và mùa khô kéo dài đến bảy
tháng. Vì vậy, vào mùa mưa các hệ sinh thái này
đôi khi ngập đến 1 m ở các vùng trũng, mùa khô
đất nứt nẻ do thiếu nước.
Thực vật đặc trưng của các cây họ dầu có nhiều
dầu nhựa cùng với các loại gỗ quý khác. Hệ động
vật khá phong phú và đặc sắc với các loài nhiệt
đới khô đặc trưng như voi, tê giác, bò rừng
Hệ sinh thái rừng khộp lưu giữ nhiều nguồn gen
quan trọng không chỉ riêng đối với nước ta mà
còn đối với thế giới. Trong số 51 loài động vật quý
hiếm ở Đông Dương thì trong hệ sinh thái rừng
khộp phát hiện được 39 loài [6].
Du lịch trong rừng khộp trên lưng voi là một bản
sắc với sức hấp dẫn kì diệu.
3. GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC CÓ HIỆU QUẢ
CÁC HỆ SINH THÁI ĐẶC TRƯNG CHO PHÁT
TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VIỆT NAM
3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách
Để phát triển du lịch theo hướng thân thiện với
môi trường thì việc tạo cơ chế, chính sách phát
triển du lịch sinh thái bền vững là rất quan trọng.
Điều này tạo ra một hành lang pháp lý cho hoạt
động du lịch sinh thái nhằm làm cơ sở cho việc
giám sát chặt chẽ hoạt động du lịch và quản lý
nguồn tài nguyên.
Bên cạnh đó, cần giáo dục nâng cao ý thức thực
hiện luật bảo vệ môi trường cho mọi người dân.
Việc này không chỉ dừng lại ở du khách, cộng
đồng dân cư địa phương mà còn phải tiến hành
cả ở các cấp quản lý, các đơn vị và đối tượng kinh
doanh tại các điểm du lịch sinh thái bằng nhiều
hình thức, như tổ chức cuộc vận động, phổ biến
văn bản hướng dẫn, phát hành ấn phẩm, tổ chức
các buổi nói chuyện chuyên đề, phổ biến những
video clip về cảnh quan du lịch sinh thái hay thông
qua việc thuyết minh về bảo vệ môi trường của
các hướng dẫn viên du lịch
Cần đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát
triển du lịch sinh thái rộng rãi trên nhiều vùng miền
của đất nước. Cần có những quy hoạch hợp lý,
chính sách và dự án tối ưu trong phát triển du lịch
nhằm giảm thiểu các tác động đến môi trường,
trong đó gồm cả môi trường du lịch tự nhiên, môi
trường du lịch nhân văn, môi trường du lịch kinh
tế - xã hội.
Phải có được các cơ chế chính sách đồng bộ
khuyến khích việc khai thác các tiềm năng du lịch
sinh thái, đặc biệt ở các vườn quốc gia, khu bảo
tồn thiên nhiên. Điều này được thể hiện qua các
112
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
thông tư liên bộ giữa Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ Tài chính và Tổng cục Du lịch
về vấn đề này.
Tạo môi trường thuận lợi với những cơ chế cụ thể
có tính khuyến khích để mọi thành phần kinh tế có
thể đầu tư phát triển các khu du lịch sinh thái. Điều
này đặc biệt có ý nghĩa bởi việc thu hút vốn đầu tư
các dự án này thường dài và khả năng rủi ro cao.
3.2. Giải pháp về thị trường
Cần đầu tư cho những nghiên cứu chuyên đề về
thị trường du lịch sinh thái để xác định rõ yếu tố
cầu đối với loại hình du lịch này. Việc giải quyết
tốt vấn đề này sẽ tạo cơ sở vững chắc cho các kế
hoạch phát triển một cách bền vững có hiệu quả
cả về kinh tế và xã hội
Có đầu tư thỏa đáng cho công tác xúc tiến quảng
bá du lịch sinh thái góp phần tạo thị trường đối với
loại hình du lịch hấp dẫn này.
3.3. Giải pháp về quy hoạch
Căn cứ vào những đánh giá có tính tổng quan của
những nghiên cứu về du lịch sinh thái, cần tập
trung xúc tiến việc quy hoạch chi tiết phát triển
các khu du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên làm cơ sở cho các dự án đầu
tư, đảm bảo sự phát triển bền vững ở những khu
vực này.
Trong quá trình quy hoạch chi tiết, lập các dự án
khả thi, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa chuyên
gia quy hoạch du lịch với các chuyên gia ở những
lĩnh vực liên quan, ban quản lý các vườn quốc
gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt với
chính quyền và cộng đồng địa phương.
3.4. Giải pháp về đào tạo
Hoạt động du lịch sinh thái còn là lĩnh vực mới đối
với du lịch Việt Nam, nên đội ngũ các nhà quản
lý, kinh doanh và lực lượng lao động trực tiếp còn
thiếu kinh nghiệm cả về lí luận và thực tiễn. Chính
vì vậy, việc đào tạo một cách có hệ thống các nhà
quản lý và đội ngũ lao động trong lĩnh vực này là
rất quan trọng.
Thực tế cho thấy các nhân viên, hướng dẫn viên
du lịch sinh thái của các vườn quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên còn thiếu và yếu về chuyên môn.
Có tới 88% cán bộ chưa có đủ năng lực về xây
dựng kế hoạch và triển khai du lịch sinh thái, 73%
chưa có năng lực tốt về diễn giải môi trường
Cần gấp rút tiến hành đào tạo đội ngũ quản lý trực
tiếp các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên
về du lịch sinh thái để có thể phối hợp với các nhà
tổ chức có hiệu quả hoạt động du lịch sinh thái ở
những khu vực này.
Có một chương trình đặc biệt đào tạo các hướng
dẫn viên du lịch sinh thái. Cần chú ý đến việc
đào tạo những người địa phương có năng lực để
họ có thể trở thành những hướng dẫn viên phục
vụ cho hoạt động du lịch sinh thái trên mảnh đất
của họ.
3.5. Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng
Trước tiên, phát triển du lịch kéo theo việc xây
dựng kết cấu hạ tầng khách sạn và các công
trình dịch vụ du lịch, tất yếu dẫn đến việc xâm lấn
những diện tích đất đai vốn trước đây dành cho
trồng trọt và chăn nuôi, vừa làm giảm đi quỹ đất
nông nghiệp vừa gây ô nhiễm môi trường sống,
làm mất đi cảnh quan tự nhiên, thậm chí làm tổn
hại nghiêm trọng đến đa dạng sinh học cũng như
sức khỏe của con người. Cụ thể là việc sử dụng
đất đai, xây dựng các cơ sở dịch vụ du lịch và
các hoạt động liên quan đến việc vận hành và bảo
dưỡng các công trình du lịch cần thiết để duy trì
các hoạt động giải trí cho du khách có nhiều tác
động tiêu cực trước mắt và lâu dài, như việc thải
bừa bãi các vật liệu xây dựng, đất đá và các vật
liệu nạo vét, đặc biệt là những nơi chặt phá rừng
ngập mặn, làm cho chất lượng nước giảm đi rất
nhiều. Việc giải phóng mặt bằng và san ủi đất để
xây dựng các công trình và làm đường có thể đã
gây ra xói mòn, sụt lở đất, ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng nước mặt. Việc đổ rác bừa bãi,
việc thải một lượng xăng dầu nhất định trong quá
trình vận hành các thiết bị xây dựng làm cho chất
lượng nguồn nước kém đi, vừa ô nhiễm nước
mặt vừa ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng nước
ngầm do nước thải không được xử lý đúng quy
trình. Việc tăng cường sử dụng giao thông cơ giới
là nguyên nhân đáng kể gây nên bụi bặm và ô
nhiễm không khí.
Do đặc điểm các khu vực có tiềm năng du lịch
sinh thái thường nằm ở vùng sâu, vùng xa, vì
vậy hiện nay điều kiện tiếp cận còn rất nhiều khó
khăn. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác
các tiềm năng phục vụ phát triển du lịch sinh thái.
Chính vì vậy, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
đến những khu vực này không chỉ có ý nghĩa kinh
tế - xã hội mà còn có ý nghĩa đặc biệt đảm bảo cho
sự phát triển bền vững của du lịch sinh thái.
3.6. Giải pháp về xã hội
Du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những
mối quan hệ phát sinh do tác động qua lại giữa
khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính
quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương, do
đó du lịch có tác động không nhỏ tới cộng đồng
dân cư sở tại. Du lịch tạo cơ hội về việc làm, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân. Đồng
thời chính lòng hiếu khách, phong tục tập quán,
bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng dân cư cũng
113
LIÊN NGÀNH KHOA HỌC TRÁI ĐẤT - MỎ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190. Số 3(62).2018
là yếu tố hấp dẫn du khách. Vì vậy, phát triển du
lịch mà vẫn bảo vệ được môi trường sống, làm
phong phú thêm môi trường tự nhiên và bảo tồn,
phát huy được những đặc sắc văn hóa bản địa là
xu hướng tất yếu để bảo đảm sự bền vững.
Nâng cao nhận thức và khuyến khích cộng đồng
dân cư địa phương tích cực tham gia vào các hoạt
động du lịch.
Sự tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác các
hệ sinh thái điển hình.
Lồng ghép nâng cao nhận thức cho cộng đồng
về phát triển du lịch vào các chương trình dự án.
Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng
đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật, nâng cao
dân trí, nâng cao hiểu biết về phát triển du lịch bền
vững cho cư dân địa phương.
Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia
tích cực vào hoạt động du lịch, vào nỗ lực bảo vệ,
tôn tạo và phát triển tài nguyên du lịch.
Bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa của các dân
tộc ít người nhằm phát triển du lịch một cách bền
vững, góp phần giảm thiểu sự xâm hại của cộng
đồng dân cư địa phương vào các hệ sinh thái
điển hình.
3.7. Giải pháp về phát triển du lịch nông nghiệp
sinh thái
Phát triển du lịch cộng đồng gắn với du lịch nông
nghiệp sinh thái là loại hình du lịch đưa du khách
trở về thiên nhiên, tìm hiểu phong tục tập quán,
đời sống sinh hoạt của bà con bản địa. Tuy nhiên,
thời gian tới Việt Nam cần tận dụng các nguồn vốn
để đầu tư cơ sở hạ tầng, tích cực tuyên truyền,
vận động người dân gìn giữ nét đẹp văn hóa, khôi
phục làng nghề, trồng hoa ở các bản du lịch. Hình
thành các vùng sản xuất tập trung như cây mắc
ca, lúa, rau sạch để các bản làng trở thành điểm
đến lý tưởng của du khách.
3.8. Giải pháp về đa dạng hóa các sản phẩm
du lịch
Một giải pháp hết sức quan trọng mà các vườn
quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên phải triển khai
ngay, để phát huy các tiềm năng sẵn có và tăng
cường sự cuốn hút với du khách, đó là phát triển
các sản phẩm du lịch sinh thái đặc thù. Tùy theo
tiềm năng và điều kiện thực tế, mỗi vườn quốc
gia và khu bảo tồn thiên nhiên nghiên cứu, phát
triển và xây dựng các sản phẩm phù hợp. Chẳng
hạn như các tour xem chim, xem thú, tham quan
các hệ sinh thái và cảnh quan đặc trưng, các hoạt
động tình nguyện gắn với công tác bảo tồn. Đây
là điểm mấu chốt để làm nổi bật hoạt động du lịch
sinh thái tại các các vườn quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên, song đến nay ngoài một số vườn
như Cúc Phương, còn đa số vẫn chưa được thực
hiện tốt.
4. KẾT LUẬN
Du lịch sinh thái ở Việt Nam là hướng phát triển
có nhiều triển vọng dựa trên sự đa dạng và phong
phú của các hệ sinh thái đặc trưng, điển hình.
Các hệ sinh thái ở nước ta hình thành trong điều
kiện đặc thù, tạo bởi hoàn cảnh địa lý, vị trí và lịch
sử hình thành của thiên nhiên Việt Nam. Chính
điều này đã tạo nên sức hấp dẫn to lớn về mặt
sinh thái.
Tuy nhiên, để đưa những đặc thù sinh thái thành
tiềm năng du lịch đòi hỏi phải có công đoạn nghiên
cứu chuyển dạng, chuyển từ tiềm năng tự nhiên
sang tiềm năng du lịch sinh thái. Làm sao cho du
khách thấy được những gì mà thế giới sinh vật
của khu vực có, của châu Á có, ở các hệ sinh thái
của chúng ta cũng có như một bức tranh sinh thái
nhỏ của toàn khu vực, ngược lại cũng cho họ thấy
những gì mà có trong các hệ sinh thái của Việt
Nam. Đây chính là tạo nên sức thu hút, hấp dẫn
du lịch của du lịch sinh thái Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Huy Bá (2016). Du lịch sinh thái. NXB Đại học
Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
[2]. Phạm Việt Hà (2016). Phát triển du lịch sinh thái ở
nước ta hiện nay. Tạp chí Cộng sản số 879.
[3]. Phạm Trung Lương (2002). Du lịch sinh thái
những vấn đề về lí luận và thực tiễn phát triển ở
Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4]. Phạm Trung Lương (2000). Tài nguyên và môi
trường du lịch Việt Nam. NXB Giáo dục, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Minh Tuệ (2012). Địa lý du lịch Việt Nam.
NXB Giáo dục, Hà Nội.
[6]. Tuyển tập báo cáo Hội thảo về du lịch sinh thái
và phát triển bền vững ở Việt Nam (1998). Viện
nghiên cứu phát triển du lịch, IUCN, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_he_sinh_thai_dac_trung_co_so_cua_phat_trien_du_lich_sinh.pdf