Đối với các quy định của BLLĐ liên quan
đến LĐCBHBB đã phù hợp với nội dung của
Công ước 29, nên quy định chế tài đủ mạnh để
đảm bảo cho việc thực thi những quy định đó
một cách hiệu quả trong đời sống thực tiễn.
Kết quả của quá trình hạn chế và tiến tới
xoá bỏ hoàn toàn LĐCBHBB không chỉ lệ
thuộc vào yếu tố luật pháp mà còn lệ thuộc vào
chính ý thức pháp luật của NSDLĐ bởi chủ
thể của hành vi này chỉ có thể là NSDLĐ. Bên
cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
cũng cần có chế tài đủ mạnh để đảm bảo tính
răn đe và giáo dục NSDLĐ trong việc chấp
hành các quy định của pháp luật liên quan
đến LĐCBHBB. Ví dụ, mặc dù pháp luật đã
nghiêm cấm, nhưng chưa có chế tài cụ thể, nên
tình trạng buộc NLĐ phải đặt cọc tiền trước
khi vào làm việc hay giữ văn bằng, chứng chỉ
gốc của NLĐ nhằm trói buộc người làm lao
động trong quan hệ lao động tại một số doanh
nhiệp tư nhân vẫn xảy ra. Hay mức bồi thường
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp chưa đủ
để nâng cao ý thức, trách nhiệm của NSDLĐ
trong việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh
lao động cho NLĐ. Trên cơ sở quy định về các
hình thức cưỡng bức hoặc bắt buộc lao động,
cần quy định rõ ràng và cụ thể chế tài phù hợp
với mức độ nguy hiểm của từng hình thức. Cần
xác định LĐCBHBB ở một góc độ nào đó là
một loại tội phạm, nên ngoài trách nhiệm hành
chính thì tuỳ mức độ nguy hiểm của hành vi,
có thể quy định một cách cụ thể rõ ràng trách
nhiệm hình sự liên quan đến tội danh huy động
bất hợp pháp LĐCBHBB.
Trước yêu cầu của hội nhập và toàn cầu
hoá, khi pháp luật quốc tế cũng như pháp luật ở
nhiều quốc gia quy định không sử dụng LĐCB
là một trong những tiêu chuẩn đối với hàng
hoá xuất, nhập khẩu thì việc phòng, chống
và xoá bỏ các hành vi LĐCBHBB không chỉ
dừng lại ở nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc
tế của quốc gia thành viên Công ước 29, mà là
vấn đề có tính cấp bách phải thực hiện để đảm
bảo “giấy thông hành” cho hàng hoá và dịch
vụ của các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị
trường quốc tế. LĐCBHBB ở Việt Nam chưa
phải là hiện tượng phổ biến, song với sự phức
tạp của quan hệ lao động trong quá trình Việt
Nam ngày càng đi vào nền kinh tế thị trường
thực chất, thiết nghĩ đây là vấn đề cấp bách mà
quá trình sửa đổi, bổ sung BLLĐ 1994 cần quy
định một cách cụ thể, phù hợp.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các kiến nghị sửa đổi bộ luật lao động 1994 từ việc thực hiện công ước số 29 của ILO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 337
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
I. Tình hình thực hiện Công ước số 29 của
ILO về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc
Ngày 29/1/2007, Chủ tịch nước đã ký quyết
định số 148/2007/QĐ-CTN về việc gia nhập
Công ước số 29 về lao động cưỡng bức hoặc
bắt buộc (LĐCBHBB) của Tổ chức Lao động
thế giới (ILO) và chính thức trở thành thành
viên của Công ước từ ngày 05/3/2007. Việc
gia nhập Công ước đã tạo điều kiện cho Việt
Nam hội nhập quốc tế, phát triển quan hệ lao
động hài hòa và ổn định, tiếp tục nâng cao vị
thế trên trường quốc tế.
Công ước số 29, được thông qua tại kỳ họp
thứ 14 của ILO ngày 10/6/1930, gồm 33 điều
quy định các quốc gia thành viên cam kết phải
có chính sách quốc gia hủy bỏ việc sử dụng
LĐCBHBB dưới mọi hình thức trong thời gian
ngắn nhất.
Công ước số 29 về LĐCBHBB là một trong
8 Công ước cơ bản trên tổng số 188 Công ước
của ILO và là một trong hai Công ước về lao
động cưỡng bức (LĐCB) - cùng với Công ước
số 105 về xoá bỏ các hình thức cưỡng bức lao
động. Theo Công ước 29, LĐCBHBB “là chỉ
mọi công việc hoặc dịch vụ mà một người ép
buộc phải làm dưới sự đe doạ của một hình
phạt nào đó mà bản thân người đó không tự
nguyện làm”. Nội dung cơ bản của Công ước
29 quy định, các quốc gia thành viên của Công
ước cam kết huỷ bỏ việc sử dụng “LĐCB”
dưới mọi hình thức trong thời gian ngắn nhất
có thể đạt được. Tuy nhiên ở giai đoạn chuyển
tiếp, nhà nước có thể sử dụng một số hình thức
LĐCB vào mục đích công cộng nhưng phải
tuân thủ các điều kiện hết sức nghiêm ngặt
mà Công ước quy định. Đồng thời, Công ước
nghiêm cấm việc sử dụng LĐCB trong khu
vực tư nhân mà không có bất kỳ ngoại lệ nào.
Mọi cơ quan nhà nước không được phép áp đặt
hoặc cho phép áp đặt việc LĐCB vì lợi ích của
tư nhân, công ty hoặc hiệp hội tư nhân.
Sau năm năm gia nhập Công ước số 29,
(*) Đại học Công đoàn.
(1) “Một liên minh toàn cầu chống lao động cưỡng bức”, Báo cáo toàn cầu trong khuôn khổ các hoạt động tiếp theo của Tuyên bố ILO
về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc, năm 2005.
“Cần đặt ra lộ trình thúc đẩy hành động chống lại một loại tệ nạn xã hội mà không có chỗ trong thế giới
hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu toàn cầu hoá công bằng và việc làm nhân văn cho tất cả mọi người,
chúng ta cần phải loại bỏ lao động cưỡng bức”1.
PHAN THANH HUYỀN*
CÁC KIẾN NGHị
SỬA ĐỔI BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 1994
Từ VIỆC THỰC HIỆN CôNG ƯỚC SỐ 29 CỦA ILO
34 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Việt Nam đã và đang nỗ lực tăng cường phòng,
chống và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn LĐCB với
nhiều hoạt động như: hoàn thiện hệ thống
quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề
LĐCBHBB; tổ chức tuyên truyền, phổ biến,
giải thích, giáo dục pháp luật về LĐCBHBB
thông qua các chương trình có tính quốc gia;
tăng cường quản lý nhà nước và thanh tra lao
động đối với vấn đề LĐCB; lồng ghép mối
quan tâm về LĐCBHBB vào các chương trình,
dự án phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường
hợp tác quốc tế trong đấu tranh xoá bỏ tình
trạng LĐCB dưới hình thức buôn bán người,
đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em Bằng
những nỗ lực đó, Việt Nam đã thực hiện nghĩa
vụ của quốc gia thành viên một cách tương đối
đầy đủ. Biểu hiện nổi bật là:
- Hệ thống các quy phạm pháp luật liên
quan đến LĐCBHBB của Việt Nam về cơ bản
phù hợp và tương thích với nội dung của Công
ước 29. Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm cưỡng
bức lao động dưới mọi hình thức.
- Hoạt động tổ chức tuyên truyền, phổ biến,
giải thích, giáo dục pháp luật về LĐCB đã góp
phần hình thành và nâng cao nhận thức, ý thức
pháp luật về LĐCB cho các chủ thể, đặc biệt là
người sử dụng lao động (NSDLĐ), người lao
động (NLĐ), tổ chức đại diện của NLĐ, đại
diện của NSDLĐ
- Việc tổ chức thực hiện pháp luật, thanh
kiểm tra và xử lý những vi phạm pháp luật liên
quan đến LĐCB được chú trọng.
Ở Việt Nam, các hình thức LĐCB không
phổ biến. Nhà nước Việt Nam có sử dụng công
dân của mình để thực hiện một số công việc
hoặc dịch vụ nghĩa vụ hay bắt buộc, nhưng
không bị coi là LĐCB theo quy định của Công
ước 292 như: nghĩa vụ lao động công ích của
công dân theo quy định của pháp luật, nghĩa
vụ quân sự, lao động của phạm nhân tại các
trại giam theo bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án, lao động tham
gia phòng chống bão lụt, bảo vệ đê điều trong
những trường hợp khẩn cấp... Quá trình sử
dụng các hình thức lao động này đều đảm
bảo các quy định của pháp luật, đặc biệt về
điều kiện lao động (như an toàn lao động, vệ
sinh lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi). Nhà nước cũng đảm bảo đầy đủ các
chính sách, các ưu đãi nhất định cho NLĐ
(như đối với quân nhân, NLĐ tham gia phòng
chống bão lụt, bảo vệ đê điều trong trường hợp
khẩn cấp), hay kết quả của hoạt động lao động
được phục vụ cho chính đối tượng lao động
(như kết quả lao động của phạm nhân hoặc lao
động trong các trại giáo dưỡng). Hoàn toàn
không có tình trạng áp đặt hoặc cho phép áp
đặt việc huy động sử dụng LĐCBHBB vì lợi
ích của những cá nhân, công ty hay hiệp hội tư
nhân. Hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến
LĐCB có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự. Pháp luật Việt Nam hiện
hành không có các quy định về hình thức huy
động, sử dụng lao động phục vụ cá nhân người
đứng đầu; về các công việc áp đặt như một loại
thuế; việc di chuyển LĐCBHBB; việc lưu trú
lâu dài tại nơi làm việc đối với LĐCBHBB;
việc sử dụng LĐCBHBB để vận chuyển người
hay hàng hoá, canh tác bắt buộc như là biện
pháp phòng ngừa nạn đói hoặc thiếu hụt thực
phẩm cung cấp, việc áp đặt LĐCBHBB như
là một biện pháp xử phạt đối với tập thể do
hành vi vi phạm của một vài thành viên. Pháp
luật Việt Nam cũng không cho phép việc sử
dụng LĐCBHBB đối với công việc dưới mặt
đất trong các hầm mỏ.
Tuy nhiên, để thực hiện một cách triệt để
các quy định của Công ước số 29, vẫn còn một
số vấn đề cần phải được hoàn thiện. Việc “nội
luật hoá” các quy định của Công ước còn chưa
đầy đủ nên nhận thức và ý thức pháp luật về
phòng chống và xoá bỏ LĐCBHBB chưa cao,
gây khó khăn cho quá trình tổ chức thực hiện
pháp luật cũng như quá trình thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm. LĐCB là một hành vi
nguy hiểm và có thể coi là một dạng tội phạm,
tuy nhiên, chế tài trong hệ thống pháp luật Việt
Nam liên quan đến hành vi này chưa đủ mạnh
(2) Khoản 2, Điều 2, Công ước 29.
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 357
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
và chưa có những tội danh cụ thể cho các hành
vi huy động bất hợp pháp LĐCBHBB.
II. Sửa đổi Bộ luật Lao động liên quan đến
vấn đề phòng, chống và tiến tới xoá bỏ
hoàn toàn lao động cưỡng bức
Có thể nói, mảnh đất màu mỡ cho LĐCBHBB
nảy sinh trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng là khu vực kinh tế tư nhân và liên
quan mật thiết đến quan hệ lao động làm công
ăn lương giữa NLĐ và NSDLĐ3. Ở Việt Nam,
điều chỉnh toàn diện quan hệ lao động giữa
NLĐ làm công ăn lương với NSDLĐ là Bộ
luật Lao động (BLLĐ) năm 1994 (sửa đổi, bổ
sung vào các năm 2002, 2006 và 2007). Việc
phòng, chống và tiến tới xoá bỏ LĐCBHBB
đương nhiên phải bắt đầu từ giải pháp hoàn
thiện pháp luật mà trước hết là BLLĐ hiện
hành.
BLLĐ 1994 được ban hành khi nền kinh
tế nước ta mới chuyển sang cơ chế kinh tế thị
trường, quan hệ lao động chỉ ở giai đoạn sơ
khai. Qua 3 lần sửa đổi, bổ sung, đến nay, có
thể nói các quy định của BLLĐ liên quan đến
LĐCBHBB phù hợp với hầu hết các quy định
của Công ước 29. Đây là một trong những
yếu tố thuận lợi để Việt Nam thực hiện một
cách triệt để Công ước này. BLLĐ đã ghi nhận
nguyên tắc “Cấm ngược đãi NLĐ; cấm cưỡng
bức lao động dưới bất kỳ hình thức nào”4.
Nguyên tắc này đã được thể chế hoá trong hầu
hết các chế định của BLLĐ, qua đó, NLĐ có
quyền lựa chọn việc làm, lựa chọn nơi làm
việc và đối tác làm việc, có quyền thay đổi,
chấm dứt quan hệ lao động theo quy định của
pháp luật; được đảm bảo quyền được trả lương
và thu nhập hợp lý, điều kiện lao động an toàn,
vệ sinh, được bảo hộ lao động một cách đầy đủ
và toàn diện, được nghỉ ngơi, được tôn trọng
về danh dự nhân phẩm, được đối xử bình đẳng,
được bảo đảm quyền tham gia bảo hiểm xã hội,
quyền thành lập và gia nhập tổ chức đại diện
của NLĐ, được sắp xếp công việc phù hợp với
giới tính và sức khoẻ của NLĐ Tuy nhiên,
đến nay, quan hệ lao động đã có những bước
phát triển mới năng động, linh hoạt đa dạng
và phức tạp hơn. Mặt trái của nền kinh tế thị
trường đã tác động lên quan hệ lao động dẫn
đến nhiều nguy cơ, trong đó có nguy cơ nảy
sinh LĐCB. Thực tiễn thiết lập và vận hành
quan hệ lao động trong cơ chế thị trường đã
và đang xuất hiện những biểu hiện của LĐCB,
đòi hỏi phải có sự điều chỉnh kịp thời và hiệu
quả của pháp luật lao động. Từ thực tiễn đó và
để góp phần thực hiện tốt hơn nghĩa vụ quốc
gia thành viên của Công ước 29, chúng tôi đưa
ra một vài kiến nghị sửa đổi BLLĐ năm 1994
liên quan đến vấn đề LĐCBHBB:
- BLLĐ cần đưa ra khái niệm và các hình
thức của LĐCBHBB. Để đấu tranh, hạn chế và
xoá bỏ LĐCBHBB, vấn đề then chốt là chúng
ta phải nhận diện được hành vi này thông qua
khái niệm và các hình thức cưỡng bức hoặc bắt
buộc lao động trong bối cảnh quan hệ lao động
của nền kinh tế thị trường và mang tính đặc
thù ở Việt Nam. Thực tế, cách hiểu và những
biểu hiện của LĐCB ở mỗi một khu vực địa
lý, một điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau
của các quốc gia trên thế giới lại có những
đặc thù khác nhau5. Nếu thiếu những quy
định này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể liên
quan trong việc nhận diện, phát hiện hành vi
LĐCBHBB trên thực tế, từ đó khó có thể giúp
họ phòng tránh chúng, hay giúp các nạn nhân
đưa LĐCBHBB ra ánh sáng, đồng thời giúp cơ
quan có thẩm quyền xử lý chúng một cách hiệu
quả. Khoản 1 Điều 11 Nghị định 44/2003/NĐ-
CP của Chính phủ ngày 09/5/2003 quy định
(3) Theo Báo cáo toàn cầu trong khuôn khổ các hoạt động tiếp theo của tuyên bố ILO về các Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm
việc, năm 2005: Toàn thế giới có khoảng 12,3 triệu người đang là nạn nhân của lao động cưỡng bức, trong đó có 9,8 triệu người bị
tư nhân bóc lột.
(4) Khoản 2 Điều 5 BLLĐ 1994, sửa đổi 2007.
(5) Ở Brazil, thuật ngữ “LĐCBHBB” được hiểu đồng nghĩa với “lao động nô lệ”; ở Ấn Độ, năm 1982, Toà án tối cao Ấn Độ đã diễn giải
lao động ràng buộc là hành vi không trả lương tối thiểu; pháp luật một số nước dùng thuật ngữ “LĐCBHBB” để chỉ điều kiện làm
việc tồi tàn, độc hại với đồng lương thấp của NLĐ
36 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
BLLĐ về hợp đồng lao động có quy định “Bị
ngược đãi, cưỡng bức lao động là trường hợp
NLĐ bị đánh đập, nhục mạ hoặc bị ép buộc
làm những công việc không phù hợp với giới
tính, ảnh hưởng đến sức khoẻ, nhân phẩm,
danh dự của NLĐ”. Tuy nhiên, thực chất văn
bản dưới luật này mới chỉ giải thích cụm từ
“ngược đãi, cưỡng bức lao động” trong phạm
vi giao kết và thực hiện hợp đồng lao động hơn
là một định nghĩa. Vì vậy, so với khái niệm mà
Công ước 29 đưa ra về LĐCBHBB thì cách
hiểu về LĐCBHBB như vậy là hẹp hơn rất
nhiều. Về phạm vi, khái niệm mà Công ước 29
đưa ra không bó hẹp dưới dạng các hành động
cụ thể là “đánh đập, nhục mạ hoặc bị ép buộc”
NLĐ mà nó thể hiện dưới dạng cả đe dọa và cả
hành động liên quan tới bạo lực, hay hạn chế
về thân thể, hay tước đoạt quyền tự do và các
đặc quyền khác của NLĐ. Về đối tượng của đe
dọa hay áp dụng các hình phạt nhằm ép buộc
NLĐ phải làm những công việc mà bản thân
họ không tự nguyện hoặc trong những điều
kiện lao động tồi tàn theo khái niệm của Công
ước 29 không chỉ đối với NLĐ mà còn có thể
đối với cả thân nhân của họ. Về công việc sử
dụng LĐCBHBB theo khái niệm của Công
ước 29 cũng không chỉ bó hẹp trong phạm vi
giao kết và thực hiện hợp đồng lao động hay
trong quan hệ lao động mà đó có thể là bất kỳ
một “công việc hoặc dịch vụ” nào “mà một
người ép buộc phải làm dưới sự đe doạ của
một hình phạt nào đó mà bản thân người đó
không tự nguyện làm”.
- Xem xét, sửa đổi một số quy định của
BLLĐ để đảm bảo tính tương thích cao hơn
giữa pháp luật trong nước với quy định của
Công ước 29.
Trước hết, đó là quy định liên quan đến
việc điều chuyển NLĐ làm công việc khác
trái nghề. BLLĐ đặt ra những điều kiện hết
sức chặt chẽ liên quan đến quyền này của
NSDLĐ6. Quyết định điều chuyển nếu tuân
theo đúng các điều kiện đó thì NLĐ buộc phải
chấp hành mà không có yếu tố thoả thuận và
nếu không chấp hành, NLĐ sẽ phải chịu một
trong các hình thức kỷ luật lao động tuỳ vào
mức độ lỗi của họ. Hay quy định về xử lý kỷ
luật lao động, BLLĐ hiện hành quy định một
trong các hình thức xử lý kỷ luật lao động là
chuyển NLĐ vi phạm kỷ luật làm công việc
khác có mức lương thấp hơn trong thời hạn
tối đa là sáu tháng (Công ước 29 chưa coi đây
là một hình thức LĐCBHBB). Nhưng quy
định này dễ bị phía doanh nghiệp lợi dụng để
thực hiện hành vi cưỡng bức hoặc bắt buộc
NLĐ làm những công việc họ không mong
muốn với mức lương thấp hơn mức lương
công việc hiện tại. Chẳng hạn, một số doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài vì lý do phân biệt đối xử với
cán bộ công đoàn đã tạo cớ để điều chuyển
hoặc xử lý kỷ luật lao động đối với họ, để
chuyển họ làm công việc khác mà bản thân họ
không mong muốn, có mức lương thấp hơn
công việc hiện tại, nhằm gây khó khăn cho
hoạt động công đoàn của họ7.
Về thời gian làm việc, BLLĐ đã có những
quy định chặt chẽ về giờ làm thêm của NLĐ
để tránh tình trạng bóc lột sức lao động của
NLĐ. Tuy nhiên, nhu cầu sử dụng lao động
làm thêm giờ của doanh nghiệp là rất lớn, điều
đó dẫn đến một thực tế là nhiều doanh nghiệp
huy động lao động làm thêm quá số giờ quy
định mà không có sự thoả thuận với NLĐ,
hoặc nếu NLĐ không đồng ý sẽ bị đe doạ xử
lý kỷ luật. Trong khi đó, giới hạn của thời giờ
làm thêm vẫn có thể mở rộng hơn nữa, trên
phạm vi đồng đều hơn, mà vẫn nằm trong giới
hạn cho phép để tránh và hạn chế tai nạn lao
động cũng như đảm bảo được sức khoẻ và sự
tái tạo sức lao động cho NLĐ. Qua đó, nhu cầu
về huy động lao động làm thêm giờ của doanh
nghiệp được đáp ứng, cũng là cách thức chúng
(6) Điều 34 BLLĐ.
(7) Xem các vụ việc cụ thể trong Kỷ yếu hội thảo phân biệt đối xử vì lý do công đoàn - Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế,
Tổng liên đoàn Việt Nam và Dự án quan hệ lao động Việt Nam - ILO.
Số 14(199) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 377
2011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
ta hạn chế và chấm dứt hình thức LĐCBHBB
liên quan đến vấn đề thời giờ làm thêm.
- Bổ sung một số quy định mới để điều chỉnh
kịp thời những biểu hiện của LĐCBHBB trong
bối cảnh quan hệ lao động đa dạng, phức tạp
của nền kinh tế thị trường, nhưng cũng đảm
bảo cho quan hệ lao động phát triển hài hoà,
ổn định và linh hoạt hơn.
Một thời gian dài ở Việt Nam, vấn đề cho
thuê lại lao động nảy sinh như một nhu cầu
tất yếu của nền kinh tế thị trường bởi nó giúp
cho NSDLĐ có thể ứng phó với các thay đổi
trong nhu cầu về lao động, khi nhu cầu lao
động của doanh nghiệp thay đổi theo mùa vụ
hoặc phụ thuộc vào đơn đặt hàng từ phía đối
tác. Thông qua hình thức này, NSDLĐ có thể
tiết kiệm được chi phí tuyển dụng, giảm thiểu
được chi phí cho lao động dôi dư khi nhu cầu
lao động giảm, qua đó góp phần hạ giá thành
sản phẩm. Tuy nhiên, trong quá trình cho thuê
lại lao động, NLĐ đã không được bảo vệ một
cách đầy đủ cả về mặt luật pháp và cả từ phía
NSDLĐ. Vấn đề này chưa được BLLĐ 1994
điều chỉnh. Và thực tế, NLĐ trong hợp đồng
cho thuê lại lao động đôi khi làm việc trong
những điều kiện không được đảm bảo trên
nhiều phương tiện như thời giờ làm việc, thời
giờ nghỉ ngơi, ổn định việc làm, trách nhiệm
trợ cấp hay bồi thường tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, tham gia bảo hiểm xã hội khi
doanh nghiệp sử dụng lao động và trung tâm
giới thiệu việc làm hay doanh nghiệp dịch vụ
giới thiệu việc làm đùn đẩy trách nhiệm lẫn
nhau8. Tình trạng doanh nghiệp không đóng
bảo hiểm xã hội cho NLĐ, không đảm bảo chế
độ nghỉ phép, thai sản, tiền thưởng cho NLĐ
là tương đối phổ biến. Mặt khác, NLĐ trong
quan hệ cho thuê lại lao động thường là lao
động phổ thông, khả năng tiếp cận và lựa chọn
việc làm của họ hạn chế bởi chính trình độ
nghề nghiệp của họ và đôi khi họ buộc phải
chấp nhận những công việc trong điều kiện lao
động không được đảm bảo vì cuộc sống mưu
sinh của họ và vì nguy cơ mất việc làm. Thiết
nghĩ, vấn đề cho thuê lại lao động nếu được
pháp luật điều chỉnh một cách đầy đủ và phù
hợp sẽ tạo cơ hội cho NLĐ có khả năng tiếp
cận với việc làm nhiều hơn, trong điều kiện lao
động được đảm bảo và giảm thiểu được nguy
cơ NLĐ bị bóc lột sức lao động, qua đó doanh
nghiệp cũng được hưởng lợi mà thị trường lao
động sẽ năng động và linh hoạt hơn.
BLLĐ cũng nên quy định về những điều
kiện đảm bảo cho hoạt động của tổ chức công
đoàn một cách hiệu quả và có cơ chế bảo vệ
cán bộ công đoàn khi họ bảo vệ quyền và lợi
ích của NLĐ nói chung, trong đấu tranh với
hiện tượng cưỡng bức lao động đối với NLĐ
nói riêng. Điều đó không chỉ góp phần hoàn
thiện thêm cơ chế ba bên trong quan hệ lao
động mà còn để tránh tình trạng phân biệt đối
xử vì lý do công đoàn đã xảy ra dưới góc độ
là một trong những biểu hiện về LĐCBHBB
đã xảy ra trong thực tiễn với chính cán bộ
công đoàn9.
- Đối với các quy định của BLLĐ liên quan
đến LĐCBHBB đã phù hợp với nội dung của
Công ước 29, nên quy định chế tài đủ mạnh để
đảm bảo cho việc thực thi những quy định đó
một cách hiệu quả trong đời sống thực tiễn.
Kết quả của quá trình hạn chế và tiến tới
xoá bỏ hoàn toàn LĐCBHBB không chỉ lệ
thuộc vào yếu tố luật pháp mà còn lệ thuộc vào
chính ý thức pháp luật của NSDLĐ bởi chủ
thể của hành vi này chỉ có thể là NSDLĐ. Bên
cạnh việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
cũng cần có chế tài đủ mạnh để đảm bảo tính
răn đe và giáo dục NSDLĐ trong việc chấp
hành các quy định của pháp luật liên quan
đến LĐCBHBB. Ví dụ, mặc dù pháp luật đã
(8) Vấn đề cho thuê lại lao động tồn tại quan hệ ba bên: doanh nghiệp sử dụng và trả công cho NLĐ nhưng không trực tiếp ký hợp
đồng lao động với NLĐ - Trung tâm hoặc doanh nghiệp giới thiệu việc làm ký hợp đồng lao động với NLĐ không nhằm sử dụng và
không trả công lao động mà ký kết hợp đồng với doanh nghiệp nhằm cho thuê lại lao động - NLĐ không chịu sự quản lý của doanh
nghiệp sử dụng lao động một cách đầy đủ.
(9) Xem thêm Kỷ yếu hội thảo phân biệt đối xử vì lý do công đoàn - Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, Tổng liên đoàn Việt
Nam và dự án quan hệ lao động Việt Nam - ILO.
38 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 14(199) 72011
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nghiêm cấm, nhưng chưa có chế tài cụ thể, nên
tình trạng buộc NLĐ phải đặt cọc tiền trước
khi vào làm việc hay giữ văn bằng, chứng chỉ
gốc của NLĐ nhằm trói buộc người làm lao
động trong quan hệ lao động tại một số doanh
nhiệp tư nhân vẫn xảy ra. Hay mức bồi thường
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp chưa đủ
để nâng cao ý thức, trách nhiệm của NSDLĐ
trong việc đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh
lao động cho NLĐ. Trên cơ sở quy định về các
hình thức cưỡng bức hoặc bắt buộc lao động,
cần quy định rõ ràng và cụ thể chế tài phù hợp
với mức độ nguy hiểm của từng hình thức. Cần
xác định LĐCBHBB ở một góc độ nào đó là
một loại tội phạm, nên ngoài trách nhiệm hành
chính thì tuỳ mức độ nguy hiểm của hành vi,
có thể quy định một cách cụ thể rõ ràng trách
nhiệm hình sự liên quan đến tội danh huy động
bất hợp pháp LĐCBHBB.
Trước yêu cầu của hội nhập và toàn cầu
hoá, khi pháp luật quốc tế cũng như pháp luật ở
nhiều quốc gia quy định không sử dụng LĐCB
là một trong những tiêu chuẩn đối với hàng
hoá xuất, nhập khẩu thì việc phòng, chống
và xoá bỏ các hành vi LĐCBHBB không chỉ
dừng lại ở nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc
tế của quốc gia thành viên Công ước 29, mà là
vấn đề có tính cấp bách phải thực hiện để đảm
bảo “giấy thông hành” cho hàng hoá và dịch
vụ của các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị
trường quốc tế. LĐCBHBB ở Việt Nam chưa
phải là hiện tượng phổ biến, song với sự phức
tạp của quan hệ lao động trong quá trình Việt
Nam ngày càng đi vào nền kinh tế thị trường
thực chất, thiết nghĩ đây là vấn đề cấp bách mà
quá trình sửa đổi, bổ sung BLLĐ 1994 cần quy
định một cách cụ thể, phù hợp.
sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ
trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích
của người được giám hộ và có sự đồng ý của
người giám sát việc giám hộ”. Chẳng hạn, hợp
đồng giữa A (là người bị mất NLHV dân sự) và
B (người giám hộ của A) về việc bán ngôi nhà
do A được thừa kế cho B sẽ bị coi là vô hiệu
nếu B không chứng minh được giao dịch đó
được thực hiện vì lợi ích của A (chẳng hạn để
có tiền chữa bệnh cho A) và giao dịch đó có sự
đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Thực chất, những trường hợp vô hiệu quy
định tại các điều từ 128-134 là sự cụ thể hóa
một số trường hợp vô hiệu do không tuân
thủ các điều kiện như quy định tại Điều 122
BLDS 2005. Tuy nhiên, sự tồn tại của Điều
127 với nội dung như đã trình bày ở trên đã
rơi vào tình trạng vừa thừa (không cần thiết
phải có quy định “thiếu một trong các điều
kiện ở Điều 122 là vô hiệu” vì chính nội dung
Khoản 1, Điều 122 khi quy định “GDDS có
hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: ...”
đã chứa đựng nội hàm đó rồi), vừa thiếu (vì
ngoài các trường hợp vô hiệu do vi phạm các
điều kiện có hiệu lực mang tính nguyên tắc
chung ở Điều 122, còn có các trường hợp
được liệt kê cụ thể ở Điều 128 -134 và một số
trường hợp ngoại lệ quy định tại Điều 69 và
Điều 411 BLDS 2005. Do vậy, theo chúng tôi
nên loại bỏ quy định tại Điều 127 nhằm tránh
sự bất hợp lý và thiếu sự thống nhất trong nội
dung các quy định luật.
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC
CỦA GIAO DịCH DÂN SỰ
THEO QUY ĐịNH CỦA BỘ
LUẬT DÂN SỰ NăM 2005
(Tiếp theo trang 32)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_kien_nghi_sua_doi_bo_luat_lao_dong_1994_tu_viec_thuc_hie.pdf