Nhận thức về sức khỏe, ngày nay người
dùng có xu hướng quan tâm về sức khỏe và
chất lượng cuộc sống, không quá tập trung
vào phần lượng nghĩa là “ăn no” mà người ta
hướng đến phần chất tức “ăn ngon”. Thực
phẩm xanh, an toàn, giàu chất dinh dưỡng sẽ
làm cho bữa ăn trở nên ngon hơn, giúp con
người tái tạo lại sức lao động và khôi phục
sức khỏe. Vì thế, doanh nghiệp nên mở các
buổi tư vấn về sức khỏe dinh dưỡng, tư vấn
về chế độ ăn dinh dưỡng và hợp lý cho người
dùng, thông qua đó lồng ghép giới thiệu sản
phẩm xanh của doanh nghiệp. Như vậy,
người tiêu dùng mới có nền tảng kiến thức và
ý thức về sức khỏe, từ đó họ sẽ có động lực
mua các sản phẩm xanh.
Hiệu quả hành vi tiêu dùng, chỉ khi người
tiêu dùng mua và sử dụng sản phẩm xanh thì
mới có thể cảm nhận được lợi ích đối với
môi trường, lợi kinh tế cho gia đình và xã
hội. Do đó, hoạt động chính trong các
chương trình truyền thông là cho khách hàng
dùng thử các sản phẩm xanh hoặc giảm giá
trực tiếp trên sản phẩm để người dân dễ tiếp
cận trong thời gian đầu, thói quen tiêu dùng
các sản phẩm xanh dần được hình thành
trong nhận thức và hành động của người
dùng. Khi đó, doanh nghiệp sẽ có chính sách
điều tiết các chương trình truyền thông và giá
cả cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh
doanh của mình và người tiêu dùng sẽ dễ
chấp nhận. Mặt khác, phía doanh nghiệp nên
lồng ghép tuyên truyền ý thức sử dụng tiết
kiệm, tái tạo và bảo tồn nguồn tài nguyên
thiên nhiên thông qua các cuộc thi về môi
trường và cuộc sống xanh mà trọng tâm là
nhận thức tiêu dùng xanh của người dân.
Nhận thức về giá, tránh những lo toan khi
chi trả, doanh nghiệp cần niêm yết giá rõ
ràng, điều này sẽ giúp người mua dễ so sánh
giá sản phẩm xanh với giá các sản phẩm
thường ngày. Điều đáng lo ngại là giá sản
phẩm xanh thường cao, cho nên trong quá
trình tiếp cận chăm sóc khách hàng, doanh
nghiệp cần giải thích, làm rõ và lập luận về
chi phí của mặt hàng, giúp cho người dùng
nhận thức lợi ích về sức khỏe, về tính kinh tế
đáng giá hơn nhiều so với đồng tiền họ bỏ ra.
Truyền thông đại chúng, người tiêu dùng
nhu cầu về sản phẩm xanh, sạch nhưng họ
không biết tiếp cận sản phẩm xanh thông qua
kênh nào. Từ thực tiễn tiêu dùng trong xã hội,
doanh nghiệp cần nhân rộng mô hình kinh
doanh, sử dụng các kênh truyền thông như
website bán hàng hoặc mạng xã hội như zalo,
facebook để giới thiệu sản phẩm. Bên cạnh
đó, doanh nghiệp có thể phát tờ rơi, treo băng
rôn trước cửa hiệu để thu hút sự chú ý người
dùng. Đặc biệt, doanh nghiệp có thể kết nối
với trường Đại học, Cao đẳng để truyền thông
về các sản phẩm xanh của mình. Ngoài ra,
doanh nghiệp có thể tiếp cận người dùng bằng
cách lồng ghép sản phẩm xanh vào Hội chợ
thương mại và Chương trình hàng Việt về
nông thôn.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 649 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng xanh của người dân tại thành phố Trà Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
44
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH TIÊU DÙNG XANH
CỦA NGƯỜI DÂN TẠI THÀNH PHỐ TRÀ VINH
FACTORS AFFECT TO PURCHASE INTENTION OF GREEN PRODUCT OF PEOPLE
IN TRA VINH CITY
Ngày nhận bài: 18/06/2019
Ngày chấp nhận đăng: 18/10/2019
Hồ Mỹ Dung, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thị Phương Uyên, Nguyễn Phi Phụng
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là tìm các nhân tố ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng xanh của người dân
tại thành phố Trà Vinh. Nghiên cứu được tiến hành qua hai giai đoạn là nghiên cứu định tính sơ bộ
và nghiên cứu định lượng chính thức. Với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, thu về 396 phiếu
hợp lệ. Phương pháp Cronbach’s Alpha nhằm kiểm định độ tin cậy thang đo, phân tích nhân tố
khám phá (EFA) nhằm nhóm gộp các biến quan sát lại thành từng nhóm nhân tố làm cơ sở cho
phân tích hồi quy tuyến tính. Kết quả cho thấy có 5 nhân tố ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng xanh
là (1) Nhận thức về môi trường, (2) Nhận thức về sức khỏe, (3) Nhận thức hiệu quả tiêu dùng
xanh, (4) Nhận thức về giá, (5) Truyền thông đại chúng. Từ đó, tác giả đề xuất các hàm ý chính
sách để các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh sản phẩm xanh đáp ứng ngày một tốt hơn nhu
cầu người dùng.
Từ khóa: Sản phẩm xanh, tiêu dùng xanh, ý định tiêu dùng xanh.
ABSTRACT
International economic integration is an inevitable trend and an objective requirement for any
country in the current development period. However, this process not only is creating certain
advantages and opportunities for participating countries, but also is creating many difficulties and
challenges.
The roadmap for international economic integration makes enterprises of developing countries in
general, commercial banking system in particular, new business environment with fierce
competition pressure and unequal opponents.
From that pratice, the research, analysis, and the introduction of factors affecting the operating
efficiency of Vietnam commercial banking system in the current integration period to coming up
with practical solutions for improving the operational efficiency of the commercial banking system is
an urgent issue.
Keywords: The operating efficiency, The efficiency of commercial banking, The operating
efficiency of banking system.
1. Giới thiệu
Ô nhiễm môi trường, thực phẩm không an
toàn, hàng hóa bẩn đang là vấn nạn đe dọa
sức khỏe con người. Cùng với sự gia tăng
dân số và sự gia tăng về tiêu dùng của xã hội,
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế
giới đang đứng trước những thách thức to lớn
về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Kể từ năm 2016, các tổ chức môi trường
quốc tế đã báo động Trung Quốc, Indonesia,
Philippines, Thái Lan và Việt Nam đang
đứng tốp 5 những quốc gia có lượng rác thải
đổ ra biển nhiều nhất thế giới. [42]
Tại Việt Nam tiêu dùng xanh, tiêu dùng
bền vững đã sớm được lồng ghép vào trong
quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-
Hồ Mỹ Dung, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Thị
Phương Uyên, Nguyễn Phi Phụng, Trường Đại
học Trà Vinh
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
45
2020 và tầm nhìn 2050 với nhiệm vụ xanh
hóa sản xuất và xanh hóa tiêu dùng. Theo đó,
xanh hóa sản xuất, thực hiện một chiến lược
công nghiệp hóa sạch thông qua rà soát, điều
chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên,
khuyến khích phát triển công nghệ xanh,
nông nghiệp xanh [43] Cơ sở pháp lý có
thể làm giảm những tác động tới môi trường
liên quan đến hoạt động sản xuất xanh của
doanh nghiệp, tuy nhiên chưa giải quyết
được các tác động liên quan đến ý định, việc
lựa chọn, sử dụng và thải loại sản phẩm của
người tiêu dùng (Fuchs và Loreck, 2005). Vì
vậy việc lựa chọn sản phẩm xanh nhằm bảo
vệ sức khỏe và môi trường đang trở thành xu
hướng được nhiều người tiêu dùng quan tâm.
Khái niệm tiêu dùng xanh lần đầu tiên
được nhắc đến năm 1970 (Peattie, 2010) và
từ đó nhiều nghiên cứu đã mở rộng khái niệm
này [32]. Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất
trong khái niệm tiêu dùng xanh, có thể hiểu
tiêu dùng xanh là tiêu dùng ưu tiên cho hàng
hóa nội địa, giúp giảm chi phí và khí thải
phát sinh từ hoạt động vận chuyển. Các
chuyên gia môi trường đã xem tiêu dùng
xanh như một biện pháp “Giải cứu trái đất”
trước những chuyển biến xấu của môi trường
sống trên toàn cầu (Hoàng Thị Bảo Thoa,
2017). Sản phẩm xanh là những sản phẩm
được tạo ra từ các nguyên liệu tự nhiên, thân
thiện với môi trường. Một sản phẩm được
xem là xanh nếu đáp ứng các tiêu chí - được
tạo ra từ các vật liệu thân thiện với môi
trường, nhiên liệu tái tạo, các sản phẩm tiết
kiệm năng lượng; đem đến những giải pháp
an toàn cho sức khỏe thay cho các sản phẩm
độc hại truyền thống; giảm thiểu tác động
đến môi trường trong quá trình sử dụng
(moitruong.com.vn, 2018) [41].
Tuy nhiên, các nhà sản xuất và tiếp thị đã
không thành công trong việc bán các sản
phẩm xanh, mặc dù tốc độ tăng trưởng của
chúng là đáng chú ý. Theo (Lin và Huang,
2012), sự hiểu biết về thái độ và động lực của
người tiêu dùng sẽ giúp các nhà sản xuất, tiếp
thị và hoạch định chính sách hiểu được thói
quen và hành vi của người tiêu dùng [31]. Do
đó, để giải quyết những vấn đề này cần có
nghiên cứu và điều tra các biến số ảnh hưởng
đến thái độ và ý định mua hàng của người
tiêu dùng đối với các sản phẩm xanh (Barber,
2010). Các nghiên cứu trước đây đã sử dụng
các biến số tác động tới ý định mua sản phẩm
xanh mà không bao gồm tác động của kiến
thức tiêu dùng xanh và nhãn sinh thái (Lê Thị
Thùy Dung, 2017; Aibek Doszhanov và ctg,
2015). Thật vậy, kiến thức tiêu dùng xanh
một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến quyết định mua sản phẩm xanh
(Kamonthip Maichum, 2017; Asgarnezhad
Nouri Bagher, 2018). Nhiều nghiên cứu đã
xem xét ý định mua hàng của người tiêu
dùng đối với các sản phẩm xanh ở các quốc
gia như Iran [12], Thái Lan [23], Malaysia
[27] và Trung Quốc [33]. Ở Việt Nam, các
nghiên cứu về ý định và hành vi mua xanh ở
khu vực thành phố Hồ Chí Minh [3], [6],
thành phố Đà Nẵng [1] và các tỉnh Nam
Trung Bộ [4] Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu
tập trung vào phản ứng của người tiêu dùng
đối với sản phẩm xanh ở khu vực đồng bằng
sông Cửu Long, đặc biệt là ở tỉnh Trà Vinh.
Tại tỉnh Trà Vinh, vẫn còn tình trạng các
cơ sở sản xuất kinh doanh chưa đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, sử dụng phụ gia và
chất cấm (Tạp chí Tuyên giáo, 2017) [44].
Ngoài ra, theo trang Môi trường và đô thị
(2018), bãi rác tại thành phố Trà Vinh mỗi
ngày phải tiếp nhận khoảng 85 tấn rác thải,
ảnh hưởng đến đời sống các hộ dân, các cơ
sở y tế và trường học trong khu vực [45]. Từ
thực tế cho thấy việc phân tích ý định tiêu
dùng xanh của người dân tại thành phố Trà
Vinh là cần thiết, qua đó tìm hiểu quan điểm
tiêu dùng, nhóm nhân tố ảnh hưởng đến ý
định mua sản phẩm xanh, giúp người dân
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
46
thay đổi và nâng cao nhận thức về tiêu dùng,
có cơ sở lựa chọn hàng hóa tốt hơn; đồng
thời đề xuất các hàm ý chính sách với các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm
xanh, hoạch định chiến lược và chính sách hỗ
trợ để thúc đẩy tiêu dùng xanh ở tỉnh Trà
Vinh nói riêng và trong cả nước.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Lý thuyết về tiêu dùng xanh
Ở lĩnh vực khoa học tự nhiên cho rằng
tiêu dùng xanh (TDX) có liên quan đến các
dấu hiệu khoa học như sử dụng năng lượng
và phát khí thải carbon (E.C Alfredsson,
2004) [17]. Trong khi đó, Harrison Newhol
và cộng sự , 2005) cho rằng TDX không
những là tiêu dùng ít đi mà còn tiêu dùng
hiệu quả hơn. Tính hiệu quả của tiêu dùng
xanh là các hành vi mua sắm sản phẩm thân
thiện và có lợi ích tới môi trường. Ở lĩnh vực
xã hội, tiêu dùng xanh với cách tiếp cận quá
trình thông qua những hành vi xã hội như
việc mua các loại thực phẩm sinh học, tái
chế, tái sử dụng, hạn chế dùng thừa và sử
dụng hệ thống giao thông thân thiện
(Mansvelt, 2011).Tiếp cận trên phương diện
sản xuất và tiêu dùng, tiêu dùng xanh là một
chuỗi các hành vi – bao gồm hành vi mua sản
phẩm xanh và sử dụng sản phẩm theo cách
“xanh” (tiết kiệm, tái sử dụng, tái chế, xử lý
rác thải, ), đồng thời tuyên truyền, tác
động đến cộng đồng xã hội thực hiện hai
hành vi trên.
Người tiêu dùng xanh là người tiêu dùng
có ý thức môi trường và họ sẽ cân nhắc
những hậu quả về môi trường trong tiêu dùng
cá nhân của mình (Webster, 1975). Ở một
khía cạnh khác, có thể hiểu người tiêu dùng
xanh là người cố gắng sử dụng sức mua của
mình để mang lại cải thiện môi trường
(Follows và Jobber, 2000).
Sản phẩm xanh là sản phẩm không gây ô
nhiểm cho trái đất hoặc tổn hại tài nguyên
thiên nhiên và có thể bảo tồn, tái chế được
(Shamdasamin và ctg, 1993). Hay sản phẩm
xanh còn gọi là sản phẩm bền vững với môi
trường, là sản phẩm làm giảm tác động đến
môi trường (Cooper, 2000).
Ý định mua được xem là ý định hành
động, tức là hành động của con người được
hướng dẫn bởi việc cân nhắc 3 yếu tố là niềm
tin vào hành vi, niềm tin vào chuẩn mực và
niềm tin vào sự kiểm soát. Các niềm tin càng
mạnh thì ý định hành động của con người
càng lớn (Ajzen, 2005). Hay, ý định tiêu
dùng xanh là khả năng và ý chí của cá nhân
trong việc dành sự ưa thích của mình cho các
sản phẩm xanh hơn là sản phẩm thường ngày
trong việc cân nhắc mua sắm (Rashid, 2009).
2.2. Lý thuyết hành vi tiêu dùng
2.2.1. Lý thuyết hành vi hợp lý (Theory of
Reasoned Action- TRA)
Thuyết hành vi hợp lý (TRA) được xây
dựng từ năm 1967 và được hiệu chỉnh mở
rộng theo thời gian bởi Ajzen và Fishbein
(1975). Yếu tố thái độ được đo lường bằng
nhận thức về các thuộc tính của sản phẩm.
Người tiêu dùng sẽ chú ý đến những thuộc
tính mang lại các ích lợi cần thiết và có mức
độ quan trọng khác nhau. Nếu biết trọng số
của các thuộc tính đó thì có thể dự đoán gần
kết quả lựa chọn của người tiêu dùng.
Yếu tố chuẩn chủ quan có thể được đo
lường thông qua những người có liên quan
đến người tiêu dùng (như gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp,); những người này thích hay
không thích họ mua. Mức độ tác động của
yếu tố chuẩn chủ quan đến xu hướng mua
của người tiêu dùng phụ thuộc: (1) mức độ
ủng hộ/phản đối đối với việc mua của người
tiêu dùng và (2) động cơ của người tiêu dùng
làm theo mong muốn của những người có
ảnh hưởng. Mức độ ảnh hưởng của những
người có liên quan đến xu hướng hành vi của
người tiêu dùng và động cơ thúc đẩy người
tiêu dùng làm theo những người có liên quan
là hai yếu tố cơ bản để đánh giá chuẩn chủ
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
47
quan. Mức độ thân thiết của những người có
liên quan càng mạnh đối với người tiêu dùng
thì sự ảnh hưởng càng lớn tới quyết định
chọn mua của họ. Niềm tin của người tiêu
dùng vào những người có liên quan càng lớn
thì xu hướng chọn mua của họ cũng bị ảnh
hưởng càng lớn.
2.2.2. Thuyết hành vi có kế hoạch (Theory of
Planned Behavior – TPB)
Thuyết hành vi có kế hoạch TPB (Ajzen,
1991), được phát triển từ lý thuyết hành vi
hợp lý (TRA; Ajzen & Fishbein, 1975), giả
định rằng một hành vi có thể được dự báo
hoặc giải thích bởi các xu hướng hành vi để
thực hiện hành vi đó.Xu hướng hành vi là
mức độ nổ lực mà mọi người cố gắng để thực
hiện hành vi đó (Ajzen, 1991). Thứ nhất, các
thái độ được khái niệm như là đánh giá tích
cực hay tiêu cực về hành vi thực hiện. Nhân
tố thứ hai là ảnh hưởng xã hội mà đề cập đến
sức ép xã hội được cảm nhận để thực hiện
hay không thực hiện hành vi đó. Cuối cùng,
thuyết hành vi dự định TPB (Theory of
Planned Behaviour) được Ajzen xây dựng
bằng cách bổ sung thêm yếu tố kiểm soát
hành vi cảm nhận vào mô hình TRA.
2.3. Mô hình nghiên cứu
Dựa vào mô hình lý thuyết hành vi hợp lý
(TRA) (Ajzen & Fishbein, 1975); Lý thuyết
hành vi có kế hoạch (TBP) (Ajzen, 1991);
Mô hình quá trình ra quyết định mua và mô
hình những yếu tố kiềm hãm quá trình biến ý
định mua hàng thành quyết định mua hàng
(Philip Kotler, 2011); Mô hình ý định mua
thực phẩm hữu cơ (TPHC) của người tiêu
dùng Iran (Mohammad Ghaffari và cộng sự,
2018); Mô hình ý định mua túi thân thiện với
môi trường (Collins Marfo Agyeman và
Devaraj Badugu, 2017); Mô hình ý định mua
các sản phẩm xanh của người tiêu dùng trẻ ở
Thái Lan (Kamonthip Maichum và cộng sự,
2017); Mô hình ý định tiêu dùng xanh của
người dân tại thành phố Hồ Chí Minh
(Nguyễn Thế Khải và Nguyễn Thị Lan Anh,
2015); Mô hình dự đoán về ý định mua xanh
của người tiêu dùng trẻ (Phạm Thị Lan
Hương, 2013). Mô hình nghiên cứu đề xuất
như sau:
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Giả thuyết cho mô hình nghiên cứu:
Người tiêu dùng có nhận thức về môi
trường, nắm được hiệu quả của việc họ
chống lại các vấn đề ô nhiễm môi trường, ý
thức trách nhiệm với tương lai của nhân loại
trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên
(Boztepe, 2012). Hay nói cách khác, con
người hiểu biết và nhận thức rõ các vấn đề
môi trường trong tương lai gây ra bởi các
hành vi tiêu dùng của bản thân, từ đó có sự
thay đổi trong ý định tiêu dùng của mình
(Kollmuss và Agyeman, 2002). Vì thế, tác
giả muốn kiểm chứng mối quan hệ giữa nhân
tố Nhận thức về môi trường đối với ý định
tiêu dùng xanh bằng giả thuyết H1.
H1: Nhận thức về môi trường ảnh hưởng
tích cực đến ý định tiêu dùng xanh.
Người tiêu dùng nhận thức được sự lành
mạnh trong chế độ ăn uống và lối sống của họ
(Yang và cộng sự, 2014). Theo Davies và cộng
sự (1995), động cơ thường xuyên nhất để mua
thực phẩm hữu cơ là do người tiêu dùng nhận
thức rằng thực phẩm hữu cơ tốt cho sức khỏe
của họ. Mối quan tâm về sức khỏe dường như
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
48
là lý do quan trọng nhất để mua và tiêu thụ thực
phẩm hữu cơ (Tregear et al., 1994; Wandel và
Bugge, 1997; Magnusson et al., 2003; Padel và
Foster, 2005). Do đó, tác giả muốn kiểm chứng
mối quan hệ giữa nhân tố Nhận thức về sức
khỏe đối với ý định tiêu dùng xanh bằng giả
thuyết H2.
H2: Nhận thức về sức khỏe ảnh hưởng
tích cực đến ý định tiêu dùng xanh.
Kiến thức tiêu dùng xanh được hiểu là sự
hiểu biết của một người về các yếu tố liên
quan đến sản phẩm xanh (bao bì, mẫu mã,
đặc tính lý hóa, kênh phân phối). Người
tiêu dùng có kiến thức về sản phẩm họ sẽ
phân biệt được sản phẩm xanh so với sản
phẩm truyền thống. Khi đó, nhận biết về sản
phẩm xanh có tác động tích cực đến ý định
tiêu dùng xanh của người dùng (Hessami và
Yousefi, 2013). Tác giả đưa ra giả thuyết H3.
H3: Kiến thức tiêu dùng xanh ảnh hưởng
tích cực đến ý định tiêu dùng xanh.
Niềm tin xanh là sự sẵn lòng phụ thuộc
vào đối tác mà họ tin cậy (Moorman,
Deshpande và Zaltman, 1993). Hay nói cách
khác, sự tin tưởng vào tính trung thực, trách
nhiệm của nhà sản xuất, các thông tin trên
bao bì, nhãn hiệu mặt hàng, sự đảm bảo chất
lượng mặt hàng TPAT (Janssen và Hamm,
2011). Do đó, tác giả đưa ra giả thuyết H4.
H4: Niềm tin xanh ảnh hưởng tích cực
đến ý định tiêu dùng xanh
Nhận thức hiệu quả tiêu dùng xanh được
giải thích rằng khi người tiêu dùng có nhận
thức rằng hành vi tiêu dùng của mình có hiệu
quả đối với bản thân và xã hội, họ sẽ thực
hiện hành vi tiêu dùng nếu đã có ý định như
vậy được định hình (Hoàng Thị Bảo Thoa,
2017). Bên cạnh đó, Nhận thức hiệu quả tiêu
dùng xanh còn là niềm tin của người tiêu
dùng về việc họ có thể đóng góp hữu hiệu
trong giải quyết vấn đề về môi trường
(Taylor và Ahmed, 1974). Do đó, tác giả đưa
giả thuyết H5.
H5: Nhận thức hiệu quả tiêu dùng xanh
ảnh hưởng tích cực đến ý định tiêu dùng
xanh.
Theo Philip Kotler và cộng sự (2011) cho
rằng giá là số tiền mà người mua phải trả để
có được sản phẩm hay dịch vụ. Trong tâm lý
mua hàng, người tiêu dùng thường mong
muốn mua sản phẩm với giá rẻ mà chất
lượng, kèm theo các chương trình hậu mãi về
sau. Do đó, tác giả nêu giả thuyết H6.
H6: Nhận thức về giá ảnh hưởng tích cực
đến ý định tiêu dùng xanh
Nhãn sinh thái được định nghĩa là một
loạt các ấn tượng, quan niệm và sự e ngại đối
với một thương hiệu trong bộ nhớ của khách
hàng, có liên quan đến tính bền vững và mối
quan tâm thân thiện với môi trường. (Chen,
2010). Kiểm chứng mối quan hệ giữa Nhãn
sinh thái với ý định tiêu dùng xanh bằng giả
thuyết H7.
H7: Nhãn sinh thái ảnh hưởng tích cực đến ý
định tiêu dùng xanh
Truyền thông đại chúng được hiểu là bất
kỳ cơ hội nào cho người đọc, người xem,
người nghe có thể nghe thấy một thông điệp
truyền thông trên các phương tiện truyền
thông (Schultz và Lauterborul, 1993). Vậy có
mối quan hệ nào giữa truyền thống đại chúng
tác động đến thái độ tiêu dùng xanh hay
không? Tác giả đưa giả thuyết H8.
H8: Truyền thông đại chúng ảnh hưởng
tích cực đến ý định tiêu dùng xanh
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp chọn mẫu thuận tiện.
Đối tượng khảo sát là người dân sống tại
thành phố Trà Vinh. Theo Hair và cộng sự
(1998), cỡ mẫu tối thiểu là n = 5*x (x: số
biến quan sát). Trong nghiên cứu này có tất
cả 46 biến quan sát. vì vậy cỡ mẫu tối thiểu
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
49
cần đạt là n = 46* 5 = 230. Nghiên cứu được
thực hiện qua hai giai đoạn.
Giai đoạn nghiên cứu sơ bộ sử dụng
phương pháp phân tích định tính khám phá
các yếu tố và mức độ tác động của chúng đến
ý định tiêu dùng xanh của người dân thành
phố Trà Vinh, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu tại bàn trên những nguồn tài liệu,
văn bản và số liệu đã được công bố, đồng
thời kỹ thuật thảo luận chuyên gia cũng được
thực hiện với dàn bài thảo luận bao gồm các
câu hỏi bán cấu trúc nhằm xây dựng và hoàn
thiện thang đo của các nhân tố trong mô hình
nghiên cứu (bảng 1), thang đo được chuyển
thể thành bản câu hỏi khảo sát sơ bộ với
thang đo Likert 5 mức độ. Tác giả khảo sát
thử với cỡ mẫu là 100 nhằm kiểm tra sự thấu
hiểu của đáp viên về các phát biểu, phát hiện
những sai sót trong thiết kế bảng hỏi, sử dụng
kiểm định Cronbach’s Alpha để loại bỏ
những thang đo cố hệ số Alpha < 0,6 và
tương quan biến tổng thấp hơn 0,3 (Nguyễn
Đình Thọ. 2011).
Bảng 1: Bảng tổng hợp thang đo
Nhân
tố
Thang đo
Nguồn
thang đo
Nhận
thức
về MT
Tôi nhận thấy con người đang gây ô nhiễm MT trầm
trọng
Asgarnezhad
Nouri
Bagher và
ctg (2018);
Kamothip
Maichum và
ctg, (2017);
Hoàng Thị
Bảo Thoa
(2017)
Tôi rất lo ngại về vấn đề ô nhiễm MT (MT)
Tôi lo lắng sự giảm sút chất lượng MT
Tôi xem tin tức trên ti vi, báo mạng thể hiện sự quan
tâm bảo vệ MT
Tôi nhận thấy cân bằng MT tự nhiên rất phức tạp, dễ
mất đi
Tôi thường nghĩ việc TD SP xanh sẽ cải thiện MT
Nhận
thức
về sức
khỏe
Tôi nghĩ việc TD xanh sẽ mang sức khỏe cho bản thân
Nina M. và
ctg (2008);
Lê Thị Thùy
Dung (2017)
Tôi nghĩ việc dùng các SP xanh sẽ giúp tôi tránh được
các tác nhân gây bệnh
Tôi nghĩ việc TD các SP xanh sẽ kéo dài tuổi thọ của tôi
Tôi nghĩ việc TD các SP xanh sẽ nâng cao chất lượng
cuộc sống tôi
Kiến
thức
TDX
Tôi biết nhiều về sản phẩm xanh hơn so với người khác Nguyễn Thị
Thu Hương
(2017);
Pawel
Grzelak,
(2011);
Kamothip
Maichum và
ctg (2017)
Tôi có thể nhận biết sản phẩm xanh qua thiết kế bao bì
Tôi nhận biết sản phẩm xanh qua màu sắc
Tôi nhận biết sản phẩm xanh qua kiểu dáng sản phẩm
Tôi biết địa điểm bán sản phẩm xanh
Tôi nhận biết sản phẩm xanh là sản phẩm tự phân hủy,
thân thiện, vô hại với MT
Niềm
tin
xanh
Tôi tin vào lòng trung thực của nhà sản xuất
Jan P.Voon
và ctg
(2011);
Nguyễn Thị
Thu Hương
(2018)
Tôi tin vào trách nhiệm của nhà sản xuất
Tôi tin vào những thông tin trên bao bì của SP xanh
Tôi tin vào chứng thực an toàn, dấu chứng nhận SP
xanh
Tôi có niềm tin vào các nhà sản xuất khi họ tuyên bố
mặt hàng là SP xanh
Hiệu
quả
TDX
Tôi nhận thấy hành vi mua SP xanh của tôi có thể có
một tác động tích cực đối với MT Nguyễn Bá
Phước
(2015);
Hoàng Thị
Bảo Thoa
(2017);
Manzo và
Western
(1987)
Tôi nhận thấy hành vi mua các SP xanh có ý nghĩa kinh
tế đối với gia đình và xã hội
Tôi nhận thấy khi tôi sử dụng lại đồ vật tái chế thì chất
lượng MT sống sẽ được duy trì
Tôi nghĩ hành vi mua SP xanh của tôi sẽ khuyến khích
gia đình và bạn bè cũng tham gia
Tôi nhận thấy hành vi mua SP xanh của cả cộng đồng
sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn so với hành vi mua của cá
nhân.
Nhận
thức
về giá
Tôi nhận thấy giá sản phẩm xanh được niêm yết rõ rang Mark R.
Gleim và ctg
(2013);
Nguyễn Thị
Thu Hương
(2018)
Tôi nhận thấy giá cả SP xanh cao vì chi phí SXKD cao
Tôi nhận thấy mức giá SP xanh phù hợp với chất lượng
Tôi chấp nhận mức giá mua sản phẩm xanh tại cửa
hàng
Nhãn
sinh
thái
Tôi nhận thấy nhãn SP xanh được thiết kế chuyên
nghiệp
Aibek
Doszhanov
và Zainal
Ariffin
Ahmad
(2015)
Tôi nhận biết nhãn hiệu SP xanh thông qua logo, biểu
tượng
Tôi nhận biết nhãn hiệu SP xanh qua thông điệp
(Slogan)
Tôi nhận biết nhãn hiệu SP xanh trong các chiến dịch
tiếp thị
Tôi nhận thấy nhãn SP xanh được thiết lập tốt với mối
quan tâm về MT
Tôi nhận thấy nhãn SP xanh thực sự là lời hứa về MT
Truyền
thông
đại
chúng
Tôi nhận thấy thông tin truyền thông về TD xanh trên
tivi, internet, game shows truyền hình.
Nguyễn Bá
Phước
(2015); Lê
Thùy Hương
(2014); Lê
Thị Thùy
Dung (2017)
Tôi nhận thấy thông tin truyền thông về TD xanh qua
chương trình người Việt dùng hàng Việt
Tôi nhận thấy thông tin truyền thông về TD xanh từ các
trường Đại học
Tôi nhận thấy nhân viên bán hàng tư vấn nhiệt tình về
thông tin SP xanh
Tôi nhận thấy có nhiều chương trình khuyến mãi, ưu
đãi cho người TD xanh
Ý định
TD
xanh
Tôi dự kiến sẽ mua các sản phẩm xanh Kamothip
Maichum và
ctg, (2017);
Adnan Butt
(2017);
Aibek
Doszhanov
và ctg
(2015);
Hoàng Thị
Bảo Thoa,
2017
Tôi sẽ xem xét chuyển đổi từ thương hiệu đang sử dụng
sang thương hiệu sinh thái
Tôi sẽ trả tiền cao hơn cho sản phẩm xanh vì chúng tốt
cho sức khỏe và bảo vệ MT
Tôi muốn mua sản phẩm xanh để giảm thiểu ô nhiểm
MT
Tôi sẽ giới thiệu cho bạn bè, người thân tác dụng tích
cực của SP xanh
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả, 2019)
Giai đoạn nghiên cứu chính thức được
chú trọng sử dụng phương pháp nghiên cứu
định lượng, bảng câu hỏi chính thức được sử
dụng phỏng vấn trực tiếp người tiêu dùng về
ý định tiêu dùng xanh thành phố Trà Vinh
nhằm thu thập dữ liệu sơ cấp phục vụ cho
phân tích định lượng.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Mô tả thông tin mẫu nghiên cứu
Tác giả đã phát ra 460 phiếu khảo sát cho
người tiêu dùng tại thành phố Trà Vinh và
thu về 396 phiếu hợp lệ. Giới tính phổ biến ở
đối tượng khảo sát là nam chiếm 59,8% và
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
50
40,2% là nữ. Về độ tuổi, có 10,9% người
dùng ở độ tuổi 18 đến 25; 45,2% người dùng
ở độ tuổi 26 đến 35; 33,3% người dùng ở độ
tuổi 36 đến 50 và 10,6% người dùng trên 50
tuổi. Có 71,5% người được hỏi đã có gia
đình và 28,5% là chưa có gia đình. Về trình
độ, người được hỏi có trình độ phổ biến là
phổ thông chiếm 43,4%; trình độ trung cấp
chiếm 21,5%; trình độ cao đẳng là 11,9%;
trình độ đại học là 22% và trình độ sau đại
học là 1,3%. Về nghề nghiệp, có 8,6% người
tiêu dùng là nhà quản lý; 20,7% là nhân viên
văn phòng; 9,3% là nhân viên kinh doanh;
2% là nhân viên kỹ thuật; 1,5% là giáo viên;
19,9% là nội trợ, 18,7% là công nhân và
19,2% thuộc các ngành nghề khác.
3.2. Kiểm định độ tin cậy thang đo
Tác giả tiến hành kiểm định hệ số
Cronbach’s Alpha với 46 biến quan sát, gồm
41 quan sát của 8 nhân tố độc lập và 05 quan
sát của biến phụ thuộc. Kết quả kiểm định
cho thấy hệ số Alpha của nhân tố Nhận thức
môi trường là (0,837), Nhận thức về sức
khỏe là (0,847), Kiến thức tiêu dùng xanh là
(0,822), Niềm tin xanh là (0,909), Nhận thức
hiệu quả tiêu dùng xanh là (0,794), Nhận
thức giá cả là (0,753), Nhãn sinh thái là
(0,753), Truyền thông đại chúng là (0,777),
Ý định tiêu dùng xanh là (0,840). Tất cả các
biến đo lường đều thỏa điều kiện, làm cơ sở
cho bước phân tích EFA kế tiếp.
3.3. Phân tích nhân tố khám phá
Kết quả phân tích nhân tố khám phá biến
độc lập, có 37 biến quan sát được sử dụng
cho phân tích, hệ số KMO = 0,870 đạt yêu
cầu ≥ 0,5; mức ý nghĩa của kiểm định
Bartlett = 0,000 đạt yêu cầu ≤ 0,05; Tổng
phương sai trích được là 65,164% ≥ 50%; số
lượng nhân tố rút trích được là 8, phù hợp
với giải thuyết về thành phần thang đo, có giá
trị Eigenvalues là 1,384 và trọng số các nhân
tố đều có giá trị lớn hơn 0,5.
Phân tích nhân tố khám phá biến phụ thuộc
Ý định, có 05 biến quan sát được sử dụng cho
phân tích, hệ số KMO = 0,833 đạt yêu cầu ≥
0,5; mức ý nghĩa của kiểm định Bartlett =
0,000 đạt yêu cầu ≤ 0,05; Tổng phương sai
trích được là 61,225% ≥ 50%; số lượng nhân
tố rút trích được là 1, điều này có nghĩa là 5
yếu tố đo lường ý định tiêu dùng xanh có độ
kết dính cao và độ hội tụ của nhân tố, sử
dụng cho phân tích tiếp theo. Như vậy phân
tích nhân tố EFA đáp ứng yêu cầu về dữ liệu và
các biến quan sát có tương quan với nhau trong
tổng thể như (Bảng 2).
3.4. Phân tích hồi quy tuyến tính
Phân tích hồi quy tuyến tính đo lương
mức độ tác động của các nhân tố đến ý định
tiêu dùng xanh.
Kết quả phân tích chỉ ra nhân tố Nhận
thức về môi trường, Hiệu quả tiêu dùng xanh,
Nhận thức về sức khỏe,Truyền thông đại
chúng và Nhận thức về giá ảnh hưởng ý định
tiêu dùng xanh.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
51
Hệ số R2 là 0,463 và R2 hiệu chỉnh là
0,452. Do đó, mô hình hồi quy tuyến tính bội
được xây dựng phù hợp với tập dữ liệu ở
mức 45,2%, nghĩa là 45,2 % ý định tiêu dùng
xanh được giải thích có tác động bởi 6 nhân
tố nêu trên. Giá trị kiểm định độ phù hợp của
mô hình F = 41,658 với Sig. = 0,000, mô
hình được xem như là phù hợp với tổng thể
Nhân tố phóng đại phương sai VIF của mô
hình hồi quy có giá trị dao động từ 1,256 đến
1,558 nhỏ hơn so với 2, hệ số dung sai
(Tolerance) thấp do đó không có dấu hiệu
của hiện tượng đa cộng tuyến và không có
mối tương quan chặt chẽ giữa các biến độc
lập. Từ bảng số liệu trên, tác giả xác địnhmô
hình mối tương quan hồi quy tuyến tính bội
các nhân tố như sau:
YD = 0,387 + 0,082NTMOIT + 0,214HQUA
+ 0,230SKHOE + 0,063KTHUC + 0,198
TTHONG + 0,181 GIACA
Kết quả cho thấy mô hình nghiên cứu thực
tế có độ phù hợp cao. Ở độ tin cậy 95%, tác
giả khẳng định rằng nhân tố Nhận thức về sức
khỏe ảnh hưởng mạnh nhất đến ý định tiêu
dùng xanh của người dân thành phố Trà Vinh,
kết quả này tương đồng với nghiên cứu cuả
(Asgarnezhad Nouri Bagher và cộng sự, 2018;
Lê Thị Thùy Dung, 2014), người tiêu dùng
quan tâm đến sức khỏe thì họ có xu hướng mua
các sản phẩm xanh nhiều hơn. Thực phẩm hữu
cơ, thực phẩm sạch, thân thiện với môi trường
thường được coi là lựa chọn tốt nhất cho mối
quan tâm về sức khỏe. Bên cạnh đó, Hiệu quả
tiêu dùng xanh ảnh hưởng đến ý định tiêu dùng
xanh. Sự chấp nhận giả thuyết này với nghiên
cứu của (Adnan Butt , 2017; Nguyễn Thế Khải
và Nguyễn Thị Lan Anh, 2015; Nguyễn Bá
Phước, 2015) chứng thực rằng nếu mọi người
tin tưởng vào hiệu quả của các nỗ lực cá nhân,
thì ý định sử dụng các sản phẩm xanh của họ sẽ
được tăng cường. Khi nhận thức được các vấn
đề về môi trường, người dùng càng nhìn nhận
rõ những hậu quả gây ra cho môi trường, nhận
thức được tính kinh tế trong tiêu dùng sản
phẩm xanh đối với gia đình, xã hội. Từ đó thay
đổi ý định tiêu dùng của mình. Trong thời đại
công nghệ số, Truyền thông đại chúng có ảnh
hưởng ý định tiêu dùng xanh, tương đồng với
các nghiên cứu của (Lê Thị Thùy Dung, 2017;
Nguyễn Thế Khải và Nguyễn Thị Lan Anh,
2015). Thật vậy, các trang mạng xã hội như
zalo, facebook là một trong những công cụ hỗ
trợ đắc lực cho quá trình truyền thông của
doanh nghiệp, khách hàng sẽ chuyển từ thái độ
sang ý định tiêu dùng khi họ biết rõ thông tin ở
đâu, địa điểm nào có bày bán sản phẩm xanh.
Một nhân tố được xem là rào cản của ý định
tiêu dùng là Nhận thức về giá, đồng nhất với
nghiên cứu của (Lê Thị Thùy Dung, 2017; Hà
Nam Khánh Giao, 2015) giá có ảnh hưởng đến
ý định tiêu dùng, một khi doanh nghiệp công
khai giá cả để người tiêu dùng nắm rõ thì sẽ
giúp khách hàng giảm đi phần nào tâm lý lo
lắng về giá. Đặc biệt, giá cả hợp lý, các chính
sách khuyến mãi về sản phẩm xanh của doanh
nghiệp sẽ là nhân tố tác động rất lớn đến ý định
tiêu dùng. Khả năng dự đoán của mô hình cũng
khá phù hợp với nghiên cứu của (Kamonthip
Maichum và cộng sự, 2017) khẳng định Nhận
thức về môi trường ảnh hưởng đến ý định tiêu
dùng xanh. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của (Collins Marfo Agyeman và
cộng sự, 2017; Phạm Thị Lan Hương, 2014).
Thật vậy, khi người dùng nhận thức được tầm
quan trọng của môi trường họ sẽ có thái độ tích
cực hơn đến môi trường, ý định tiêu dùng xẽ
hình thành từ đó. Chẳng hạn như có xu hướng
quan tâm đến việc sử dụng những sản phẩm ít
gây ô nhiễm môi trường hoặc nghĩ đến việc sản
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
52
xuất hay tiêu thụ thực phẩm thân thiện với môi
trường. Tuy nhiên, Kiến thức tiêu dùng xanh lại
không có ý nghĩa thống kê, đi ngược với
nghiên cứu (Asgarnezhad Nouri Bagher và
cộng sự, 2018), sự không tương đồng này có
thể do khái niệm “tiêu dùng xanh” còn khá mới
mẻ ở Việt Nam và thành phố Trà Vinh, do đó
kiến thức và các thông tin xoay quanh sản
phẩm xanh chưa được người tiêu dùng biết đến
và chú trọng. Cùng quan điểm với nghiên cứu
của (Muhammed Abdullah Sharaf và cộng sự,
2015) cho rằng nhiều người tiêu dùng xem các
sản phẩm xanh là sản phẩm đặc biệt, được chỉ
định cho một số người tiêu dùng nhất định
(Shahnaei, 2012). Ngoài ra, không thống nhất
với kết quả nghiên cứu của (Qinqin Liang,
2014) bởi một số người dùng vẫn còn e ngại về
tiếp cận sản phẩm xanh và niềm tin vào nhà sản
xuất, điều này làm cho nhân tố Niềm tin xanh
không có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, Nhãn
sinh thái không có ảnh hưởng đến ý định tiêu
dùng xanh, có khả năng là khái niệm về nhãn
sinh thái còn khá xa lạ với Việt Nam và chưa
thật sự phổ biến ở thành phố Trà Vinh, do đó
giả thuyết này không được chấp nhận.
3.5. Phân tích độ phân tán của thang đo
Phân tích độ phân tán của thang đo, số
liệu bảng 2 cho thấy các khái niệm thành
phần của thang đo ý định tiêu dùng xanh đều
có hệ số tin cậy tổng hợp lớn hơn hệ số
Cronbach’s Alpha, có tổng phương sai trích
để giải thích mức độ biến thiên của dữ liệu
đạt yêu cầu.
Các nhân tố được cho là có tác động đến ý
định tiêu dùng xanh có thể nhìn thấy thông qua
hình 2. Phần lớn thang đo giá trị trung bình của
các nhân tố tác động đến ý định tiêu dùng ở
mức tương đối cao, giá trị trung bình nhận
được dao động trong khoảng từ 3,62 đến 4,17
trong thang đo 5 cấp độ (bảng 4). Các nhân tố
nhận các giá trị giảm dần như sau: Nhận thức
về sức khỏe (4,17), Nhận thức về môi trường
(4,09), Nhận thức hiệu quả hành vi tiêu dùng
(3,83), Nhận thức về giá cả (3,66) và Truyền
thông đại chúng (3,62).
Phân tích phân phối và độ phân tán của
các khái niệm nghiên cứu, tác giả nhận thấy
sự sai lệch khỏi giá trị trung bình của các
biến tương đối thấp (độ lệch chuẩn chỉ biến
động trong phạm vi từ 0,59 đến 0,69). Điều
này thể hiện sự phân phối của các biến
không lệch xa giá trị trung bình. Giá trị của
độ lệch (Skewness) và độ nhọn (Kurtosis)
nằm trong phạm vi chấp nhận được của một
phân phối chuẩn, trong khoản (-2; +2) cho
độ lệch và (-3; +3) cho độ nhọn. Khái niệm
Nhận thức về sức khỏe nhận giá trị tương
đối cao (4,17) và Truyền thồn đại chúng là
(3,62). Phân phối của biến này đủ điều kiện
cho phân phối chuẩn, các giá trị của độ lệch
và độ nhọn đảm bảo yêu cầu. (Hình 2)
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 5 nhân
tố tác động đến ý định tiêu dùng xanh của
người dân tại thành phố Trà Vinh là Nhận
thức về môi trường, Nhận thức về sức khỏe,
Hiệu quả hành vi tiêu dùng xanh, Giá cả và
Truyền thông đại chúng. Nhằm nâng cao
nhận thức bảo vệ môi trường và chất lượng
cuộc sống cho người tiêu dùng, phía doanh
nghiệp cần có các chính sách thúc đẩy tiêu
dùng xanh trong cộng đồng như sau:
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
53
Nhận thức về môi trường ảnh hưởng đến
ý định tiêu dùng, để gia tăng nhận thức về
môi trường, phía doanh nghiệp Doanh nghiệp
cần cam kết bảo vệ môi trường, trang bị hệ
thống lọc và xử lý chất thải để giảm đến mức
thấp nhất những tác động tiêu cực cho môi
trường, qua đó giúp doanh nghiệp tạo được
lòng tin với người dùng. Đặc biệt, người dân
có thói quen cập nhật tin tức trên tivi và báo
mạng, vì vậy để tạo hiệu ứng tiêu dùng xanh
trong cộng đồng, doanh nghiệp có thể phát
phóng sự trên tivi giới thiệu về quy trình xử
lý chất thải hoặc tổ chức cho tham quan mô
hình sản xuất kinh doanh khép kín của mình,
điều này giúp tạo luồng cảm hứng tiêu dùng
xanh trong khách hàng.
Nhận thức về sức khỏe, ngày nay người
dùng có xu hướng quan tâm về sức khỏe và
chất lượng cuộc sống, không quá tập trung
vào phần lượng nghĩa là “ăn no” mà người ta
hướng đến phần chất tức “ăn ngon”. Thực
phẩm xanh, an toàn, giàu chất dinh dưỡng sẽ
làm cho bữa ăn trở nên ngon hơn, giúp con
người tái tạo lại sức lao động và khôi phục
sức khỏe. Vì thế, doanh nghiệp nên mở các
buổi tư vấn về sức khỏe dinh dưỡng, tư vấn
về chế độ ăn dinh dưỡng và hợp lý cho người
dùng, thông qua đó lồng ghép giới thiệu sản
phẩm xanh của doanh nghiệp. Như vậy,
người tiêu dùng mới có nền tảng kiến thức và
ý thức về sức khỏe, từ đó họ sẽ có động lực
mua các sản phẩm xanh.
Hiệu quả hành vi tiêu dùng, chỉ khi người
tiêu dùng mua và sử dụng sản phẩm xanh thì
mới có thể cảm nhận được lợi ích đối với
môi trường, lợi kinh tế cho gia đình và xã
hội. Do đó, hoạt động chính trong các
chương trình truyền thông là cho khách hàng
dùng thử các sản phẩm xanh hoặc giảm giá
trực tiếp trên sản phẩm để người dân dễ tiếp
cận trong thời gian đầu, thói quen tiêu dùng
các sản phẩm xanh dần được hình thành
trong nhận thức và hành động của người
dùng. Khi đó, doanh nghiệp sẽ có chính sách
điều tiết các chương trình truyền thông và giá
cả cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh
doanh của mình và người tiêu dùng sẽ dễ
chấp nhận. Mặt khác, phía doanh nghiệp nên
lồng ghép tuyên truyền ý thức sử dụng tiết
kiệm, tái tạo và bảo tồn nguồn tài nguyên
thiên nhiên thông qua các cuộc thi về môi
trường và cuộc sống xanh mà trọng tâm là
nhận thức tiêu dùng xanh của người dân.
Nhận thức về giá, tránh những lo toan khi
chi trả, doanh nghiệp cần niêm yết giá rõ
ràng, điều này sẽ giúp người mua dễ so sánh
giá sản phẩm xanh với giá các sản phẩm
thường ngày. Điều đáng lo ngại là giá sản
phẩm xanh thường cao, cho nên trong quá
trình tiếp cận chăm sóc khách hàng, doanh
nghiệp cần giải thích, làm rõ và lập luận về
chi phí của mặt hàng, giúp cho người dùng
nhận thức lợi ích về sức khỏe, về tính kinh tế
đáng giá hơn nhiều so với đồng tiền họ bỏ ra.
Truyền thông đại chúng, người tiêu dùng
nhu cầu về sản phẩm xanh, sạch nhưng họ
không biết tiếp cận sản phẩm xanh thông qua
kênh nào. Từ thực tiễn tiêu dùng trong xã hội,
doanh nghiệp cần nhân rộng mô hình kinh
doanh, sử dụng các kênh truyền thông như
website bán hàng hoặc mạng xã hội như zalo,
facebook để giới thiệu sản phẩm. Bên cạnh
đó, doanh nghiệp có thể phát tờ rơi, treo băng
rôn trước cửa hiệu để thu hút sự chú ý người
dùng. Đặc biệt, doanh nghiệp có thể kết nối
với trường Đại học, Cao đẳng để truyền thông
về các sản phẩm xanh của mình. Ngoài ra,
doanh nghiệp có thể tiếp cận người dùng bằng
cách lồng ghép sản phẩm xanh vào Hội chợ
thương mại và Chương trình hàng Việt về
nông thôn.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aibek Doszhanov and Zainal Aifin Ahmad (2015), Customer’s intention to use green
products: The impact of green brand dimensions and green perceived value. SHS Web
of Conferences 18, 01008, 2015.
Ajzen, I. and Fishbein, M. (1975), Belief, Altitude, Intention and Behavior: An Introduction
to Theory and Research, Reading, MA: Addison-Wesley.
Ajzen (1980), Attitudes and voting behaviour: An application of the theory of reasoned
action. In G. M. Stephenson & J. M. Davis (Eds.), Progress in applied social
psychology, Vol 1, pp 95-125.
Ajzen (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human
Decision Processes, Vol 50 (1), pp 179–211.
Asgarnezhad Nouri Bagher, Farideh Salati and Mohammad Ghaffari (2018), Factors
affecting intention to purchase organic food product among Iranan consumers,
Academy of Marketing Studies Journal, Volume 22, Issue 3.
Boztepe, A. (2012), Green marketing and its impact on consumer buying behavior,
European Journal of Economic and Political Studies, 1, 5-21.
Chen TB, Chai LT (2010), Attitude towards the environment and green products:
consumers' perspective, Management Science and Engineering 4 (2): 27-39.
Collins Marfo Agyeman, Devaraj Badugu (2017), Purchasing Intentions of Eco-Friendly
Bags; An Examination into Consumers’ Susceptibility to Social Influences as a
Mediating Variable, International Journal in Management and Social Science, Vol.05,
Issue-01.
Cooper, T. (2000), Product development implications of sustainable consumption, The
Design Journal, Vol. 3 ( No. 2), pp. 46-57.
E.C Alfredsson (2004), Energy, Green consumption no solution for climate change, No 29,
Vol 4, pp 513–524.
Follows, S.B. and Jobber, D. (2000), Environmentally Responsible Purchase Behavior: A
Test of a Consumer Model, European Journal of Marketing, 34, 723-746.
Fuchs and Lorek (2005), Sustainable Consumption Governance: A History of Promises and
Failures. Journal of consumer policy, Vol. 3, No. 28, pp. 261-288.
Harrison R, Newholm T, Shaw D (2005), The Ethical Consumer, Sage: Lon Don.
Hà Nam Khánh Giao (2017), Nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua rau an toàn
của cư dân Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Công Thương, số (09).
Hoàng Thị Bảo Thảo (2017), Các nhân tố ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa ý định và hành vi
tiêu dùng xanh của người tiêu dùng Việt Nam, Luận án Tiến sĩ.
Hessam Zand Hessami, Parisa Yousefi, Investigation of major factors influencing green
purchasing behavior: Interactive approach, European Online Journal of Natural and
Social Sciences 2013; ISSN 1805-3602
Janssen, M. and Hamm, U. (2011), Consumer perception of different organic certification
schemes in five European countries, Organic Agriculture 1(1):31-43.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(03) - 2019
55
Kamonthip Maichum, Surakiat Parichatnon, (2017), Factors Affecting on Purchase Intention
towards Green Products: A Case Study of Young Consumers in Thailand, International
Journal of Social Science and Humanity, Vol. 7, No. 5.
Kollmuss, A., and J. Agyeman. (2002), Mind the Gap: Why People Act Environmentally
and What are the Barriers to Pro-Environmental Behavior?, Environmental Education
Research 8 (3): 239–260.
Lê Thị Thùy Dung (2017), Các nhân tố tác động đến ý định mua thực phẩm hữu cơ của
người tiêu dùng tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ.
Mansvelt&Robbins (2011), Green Marketing and Consumer Behavior: The Case of
Gasoline Products, Transnational Management, Vol 2, No. 16.
Moorman, Rohit Deshpand (1992), Relationships Between Providers and Users of Market
Research: The Dynamics of Trust Within and Between Organizations, Journal of
Marketing Research, 29 (August), 314-29.
Muhammed Abdullah Sharaf, Filzah Md Isa and Khalid Al-Qasa (2015), Factors Affecting
Young Malaysians' Intention to Purchase Green Products, Merit Research Journal of
Business and Management, Vol. 3(3) pp. 029-033.
Mạng thông tin bảo về môi trường Việt Nam, 2018, Thế nào là sản phẩm xanh
<
xanh-loi-ich-la-gi--18387.htm>
Mạng thông tin bảo về môi trường Việt Nam, 2018, Báo động về tình trạng ô nhiễm nguồn
nước nghiêm trọng tại Việt Nam <https://www.elle.vn/bi-quyet-song/tinh-trang-o-
nhiem-nguon-nuoc-nghiem-trong-tai-viet-nam>
Nguyễn Bá Phước (2015), Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua sản phẩm xanh của
người tiêu dùng trẻ tại các tỉnh Nam Trung Bộ, Luận văn thạc sĩ.
Nguyễn Thế Khải và Nguyễn Thị Lan Anh (2015), Nghiên cứu ý định tiêu dùng xanh của
người tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí khoa học Trường Đại học Mở
TPHCM, số 2(47).
N. Barber, “Green” wine packaging: Targeting environmental consumers,” International
Journal of Wine Business Research, vol. 22, no. 4, pp. 423-444, 2010.
P.-C. Lin and Y.-H. Huang, “The influence factors on choice behavior regarding green
products based on the theory of consumption values,” Journal of Cleaner Production,
vol. 22, no. 1, pp. 11-18, 2012.
Phạm Thị Lan Hương (2014), Dự đoán ý định mua xanh của người tiêu dùng trẻ: Ảnh
hưởng của các nhóm văn hóa và tâm lý, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số (200).
Padel, S. and Foster, C. (2005), Exploring the gap between attitudes and behaviour –
understanding why consumers buy or do not buy organic food, British Food Journal,
Vol. 107 No. 8, pp. 606‐25.
P.-C. Lin and Y.-H. Huang, “The influence factors on choice behavior regarding green
products based on the theory of consumption values,” Journal of Cleaner Production,
vol. 22, no. 1, pp. 11-18, 2012.
Peattie (2010), Green Consumption: Behavior and Norms. Annual Review of Environment and
Resources, No. 35, pp. 195 – 228.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
56
Philip Kotler - PTS Vũ Trọng Hùng dịch (2011), Quản trị Marketing, Nhà xuất bản Lao
động - Xã hội.
Qinqin Liang and Sirion Chaipoopirutana (2014), A Study of Factors Affecting Customer‘s
Attitude toward Intention to Purchase Green Electronic Products at an IT Mall in
Beijing, China. International Conference on Business, Law and Corporate Social
Responsibility (ICBLCSR'14), Oct 1-2, 2014.
Quyết định 1393 về tăng trưởng xanh< https://thuvienphapluat.vn/van-ban/tai-nguyen-moi-
truong/Quyet-dinh-1393-QD-TTg-nam-2012-phe-duyet-Chien-luoc-quoc-gia-tang-
truong-xanh-148498.aspx>
Schultz, C.J.H. and Holbrook, M.B., 1999. Marketing and the tragedy of the commons: a
synthesis, commentary and analysis for action. Journal of Public Policy and
Marketing, Vol. 18 No. 2, pp. 218-29.
Shahnaei, S. (2012), The impact of individual differences on green purchasing of Malaysian
consumer, International Journal of Business and Social Science, 3 (16), 132 – 140.
Taylor, J. R., & Ahmed, S. A. (1974), Ecologically concerned consumers: Who are they?,
Journal of Marketing, 38(2), 20-24.
Tregear, A., Dent, J.B. and McGregor, M.J. (1994), The demand for organically grown
produce, British Food Journal, Vol. 96 No. 4, pp. 21‐5.
Wandel, M. and Bugge, A. (1997), Environmental concern in consumer evaluation of food
quality, Food Quality and Preference, Vol. 8 No. 1, pp. 19‐26.
Webster, F. (1975), Determining the characteristics of the socially conscious consumer'',
Journal of Consumer Research, Vol. 2, December, pp. 188-96.
Yang et al., (2014), .Added sugar intake and cardiovascular diseases mortality among US
adults, JAMA Intern. Med., 174 (4) (2014), pp. 516-524.
Trà Vinh: tăng cường kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm
<
toan-thuc-pham>[Truy cập ngày 28/01/2018].
Trà Vinh tập trung giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường tại các bãi rác, 2018,
<https://vnanet.vn/vi/tin-tuc/tin-thoi-su-trong-nuoc-1/tra-vinh-tap-trung-giai-quyet-
tinh-trang-o-nhiem-moi-truong-tai-cac-bai-rac-271323.html>
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_y_dinh_tieu_dung_xanh_cua_nguoi_da.pdf