LIFSAP (2013) nhận định 70% CSGM chỉ
giết mổ và bán thịt xẻ cho người phân phối
thịt lợn (bán lẻ và bán buôn), 24% CSGM chỉ
giết mổ và bán thịt cho người bán buôn, 6%
CSGM bán trực tiếp thịt đến người tiêu dùng
tại Việt Nam nói chung [7], [8]. Tuy nhiên,
phần lớn thương lái nội tỉnh vừa là người giết
mổ vừa là người phân phối thịt lợn tại Lâm
Đồng. Kênh sản xuất cung ứng thịt lợn nội
tỉnh Lâm Đồng có nhiều tác nhân tham gia
giống như tại Nghệ An và Cần Thơ. Kênh sản
xuất cung ứng thịt lợn tại Nghệ An chỉ có 4
kênh chính, việc thanh toán chủ yếu thông
qua tiền mặt và hợp đồng miệng [9]. Một
nghiên cứu khác chỉ ra rằng người bán lẻ thịt
lợn tại Cần Thơ bỏ rất ít vốn do nhận thịt gối
đầu để bán, giống kết quả trong nghiên cứu
này tại Lâm Đồng [10]. Ngoài ra, 36,5% thịt
lợn do CSGM bán cho người phân phối thịt
lợn trong xã tại Cần Thơ, trường hợp này tại
Nghệ An chiếm 65,52%, cả hai đều thấp hơn
so với Lâm Đồng trong nghiên cứu này
(87,5%). Như vậy, việc hình thành chuỗi
ngắn sản xuất – tiêu thụ thịt lợn trong tỉnh có
thể sẽ dễ dàng hơn so với hai tỉnh này.
Người chăn nuôi luôn là đối tượng chịu rủi ro
nhiều nhất dù đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo sản phẩm. Họ phải chịu chi phí đầu
vào cũng như sự biến động của các yếu tố
như giá thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, giống,
dịch bệnh. Thậm chí, giá trị gia tăng của
người chăn nuôi chỉ chiếm 15% tổng giá trị
gia tăng cả chuỗi [8]. Trong khi đó, người
giết mổ và người phân phối chiếm hơn 40%
giá trị gia tăng. Tại Lâm Đồng, kênh phân
phối hiện đại thông qua các siêu thị lớn hoặc
cửa hàng của công ty chăn nuôi theo “chuỗi
từ trang trại đến bàn ăn” khó phát triển do
thói quen mua thịt tươi hàng ngày từ chợ
truyền thống của người tiêu dùng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các kênh sản xuất và cung ứng thịt lợn tại tỉnh Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(11): 102 - 106
102 Email: jst@tnu.edu.vn
CÁC KÊNH SẢN XUẤT VÀ CUNG ỨNG THỊT LỢN TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG
Phạm Thị Thanh Thảo
Trường Đại học Đà Lạt
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện tại 3 địa phương phát triển chăn nuôi lợn mạnh nhất tỉnh Lâm Đồng nhằm
mô tả kênh sản xuất – cung ứng thịt lợn. Các tác nhân tham gia kênh đã được phỏng vấn trực tiếp
thông qua bộ câu hỏi bán cấu trúc tại 162 cơ sở chăn nuôi, 40 hộ thương lái, 23 cơ sở giết mổ, 31 chợ,
1 siêu thị và 27 nhà hàng, khách sạn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, kênh sản xuất – cung ứng thịt lợn
tại tỉnh Lâm Đồng tương đối phức tạp với nhiều tác nhân khác nhau và không được liên kết chặt chẽ.
Tuy nhiên, tỉnh Lâm Đồng có điều kiện phù hợp cho việc hình thành chuỗi sản xuất – cung ứng thịt
lợn ngắn tại địa phương là 87,5% cơ sở giết mổ thực hiện trực tiếp thu mua lợn và phân phối thịt lợn.
Từ khóa: Cung ứng; kênh; sản xuất; thịt lợn; Lâm Đồng
Ngày nhận bài: 14/01/2020; Ngày hoàn thiện: 23/10/2020; Ngày đăng: 31/10/2020
THE PORK PRODUCTION – SUPPLY CHAIN IN LAM DONG PROVINCE
Pham Thi Thanh Thao
Dalat University
ABSTRACT
The study was conducted in three localities which had the most developing pig production in Lam
Dong province to describe the pork production – supply chain. The participants in the chain were
interviewed directly through a semi-structured questionnaire at 162 farms, 23 slaughterhouses, 31
markets, one supermarket, 27 restaurants, hotels, and with 40 traders. The studied results showed that
the pork production and supply chain in Lam Dong province was relatively complex with many
different actors and was not strictly linked. However, Lam Dong province had the right conditions for
the establishment of the short pork production - supply chain in the locality that was 87.5% of
slaughter facilities directly purchasing pig and distributing pork.
Keywords: Supply; chain; production; pork; Lam Dong
Received: 14/01/2020; Revised: 23/10/2020; Published: 31/10/2020
Email: thaoptt@dlu.edu.vn
Phạm Thị Thanh Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 102 - 106
Email: jst@tnu.edu.vn 103
1. Giới thiệu
Việt Nam là một trong những nước tiêu thụ
thịt lợn/ người nhiều nhất thế giới [1]. Theo
phân tích của các chuyên gia trong nước, Việt
Nam sẽ là một trong những thị trường sản
xuất thịt phục vụ cho các nước phát triển
trong những năm tới. Trong đó, Lâm Đồng là
một trong số các tỉnh phát triển mạnh chăn
nuôi lợn của miền Nam Việt Nam, không
những cung cấp thịt lợn trong tỉnh mà còn cho
các tỉnh lân cận và xuất khẩu [2].
Kênh sản xuất – cung ứng thịt lợn Việt Nam
có những đặc điểm khác với các nước phát
triển là từ sản xuất đến phân phối tỷ lệ cơ sở
sản xuất nông hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Chuỗi thịt lợn bị phân đoạn vì sự tham gia
của nhiều tác nhân nhỏ tạo ra thị trường sản
xuất thịt lợn rất khó kiểm soát [3]. Giải pháp
phù hợp để đảm bảo việc điều tiết cung cầu
thị trường một cách bền vững là liên kết chăn
nuôi theo chuỗi giá trị sẽ giúp các thành phần
tham gia chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm với
nhau [4], [5]. Vì vậy, việc nghiên cứu kênh
sản xuất – cung ứng thịt lợn là cần thiết nhằm
tạo tiền đề cho việc liên kết chuỗi sản xuất –
cung ứng thịt lợn tại tỉnh Lâm Đồng.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các tác nhân tham gia kênh sản xuất - cung
ứng thịt lợn tại 3 ba huyện/ thành phố có ngành
chăn nuôi lợn phát triển nhất cho tỉnh Lâm
Đồng là thành phố Bảo Lộc, huyện Đức Trọng
và huyện Lâm Hà (căn cứ vào sản lượng lợn
và thịt lợn năm 2015 [6]). Tại mỗi huyện hoặc
thành phố, 3 xã hoặc phường đại diện về mức
độ đô thị hóa (dựa trên tỷ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị trên tổng số dân trong xã/ phường)
được chọn để khảo sát trực tiếp từ tháng 02
năm 2015 đến tháng 08 năm 2015.
2.2. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Tại mỗi xã nghiên cứu, 10% cơ sở chăn nuôi
được lựa chọn ngẫu nhiên theo danh sách các
hộ hoặc trang trại chăn nuôi lợn ở xã. Các xã
có trang trại ít hơn 10 thì khảo sát 1 trang trại.
Tổng số 67 hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, 86 trang trại
bán công nghiệp và 9 trang trại công nghiệp
đã được lựa chọn. Ngoài ra, 50% cơ sở thu
gom lợn hoặc giết mổ lợn (40 thương lái, 23
cơ sở giết mổ (CSGM)); 100% chợ, siêu thị
(31 chợ, 1 siêu thị) và 27 nhà hàng, khách
sạn, quán ăn (3 cơ sở đại diện mỗi xã) thuộc
địa bàn nghiên cứu được điều tra để thu thập
các thông tin liên quan đến kênh sản xuất -
cung ứng thịt lợn.
2.3. Phương pháp điều tra
Người chăn nuôi, người thu gom hoặc giết
mổ lợn và người phân phối thịt lợn được
phỏng vấn trực tiếp theo bộ câu hỏi soạn sẵn
nhằm thu thập các thông tin chi tiết của kênh
sản xuất – cung ứng thịt lợn. Cụ thể: Các
thông tin về bán lợn cho ai; phương thức bán
lợn là gì được thu thập tại các hộ hoặc trang
trại chăn nuôi. Thông tin mua lợn từ ai và
hình thức mua lợn là gì; được thu thập tại các
cơ sở thu gom hoặc giết mổ lợn. Cuối cùng,
các thông tin còn thiếu về địa điểm mua thịt
được bổ sung thêm từ các chợ, siêu thị, nhà
hàng, quán ăn, trường học.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Phần mềm Excel 2010 được sử dụng để tổng
hợp, phân tích số liệu và thống kê mô tả kênh
sản xuất - cung ứng thịt lợn.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Tổng thể kênh sản xuất – cung ứng thịt
lợn tỉnh Lâm Đồng
Trên cơ sở các thông tin liên quan đến hoạt
động của các tác nhân tham gia ngành hàng
thịt lợn, các kênh sản xuất - cung ứng thịt lợn
khác nhau tại tỉnh Lâm Đồng được tổng hợp
như sau (Hình 1):
+ Kênh 1 là dạng phổ biến nhất, xuất phát từ
các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hay trang trại chăn
nuôi đến thương lái ngoại tỉnh, sau đó đến
bán sỉ hay bán lẻ lợn ra ngoại tỉnh.
+ Kênh 2 xuất phát từ hộ chăn nuôi nhỏ lẻ
hay trang trại chăn nuôi đến người giết mổ
lợn và bán thịt lợn tại quầy thịt rồi đến người
bán sỉ, bán lẻ thịt lợn khác.
Phạm Thị Thanh Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 102 - 106
Email: jst@tnu.edu.vn 104
+ Kênh 3 là từ hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hay trang
trại chăn nuôi đến người giết mổ lợn và bán
thịt lợn tại quầy thịt.
+ Kênh 4 là từ hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hay trang
trại chăn nuôi qua thương lái nội tỉnh 1 đến
thương lái nội tỉnh 2, đến CSGM nội tỉnh, đến
bán sỉ hay bán lẻ nội tỉnh.
+ Kênh 5 là từ hộ chăn nuôi nhỏ lẻ hay trang
trại chăn nuôi qua thương lái nội tỉnh đến
người trực tiếp giết mổ lợn và bán thịt lợn tại
quầy hay đến bán sỉ nội tỉnh.
+ Kênh 6 kém phổ biến hơn, từ hộ chăn nuôi
nhỏ lẻ hay trang trại chăn nuôi qua thương lái
nội tỉnh đến CSGM nội tỉnh và đến người bán
sỉ hoặc người bán lẻ nội tỉnh.
+ Kênh 7 là từ hộ chăn nuôi lợn nhỏ lẻ trực
tiếp đến CSGM và sau đó đến người bán thịt.
+ Kênh 8 là một vài trường hợp lợn từ hộ
chăn nuôi nhỏ lẻ hay trang trại qua thương lái
nội tỉnh rồi đến thương lái ngoại tỉnh và
chuyển qua bán sỉ/ bán lẻ ngoại tỉnh.
Như vậy, các kênh sản xuất - cung ứng thịt
lợn ở Lâm Đồng có sự tham gia của nhiều tác
nhân và tương đối phức tạp.
Thực tế, lợn bán trên thị trường tỉnh Lâm
Đồng phần lớn chưa nhận diện được nguồn
gốc. Người nông dân hầu như không biết ai là
người thu mua lợn, họ bán lợn cho người trả
giá cao nhất tại thời điểm bán hoặc cho người
thu mua đến tận nơi, thậm chí là thỏa thuận
mua bán qua điện thoại và người vận chuyển
đến bắt lợn và thanh toán tiền. Việc lựa chọn
người mua lợn là yếu tố khó lường và không
ổn định.
Hình 1. Các kênh sản xuất – cung ứng thịt lợn tại tỉnh Lâm Đồng
Lưu ý: Ký hiệu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 trên mũi tên là con đường di chuyển của các kênh sản xuất cung ứng
thịt lợn tương ứng.
3.2. Các tác nhân tham gia kênh sản xuất –
cung ứng thịt lợn tỉnh Lâm Đồng
Qua điều tra thông tin từ thương lái nội tỉnh
Lâm Đồng, các tác nhân tham gia vào kênh
sản xuất - cung ứng thịt lợn được truy xuất
ngược đến tác nhân sản xuất lợn và truy xuất
xuôi đến các tác nhân cung ứng thịt lợn, thị
trường tiêu thụ thịt lợn cũng được xác định
(Hình 2). Thương lái mua lợn từ hộ chăn nuôi
là chủ yếu (71,25%). Thương lái gọi điện
thoại tới người chăn nuôi hoặc môi giới trước
khi đến xem lợn và bắt lợn sau khi làm hợp
đồng miệng. Thực tế, có 19,5% trường hợp
thương lái phải thu mua lợn qua môi giới với
giá cao hơn giá thu mua trực tiếp từ hộ chăn
nuôi hay trang trại. Hoặc thương lái thỏa
thuận trả 100.000 - 200.000 VNĐ/ lần cho
môi giới (tùy số lượng lợn) để lấy địa chỉ hộ
chăn nuôi đang cần bán lợn.
1, 8
4
4, 6, 7
8
7
6
4
5
4, 5,
6, 8
3
2, 4, 5,
6, 7
2, 5
2, 3
1
Hộ,
trang
trại
chăn
nuôi
Thương lái
nội tỉnh 1
Thị trường
nội tỉnh
Thương lái
nội tỉnh 2
Người giết mổ lợn
và tự bán thịt
Người
bán
thịt
Người
giết
mổ
lợn
Thương lái
ngoại tỉnh
Thị trường
ngoại tỉnh
Phạm Thị Thanh Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 102 - 106
Email: jst@tnu.edu.vn 105
Hình 2. Tỷ lệ các tác nhân tham gia kênh sản xuất - cung ứng thịt lợn tại tỉnh Lâm Đồng
Lưu ý: Mũi tên đường liền chỉ sự liên kết giữa các tác nhân được nối. Mũi tên đường đứt đoạn là phân loại
chức năng của thương lái nội tỉnh và khu vực phân phối người tiêu dùng.
LIFSAP (2013) nhận định 70% CSGM chỉ
giết mổ và bán thịt xẻ cho người phân phối
thịt lợn (bán lẻ và bán buôn), 24% CSGM chỉ
giết mổ và bán thịt cho người bán buôn, 6%
CSGM bán trực tiếp thịt đến người tiêu dùng
tại Việt Nam nói chung [7], [8]. Tuy nhiên,
phần lớn thương lái nội tỉnh vừa là người giết
mổ vừa là người phân phối thịt lợn tại Lâm
Đồng. Kênh sản xuất cung ứng thịt lợn nội
tỉnh Lâm Đồng có nhiều tác nhân tham gia
giống như tại Nghệ An và Cần Thơ. Kênh sản
xuất cung ứng thịt lợn tại Nghệ An chỉ có 4
kênh chính, việc thanh toán chủ yếu thông
qua tiền mặt và hợp đồng miệng [9]. Một
nghiên cứu khác chỉ ra rằng người bán lẻ thịt
lợn tại Cần Thơ bỏ rất ít vốn do nhận thịt gối
đầu để bán, giống kết quả trong nghiên cứu
này tại Lâm Đồng [10]. Ngoài ra, 36,5% thịt
lợn do CSGM bán cho người phân phối thịt
lợn trong xã tại Cần Thơ, trường hợp này tại
Nghệ An chiếm 65,52%, cả hai đều thấp hơn
so với Lâm Đồng trong nghiên cứu này
(87,5%). Như vậy, việc hình thành chuỗi
ngắn sản xuất – tiêu thụ thịt lợn trong tỉnh có
thể sẽ dễ dàng hơn so với hai tỉnh này.
Người chăn nuôi luôn là đối tượng chịu rủi ro
nhiều nhất dù đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo sản phẩm. Họ phải chịu chi phí đầu
vào cũng như sự biến động của các yếu tố
như giá thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, giống,
dịch bệnh... Thậm chí, giá trị gia tăng của
người chăn nuôi chỉ chiếm 15% tổng giá trị
gia tăng cả chuỗi [8]. Trong khi đó, người
giết mổ và người phân phối chiếm hơn 40%
giá trị gia tăng. Tại Lâm Đồng, kênh phân
phối hiện đại thông qua các siêu thị lớn hoặc
cửa hàng của công ty chăn nuôi theo “chuỗi
từ trang trại đến bàn ăn” khó phát triển do
thói quen mua thịt tươi hàng ngày từ chợ
truyền thống của người tiêu dùng.
4. Kết luận
Thịt lợn tại tỉnh Lâm Đồng được phân phối
theo 8 kênh sản xuất – cung ứng khác nhau.
Các kênh này thường phức tạp với sự tham
gia của nhiều tác nhân. Người chăn nuôi chịu
nhiều rủi ro khi đối tượng mua lợn không ổn
định. Tuy nhiên, 87,5% cơ sở tiến hành thu
mua lợn trực tiếp từ người chăn nuôi, giết mổ
lợn và tự phân phối thịt lợn đến người tiêu
dùng chính là lợi thế để chuỗi sản xuất cung
ứng thịt lợn ngắn hình thành và tồn tại bền
vững trong tỉnh Lâm Đồng.
Thương lái nội tỉnh
71,25 % 28,75 %
Hộ chăn nuôi Trang trại
Cơ sở giết mổ tự
bán thịt
Cơ sở giết mổ
Thương lái
87,50 %
10,00 %
2,50 %
66,86 %
Cơ sở tự bán
thịt
Người bán thịt Nhà hàng, trường
học, quán ăn,
29,71 % 3,43 %
Người tiêu
dùng
Tại xã/huyện
Trong tỉnh
87,50 %
10,00 %
12,50 %
Ngoại tỉnh
100 % 100 % 100 %
Phạm Thị Thanh Thảo Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 102 - 106
Email: jst@tnu.edu.vn 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. The World Bank, Food safety risk
management in Vietnam: Challenges and
opportunities. Public Disclosure Authorized,
Hanoi, 2017.
[2]. Department of Agriculture and Rural
Development of Lam Dong province, Project
on food safety in vegetables, tea and meat
until 2015, Report No. 317/QD-UBND, Lam
Dong, 2011.
[3]. L. Theuvsen, C. H. Plumeyer, and J. C.
Gawron, “Certification systems in the meat
industry: Overview and consequences for
chain-wide communication,” Polish Journal
of Food and Nutrition Sciences, vol. 57, no.
4C, pp. 563-569, 2007.
[4]. R. Ruben, D. Boselie, and H. Lu, “Vegetable
procurement by Asian supermarkets: a
transaction cost approach,” Supply Chain
Management: An International Journal, vol.
12, no. 1, pp. 60-68, 2007.
[5]. J. Trienekens, and P. Zuurbier, “Quality and
safety standards in the food industry,
developments and challenges,” International
Journal of Production Economics, vol. 113,
pp. 107-122, 2008.
[6]. Statistics Office of Lam Dong province,
Statistical Yearbook of Lam Dong province in
2014, Dalat's Map Department, 2015.
[7]. The Livestock Competitiveness and Food
Safety Project, The training documents on
fresh food market operating procedures,
LPS/2013/2457/Final Report, LIFSAP,
Hanoi, 2013.
[8]. N. V. Giap, N. T. Lien, T. T. U. Linh, D. M.
Hung, and D. D. Huy, Vietnam Livestock
Market - Changing structure to enhance
competition. Hanoi Publishing House, 2015.
[9]. P. T. Tan, and P. V. Hung, “The study on
marketing actors of distributional channel of
pork products in Nghe An province,” Journal
of Scientific Research and Development, vol.
11, no. 5, pp. 767-776, 2013.
[10]. B. V. Trinh, “The market agents of
marketing channel of pig products in Can Tho
city,” Can Tho University Journal of Science,
vol. 3, pp. 110-118, 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_kenh_san_xuat_va_cung_ung_thit_lon_tai_tinh_lam_dong.pdf