* Phát triển mô hình hợp tác xã nhằm tăng
năng suất và năng lực cạnh tranh cho sản
phẩm của huyện
Để duy trì phát triển sản phẩm miến dong ổn
định, bền vững, UBND huyện cần chỉ đạo các
cơ quan liên quan, Hội dong riềng tham mưu
để thành lập Hợp tác xã dong riềng mục tiêu:
Tổ chức lại sản xuất, quản lý về chất lượng sản
phẩm miến dong, liên kết thúc đẩy thị trường
tiêu thụ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường. Ngoài ra việc phát triển mô hình hợp
tác xã này cũng là giải pháp để xử lý việc quy
mô sản xuất nhỏ lẻ của hộ gia đình. Hiệu quả
sản xuất theo quy mô là điều mà ai cũng biết
đến nhưng thực tế các hộ không đủ trình độ và
điều kiện để làm điều này. Chính vì vậy mô
hình hợp tác xã là giải pháp hợp lý mà có thể
áp dụng ngay trong thời gian trước mắt.
* Đầu tư khoa học cho sản xuất dong riềng
nhằm tăng năng suất và chất lượng của sản
phẩm dong riềng
Cây dong riềng đã gắn bó với người dân Bắc
Kạn từ những năm 1960 và được duy trì đến
nay. Tuy nhiên, có một thực trạng hoạt động
sản xuất vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm
nên hiệu quả không cao. Giống được sử dụng
lại qua nhiều năm dẫn đến thoái hóa, năng
suất thấp, tỉ lệ và chất lượng tinh bột giảm.
Đồng thời, tận dụng quỹ đất, ngành chức
năng đã tích cực trong việc đưa cây trồng
khác trồng xen canh với dong riềng. Việc này
đã thực hiện thành công tại xã Côn Minh (Na
Rì), kết hợp trồng cỏ Stylo vừa chống xói
mòn đất, vừa làm thức ăn cho gia súc, cho cá,
làm giàu chất đạm trong đất. Khi cỏ cao
khoảng 60-80 cm tiến hành cắt cỏ cho cá hay
gia súc ăn, nếu không sử dụng trong chăn
nuôi thì cắt cỏ rải đều gần gốc dong riềng, sau
thời gian cỏ phân huy tạo thành phân xanh
cung cấp dinh dưỡng cho cây dong riềng
Nhờ đó, năng suất cây dong riềng ở mô hình
trồng xen này đạt 650-700 tạ/ha. Hay trồng
xen dong riềng dưới những tán rừng trồng
trong 2-3 năm đầu, vừa tận dụng được đất
canh tác, thời gian chăm sóc cây trồng, tăng
hiệu suất kinh tế trên 1 đơn vị diện tích.
Tiếp tục nâng cao chất lượng năng suất của
cây dong riềng, trong những năm tới tỉnh Bắc
Kạn sẽ tiếp tục tập trung nghiên cứu, tuyển
chọn bổ sung các giống dong riềng mới phù
hợp cho năng suất cao, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, đầu tư kỹ thuật trong canh tác trồng,
chăm sóc hướng đến xây dựng vùng
nguyên liệu sạch.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu và áp dụng
các giống dong riềng khác DR1 để cải thiện
hiệu quả kinh tế của toàn chuỗi giá trị dong
riềng cũng cần phải được tiến hành.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến phát triển sản xuất dong riềng trên địa bàn huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN: 1859-2171
e-ISSN: 2615-9562
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 37
CÁC NHÂN TỐ KINH TẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
DONG RIỀNG TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NA RÌ, TỈNH BẮC KẠN
Nguyễn Thị Lan Anh1*, Đào Thị Hương2
1Đại học Thái Nguyên
2Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Dong riềng luôn là cây nông nghiệp thế mạnh của huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn trong nhiều năm
qua. Phát triển sản xuất dong riềng là một nhiệm vụ quan trọng của địa phương trên địa bàn huyện
Na Rì. Tuy việc phát triển sản xuất luôn gặp phải những cản trở nhất định vì có nhiều yếu tố tác
động trực tiếp và gián tiếp đến quá trình sản xuất dong riềng. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ
số liệu thống kê và điều tra phỏng vấn trực tiếp qua áp dụng phương pháp chọn mẫu Slovin. Các
kỹ thuật phân tích thống kê mô tả và các phương pháp so sánh được áp dụng để xử lý dữ liệu
nghiên cứu. Kết quả cho thấy nguồn lực hộ gia đình và hoạt động thị trường là hai nhân tố kinh tế
có ảnh hưởng đến phát triển sản xuất dong riềng trên địa bàn huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Trên cơ
sở phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế tiêu cực, bài viết đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát
triển sản xuất cây dong riềng tại địa phương trong thời gian tới.
Từ khóa: Nhân tố kinh tế; phát triển; sản xuất; dong riềng; huyện Na Rì.
Ngày nhận bài: 05/9/2019; Ngày hoàn thiện: 08/5/2020; Ngày đăng: 22/5/2020
THE ECONOMIC FACTORS AFFECTING PRODUCTION DEVELOPMENT
ARROWROOT ON NA RI DISTRICT, BAC KAN PROVINCE
Nguyen Thi Lan Anh
1*
, Dao Thi Huong
2
1Thai Nguyen University
2TNU - University of Economic and Bussiness Administration
ABSTRACT
Arrowroot has always been a strong agricultural crop in Na Ri district, Bac Kan province for many
years. Developing arrowroot production is an important task of the locality in Na Ri district.
Although the development of production always faces certain obstacles because there are many
factors that directly and indirectly affect the production of arrowroot. Research data were collected
from statistical and interview techniques directly through the application of Slovin sampling
method. Descriptive statistical analysis techniques and comparative methods were applied to
process research data. The results show that household resources and market activities are two
economic factors affecting the development of arrowroot production in Na Ri district, Bac Kan
province. On the basis of promoting positive factors and negative limitations, the article has
proposed a number of solutions to develop native canna trees in the coming time.
Keywords: Economy; development; production; arrowroot; Na Ri district.
Received: 05/9/2019; Revised: 08/5/2020; Published: 22/5/2020
* Corresponding author. Email: ctminhanh@gmail.com
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 38
1. Đặt vấn đề
Cây dong riềng đã được trồng ở Bắc Kạn từ rất
lâu và thường được biết đến là cây xóa đói của
Bắc Kạn. Tuy nhiên chỉ những năm gần đây,
được sự quan tâm đầu tư, khuyến khích việc
trồng dong, phát triển chế biến mới đưa cây
dong riềng trở thành cây nông nghiệp chủ lực
ở Bắc Kạn. Riêng đối với huyện Na Rì, từ chỗ
chỉ có 43 ha năm 2007, sang năm 2008 diện
tích cây dong đã tăng lên 88 ha, đến năm 2011
lên 374 ha Từ hai thôn Lùng Vạng, Bản Lài
dong riềng đã lan rộng ra khắp các thôn bản ở
Côn Minh, huyện Na Rì rồi phủ khắp 22 xã, thị
trấn của toàn huyện [1]. Bên cạnh đó, công tác
quy hoạch và kế hoạch sản xuất cụ thể của
từng địa phương thì chưa thực sự bám sát được
vào thực tế. Trong những năm qua, phát triển
sản xuất dong riềng luôn đứng trước nhiều
thách thức, bởi lẽ sản phẩm chế biến thành
phẩm là miến dong có khả năng tiêu thụ chậm,
nguyên nhân chính xuất phát từ các nhân tố
kinh tế như nguồn lực của hộ, thị trường tiêu
thụ,... [2]. Đây cũng chính là lí do để tiến hành
nghiên cứu để nhằm tìm ra những hạn chế
trong công tác phát triển sản xuất dong riềng
hiện tại để có thể đề xuất những giải pháp thích
hợp trong thời gian tới.
2. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cách tiếp cận
Bài viết sử dụng cách tiếp cận từ những vấn
đề hàn lâm lý thuyết khoa học đến vấn đề
thực tiễn [3].
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu
Bài viết sử dụng kết hợp cả số liệu thứ cấp và
số liệu sơ cấp. Trong đó, số liệu thứ cấp được
thu thập từ Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn,
phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn; số liệu sơ cấp
được khảo sát từ các hộ trồng dong riềng trên
địa bàn huyện Na Rì.
Với số liệu sơ cấp, nghiên cứu được thực hiện
tại 3 xã điển hình có diện tích trồng dong
riềng lớn nhất tại huyện Na Rì là xã Côn
Minh, Quang Phong và Hảo Nghĩa.
Đối tượng khảo sát: Các hộ gia đình tham gia
trồng cây dong riềng tại 3 xã được chọn. Ngoài
ra nghiên cứu còn khảo sát thêm nhóm đối
tượng là các cơ sở chế biến miến trên địa bàn
huyện Na Rì và các chuyên gia là những các
bộ quản lý liên quan đến hoạt động sản xuất
nông nghiệp của địa phương.
Cách lấy các đơn vị được thực hiện như sau:
Đối với các hộ dân, tính đến thời điểm khảo
sát trên địa bàn 3 xã có 902 hộ dân tham gia
vào hoạt động trồng dong riềng. Khi đó áp
dụng công thức chọn mẫu của Slovin ta có
n=N/(1+N.e
2
) = 902/(1+902.0.05
2) = 277 hộ
Như vậy, với sai số chọn mẫu (e) là 5% sẽ
xác định được số hộ cần khảo sát là 277 hộ.
Đối với các cơ sở sản xuất và chế biến bột
dong và miến dong: Toàn bộ các cơ sở trên
địa bàn sẽ được điều tra, trong đó có 21 cơ sở
tại xã Côn Minh, 03 cơ sở tại xã Quang
Phong và 01 cơ sở tại xã Hảo Nghĩa.
Đối với các chuyên gia: Lấy ý kiến của toàn
bộ chuyên gia phụ trách nông nghiệp tại các
xã có trồng dong riềng và các hộ quản lý nông
nghiệp cấp huyện: có 14 cán bộ tại 14 xã có
trồng dong riềng tại Na Rì và 03 cán bộ quản
lý nông nghiệp cấp huyện và 9 cán bộ các sở,
ngành liên quan. Do đó số lượng chuyên gia
được phỏng vấn là 26 người.
2.2.2. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
Các số liệu sau khi thu thập sẽ được làm sạch
và tổng hợp dựa vào phần mềm SPSS 20. Bài
viết sử dụng phương pháp thống kê mô tả và
các phương pháp so sánh nhằm phân tích, làm
rõ ảnh hưởng của các nhân tố đến phát triển
sản xuất dong riềng trên địa bàn huyện Na Rì,
tỉnh Bắc Kạn.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Tình hình trồng dong riềng trên địa bàn
huyện Na Rì
Năm 2010 toàn tỉnh chỉ có hơn 270 ha dong
riềng tập trung chủ yếu ở Na Rì và Ba Bể.
Sang năm 2012, thực hiện chủ trương của tỉnh
về mở rộng diện tích cây dong riềng nên diện
tích dong đã lên đến hơn 1.800 ha và phủ khắp
các huyện, thị xã (nay là TP. Bắc Kạn) mang
lại hiệu quả cao. Năm 2015, được mùa, được
giá với mức giá từ 2.000 đến 2.200 đồng/kg,
lượng củ thu hoạch đến đâu các cơ sở thu mua
hết ngay tới đó, năng suất trung bình đạt 60-70
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 39
tấn/ha. Như vậy mỗi héc ta người dân có thu
nhập khoảng 100 triệu đồng. Cá biệt có những
diện tích được đầu tư thâm canh năng suất cao
trên 80 tấn/ha nên giá trị đạt 150 - 170 triệu
đồng/ha. Đối với các cơ sở chế biến tinh bột và
miến dong cũng thu lời lớn khi giá bột dong từ
17.000 đến 20.000 đồng/kg; giá miến đạt từ
65.000 đến 70.000 đồng/kg, thậm chí có thời
điểm lên tới 80.000 đồng/kg [4].
Sở dĩ cây dong riềng có sự phát triển mạnh
mẽ là nhờ nghề chế biến miến dong những
năm gần đây phát triển rất tốt. Đặc biệt, khi
công nghệ bảo quản tinh bột dong tốt hơn, các
cơ sở chế biến có thể sản xuất miến quanh
năm và không bị phụ thuộc nhiều vào mùa vụ
của cây dong riềng [5].
Về diện tích trồng dong riềng
Tổng diện tích trồng dong riềng của Bắc Kạn
thay đổi liên tục theo các năm trong giai đoạn
2013-2017. Kết quả được thể hiện tại bảng 1.
Bảng 1 cho thấy diện tích dong riềng của toàn
tỉnh giảm mạnh nhất trong năm 2014 khi tổng
số ¾ diện tích dong riềng của tỉnh đã bị sụt
giảm. Riêng đối với huyện Na Rì đã giảm
khoảng 60% diện tích trong cùng năm đó.
Tuy nhiên diện tích trồng dong riềng đã tăng
trở lại vào năm 2015 (tăng từ 455 ha lên 503
ha). Đối với các huyện khác thì diện tích
trồng dong riềng cũng có biến động lớn. Điều
này cũng cho thấy tỉnh Bắc Kạn đã không có
một quy hoạch sản xuất dong riềng tốt. Sự
tăng giảm về diện tích nói trên chỉ đơn thuần
phụ thuộc vào sự biến động bất thường của
quan hệ cung cầu trên thị trường đó là: giá
dong riềng của năm trước sẽ quyết định đến
diện tích trồng dong riềng vào năm sau.
Về sản lượng dong riềng
Đi kèm với sự phát triển mạnh mẽ của cây
dong riềng thì sự bấp bênh của các hộ canh
tác dong riềng cũng luôn thường trực điển
hình nhất là tình trạng được mùa mất giá và
được giá mất mùa [6]. Để khắc phục tình
trạng được mùa - mất giá nhiều năm trước
đây, vụ dong 2017, tỉnh Bắc Kạn chỉ đạo các
cơ sở chế biến dong ký kết bao tiêu sản phẩm
với người trồng nhằm giúp cho người trồng
dong riềng yên tâm sản xuất. Tuy nhiên thực
tế lại cho thấy một bức tranh rất khác về sản
xuất miến dong trên địa bàn tỉnh. Bảng 2 bổ
sung thêm thông tin cho bức tranh sản xuất
dong riềng trên địa bàn của tỉnh Bắc Kạn. Có
thể nhìn thấy rõ ở một số huyện thay đổi của
diện tích và sản lượng không đồng nhất với
nhau. Cụ thể, tại Na Rì năm 2015 diện tích
trồng dong riềng tăng 48 ha nhưng tổng sản
lượng của huyện lại giảm 1000 tấn. Đây cũng
là hiện tượng rất bất thường trong sản xuất
nông nghiệp khi không có tác động của các
yếu tố bất thường như rủi ro về thời tiết và sâu
bệnh. Thực tế những sai lệch trên hoàn toàn
nằm ở việc người dân áp dụng kĩ thuật trồng
trọt chưa đồng nhất nên có thể dẫn đến sự khác
biệt về năng suất dong riềng của mỗi hộ.
Bảng 1. Diện tích trồng dong riềng của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2013-2017
ĐVT: ha, %
Địa bàn
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
DT
(ha)
CC
(%)
DT
(ha)
CC
(%)
DT
(ha)
CC
(%)
DT
(ha)
CC
(%)
DT
(ha)
CC
(%)
Tổng diện tích 2943 100 758 100 720 100 568 100 907 100
TP Bắc Kạn 87 2,96 - 0 3 0,42 3 0,53 2 0,22
Huyện Pắc Nặm 220 7,48 2 0,26 2 0,28 9 1,58 36 3,97
Huyện Ba Bể 786 26,71 177 23,35 131 18,19 200 35,21 289 31,86
Huyện Ngân Sơn 81 2,75 4 0,53 4 0,56 2 0,35 - 0
Huyện Bạch Thông 302 10,26 85 11,21 60 8,33 46 8,1 86 9,48
Huyện Chợ Đồn 257 8,73 13 1,72 7 0,97 3 0,53 8 0,88
Huyện Chợ mới 77 2,62 22 2,9 10 1,39 30 5,28 32 3,53
Huyện Na Rì 1133 38,5 455 60,03 503 69,86 275 48,42 454 50,06
(Nguồn: Niên giám Thông kê tỉnh Bắc Kạn 2017)
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 40
Bảng 2. Sản lượng củ dong riềng của tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2013-2017
ĐVT: Tấn, %
Địa bàn
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
SL
(tấn)
CC
(%)
SL
(tấn)
CC
(%)
SL
(tấn)
CC
(%)
SL
(tấn)
CC
(%)
SL
(tấn)
CC
(%)
Tổng sản lượng 174.846 100 51.266 100 44.417 100 39.989 100 62.535 100
TP Bắc Kạn 4.102 2,35 - 0 153 0,34 195 0,49 130 0,22
Huyện Pắc Nặm 13.102 7,49 119 0,23 119 0,27 630 1,58 1.980 3,97
Huyện Ba Bể 51.090 29,22 11.505 22,44 7.795 17,55 13.000 32,51 18.785 31,86
Huyện Ngân Sơn 4.050 2,32 240 0,47 240 0,54 120 0,3 - 0
Huyện Bạch Thông 21.165 12,1 5.100 9,95 3.900 8,78 3.220 8,05 6.020 9,48
Huyện Chợ Đồn 14.135 8,08 650 1,27 354 0,8 151 0,38 391 0,88
Huyện Chợ mới 4.887 2,8 1.426 2,78 630 1,42 2.034 5,09 2.170 3,53
Huyện Na Rì 62.315 35,64 32.226 62,86 31.226 70,3 20.639 51,61 33.059 50,06
(Nguồn: Niên giám Thông kê tỉnh Bắc Kạn 2017)
Riêng đối với huyện Na Rì, theo báo cáo về
tình hình sản xuất và tiêu thụ dong riềng của
huyện Na Rì cho thấy năm 2016 toàn huyện
Na Rì trồng được 275,5 ha đạt 45,91% so với
kế hoạch, năng suất bình quân đạt 69,8 tấn/ha,
với tổng sản lượng 19.229 tấn củ với mức giá
bán dao động từ 2.500 - 3.000 đồng/kg. Trong
năm này sản lượng tinh bột toàn huyện chế
biến được là 3.094 tấn. Với sản lượng đó thì
toàn huyện đã sản xuất được 250 tấn miến
dong chiếm khoảng 25% sản lượng miến toàn
tỉnh Bắc Kạn [7].
3.2. Tình hình trồng dong riềng của các hộ điều tra
Thông tin chung về hộ
Bảng 3. Thông tin hộ sản xuất dong riềng
Chỉ tiêu
Giá trị
TB
Sai số
chuẩn
Tuổi chủ hộ (Tuổi) 40,38 1,45
Trình độ của chủ hộ (Lớp) 7,95 0,58
Tổng số thành viên hộ (Người) 4,27 0,22
Số lao động của hộ (Người) 2,29 0,20
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
Đối với quy mô về số thành viên trong hộ,
điều tra ghi nhận rằng số thành viên trung
bình của 1 hộ là 4,27 người và số lao động
trung bình là 2,29 người điều đó có nghĩa là
trong một hộ trồng dong riềng thông thường
có khoảng 4 thành viên và có 2 thành viên
trong độ tuổi lao động. Đây cũng quy mô hộ
phổ biến ở Việt Nam. Đối với một hộ nông
nghiệp mà tuổi chủ hộ khoảng 40 tuổi thì đa
phần hai vợ chồng chủ hộ sẽ là lao động
chính và 2 thành viên còn lại thường trong độ
tuổi đi học. Đối với những hộ dạng này địa
phương cũng cần có những chính sách phù
hợp để có thể giữ lại được một số lao động trẻ
tuổi ở lại làm nông nghiệp. Đối với huyện Na
Rì việc phát triển dong riềng trong 10-20 năm
tới phải trông vào lớp lao động trẻ tuổi hiện
giờ đang trong độ tuổi đi học. Tuy nhiên sẽ
không có một đảm bảo nào về việc những lao
động này sẽ tiếp ở lại địa phương để làm nông
nghiệp. Trong khi đó những lao động nông
nghiệp trong độ tuổi hiện tại sẽ già đi và
không còn sức lao động trong tương lai.
Thêm vào đó với quy mô nhỏ lẻ, đất canh tác
manh mún và phân cách nhiều nơi sẽ cản trở
việc sử dụng cơ giới hóa. Đồng thời việc sử
dụng cơ giới hóa phải yêu cầu người lao động
có trình độ cao. Do đó vấn đề lao động trong
sản xuất dong riềng là một câu chuyện rất
phức tạp và nó sẽ ảnh hưởng đến quy hoạch
sản xuất dong riềng của địa phương.
Hình 1. Phân loại hộ trồng dong theo nhóm thu nhập
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
Hình 1 cho thấy cơ cấu về các loại hộ trồng
dong tiềng được điều tra phân theo thu nhập
của hộ. Cơ cấu hộ theo thu nhập được chia ra
làm 4 nhóm như sau: khá giả, trung bình, cận
nghèo và nghèo. Kết quả điều tra cho thấy chỉ
có 4% hộ tự nhận mình là khá giả theo chuẩn
nghèo của địa phương. Thực tế 4% số hộ chỉ
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 41
tương ứng với 11/277 hộ có điều kiện kinh tế
tốt. Đối với nhóm hộ có mức thu nhập trung
bình đủ để duy trì cuộc sống chiếm đến 68%.
Tuy nhiên đây là những hộ có xu hướng dịch
chuyển dần dang các hoạt động phi nông
nghiệp trong tương lai để cải thiện cuộc sống
của họ. Nhóm hộ còn lại là những hộ thuộc
dạng nghèo và cận nghèo chiếm 28% trong
tổng số hộ được điều tra. Đây là nhóm hộ
thường không có điều kiện cho con cái đi học
nên lao động gần như không có sự chuyển
dịch sang khu vực phi nông nghiệp.
Về tình hình sử dụng nguồn lực của hộ
Tiến hành điều tra ngẫu nhiên 277 hộ sản xuất
dong riềng trên địa bàn huyện Na Rì về kết quả
sản xuất trong năm 2018. Số liệu chi tiết được
thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Thông tin về hộ sử dụng nguồn lực
cho sản xuất dong riềng
Tiêu chí
Giá trị
TB
Sai số
chuẩn
Tổng số vốn kinh doanh của hộ
(Triệu đồng)
42,10 15,50
Tổng diện tích đất nông nghiệp (ha) 3,02 6028
Diện tích trồng Dong riềng (ha) 0,28 566,75
Phân chuồng được tiêu thụ
(kg/1000 m
2
)
600 445,82
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
Hình 2. Cơ cấu hộ trồng dong riềng
theo tỷ lệ sử dụng đất
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
Số liệu điều tra cho thấy các hộ trồng dong
riềng tại Na Rì có diện tích trung bình đạt
khoảng 3,02 ha, trong đó các hộ dành khoảng
0,28 ha để trồng dong riềng tương ứng với
khoảng 10% diện tích của hộ. Điều này cho
thấy thực tế dong riềng vẫn chưa phải là cây
trồng chuyên canh của các hộ nông nghiệp ở
Na Rì. Để có thể hiểu sâu hơn về tỉ lệ sử dụng
đất canh tác dong riềng của các hộ này, tiến
hành phân loại các nhóm hộ trồng dong riềng
theo tỉ lệ sử dụng đất cho canh tác dong riềng.
Trong 277 hộ được điều tra thì chỉ có 14% các
hộ sử dụng trên 50% diện tích đất canh tác của
mình để trồng dong riềng. Những hộ này có
thể được coi là các hộ chuyên canh về dong
riềng vì thực tế tổng diện tích đất canh tác của
hộ mặc dù có thể nhiều hơn nhưng thực tế
không phải tất cả đều có thể dùng cho sản xuất
dong riềng.
Việc phát triển sản xuất dong riềng tại huyện Na
Rì cần thiết nghiên cứu đến vấn đề đất đai.
Ngoài sự ảnh hưởng của thổ nhưỡng đến năng
suất dong riềng thì nguồn đất của hộ cũng là
một yếu tố rất quan trọng và ảnh hưởng trực
tiếp đến kế hoạch phát triển sản xuất của huyện.
Kết quả thu thập số liệu của các hộ trồng dong
riềng tại Na Rì cho thấy chỉ có 14% số hộ sử
dụng đến hơn 1 nửa diện tích đất canh tác của
mình để trồng dong riềng. Như vậy tiềm năng
để phát triển dong riềng với nhóm hộ này còn
rất lớn và có thể mở rộng quy mô trong thời
gian tới. Thực tế có đến 41% số hộ tham gia sản
xuất dong riềng với diện tích rất nhỏ với diện
tích chỉ vài sào (1 sào bằng 360 m2) là do họ
vẫn sợ sự bất ổn về giá cả đối với sản phẩm củ
dong nên không dám chuyển đổi toàn bộ cây
trồng sang dong riềng.
Về năng suất
Mặc dù các hộ có quy mô canh tác lớn nhất
lại có năng suất canh tác thấp hơn so với
nhóm I, khi chỉ đạt có 55,69 tấn/ha trong khi
đó nhóm sử dụng dưới 10% diện tích đất canh
tác của mình đạt năng suất đến 57,91 tấn/ha.
Thực tế sự chênh lệch về năng suất thường
không lớn như vậy nếu các hộ tính một cách
chính xác diện tích sử dụng trồng dong riềng.
Về cơ bản các hộ tại Na Rì đều được cán bộ
khuyến nông cấp xã và cấp huyện hướng dẫn
kĩ thuật trồng dong riềng hàng năm. Tuy
nhiên chính điều kiện kinh tế và chất đất mà
hộ sở hữu cũng là yếu tố quyết định đến năng
suất của cây dong. Đối với hai nhóm còn lại
năng suất trung bình của hai nhóm này không
có sự khác biệt nhiều khi 1 ha đều cho thu
hoạch khoảng 53 tấn củ dong (Bảng 5). Mục
đích phân nhóm diện tích các hộ trồng dong
riềng để nhằm tìm ra sự khác biệt về năng
suất giữa các hộ chuyên canh trồng dong
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 42
riềng hay không. Tuy nhiên kết quả cho thấy
không có bằng chứng nào cho thấy hộ dành
nhiều đất cho dong riềng hơn thì năng suất
cao hơn. Hay nói cách khác việc hộ chuyên
canh vào dong riềng cũng chưa chắc đạt được
năng suất cao hơn so với các hộ khác. Điều
này cũng cho thấy việc quản lý kĩ thuật canh
tác tại huyện Na Rì chưa thực sự chặt chẽ dẫn
đến việc năng suất dong riềng rất khác biệt
giữa các hộ.
Bảng 5. Năng suất trung bình của các nhóm hộ
trồng dong riềng
Nhóm hộ
Năng suất
trung bình
(tấn/ha)
Sai số
chuẩn
I. Nhóm <10% 57,91 3,68
II. Nhóm 10%-20% 53,19 3,78
III. Nhóm 20%-Nhóm 50% 52,98 5,57
IV. > 50% 55,69 7,67
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
3.3. Phân tích các nhân tố kinh tế ảnh
hưởng đến phát triển sản xuất dong riềng
trên địa bàn huyện Na Rì
3.3.1. Nhân tố nguồn lực hộ gia đình
Đánh giá về sự ảnh hưởng của các nguồn lực
kinh tế của hộ đến sự phát triển sản xuất dong
riềng nói chung ở cấp độ hộ gia đình nhằm
mục đích tìm ra được những nguyên nhân dẫn
đến việc cản trở hay khuyến khích hộ phát
triển sản xuất dong riềng. Số liệu chi tiết được
thể hiện trong bảng 6.
Bảng 6. Các yếu tố nguồn lực kinh tế của hộ
Nội
dung
Rất
khó
khăn
Khó
khăn
Bình
thường
Thuận
lợi
Rất
thuận
lợi
GTTB
(%)
Diện
tích đất
canh tác
0 25 23,52 21,48 30,00 3,46
Vốn sản
xuất tự có
0 2,78 42,89 17,97 36,36 3,53
Tiếp cận
vốn vay
0 13,89 15,66 25 45,45 3,72
Lao động 0 25 25,47 19,53 25,00 3,41
Máy móc
thiết bị
0 33,33 32,47 16,02 18,18 3,33
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
3.3.2. Nhân tố liên quan đến hoạt động thị trường
Các yếu tố liên quan đến hoạt động thị trường
bao gồm những hoạt động liên kết sản xuất và
liên kết tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn huyện
Na Rì. Kết quả phỏng vấn sâu các chuyên gia
cho thấy đánh giá của các cán bộ quản lý cấp
xã và các cán bộ chuyên môn của huyện về
mức độ tác động thực tế của những yếu tố này
đến hoạt động phát triển sản xuất dong riềng
tại Na Rì. Kết quả chỉ ra rằng có 4 yếu tố
nhận được sự đánh giá với mức điểm trung
bình nhỏ hơn 3 điểm. Điều đó có nghĩa những
yếu tố này có xu hướng gây ra khó khăn trong
việc phát triển sản xuất dong riềng trên địa
bàn huyện.
Yếu tố nhận được sự đánh giá thấp nhất hay
nói cách khác đây là một khó khăn và nó ảnh
hưởng đến hoạt động phát triển dong riềng
trên địa bàn chính là hoạt động liên kết tiêu
thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và các hộ
trồng dong riềng. Thực tế cho thấy hoạt động
liên kết đang là một khâu rất yếu trong sản
xuất nông nghiệp nói chung và hoạt động sản
xuất dong riềng nói riêng. Chính vì vậy để có
thể phát triển sản xuất dong riềng trên địa bàn
huyện Na Rì đạt được hiệu quả cao thì lãnh
đạo huyện cần trú trọng xây dựng các kênh
liên kết tiêu thụ sản phẩm chặt chẽ giữa
doanh nghiệp và hộ trồng dong. Ngoài ra liên
kết về tiêu thụ sản phẩm từ dong riềng như
tinh bột dong và miến dong cũng cần được
chú trọng vì nó chính là điều kiện đảm bảo để
nguồn cầu về sản phẩm củ dong được ổn
định. Kết quả điều tra cho thấy có đến 11 cán
bộ trên tổng số 26 cán bộ cho rằng hoạt động
này đang gây khó khăn đến hoạt động sản
xuất dong riềng của địa phương. Hơn thế nữa
có đến 7 người đưa ra đánh giá yếu tố này
đang rất gây khó khăn cho việc phát triển sản
xuất của các hộ trồng dong tại Na Rì. Chỉ có
duy nhất 1 cán bộ cho rằng hoạt động này
hiện đang tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động phát triển sản xuất của địa phương, và 7
người còn lại đưa ra ý kiến trung lập.
Tương tự như hoạt động liên kết tiêu thụ thì
hoạt động liên kết sản xuất cũng không được
đánh giá quá cao khi có đến 6 cán bộ cho rằng
yếu tố này đang gây cản trở đến hoạt động
phát triển sản xuất dong riềng tại địa phương
trong khi đó chỉ có 3 người cho rằng hoạt
động liên kết sản xuất của địa phương đang
tạo ra cơ hội phát triển sản xuất dong riềng tại
đây. Thực tế chỉ ra rằng hầu hết các cán bộ
quản lý được phỏng vấn đều đưa ra nhận xét
ở mức trung gian.
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 43
Bảng 7. Các yếu tố về thị trường và kế hoạch sản xuất
Nội dung
Rất
khó khăn
Khó
khăn
Bình
thường
Thuận lợi
Rất
thuận lợi GTTB
%
Thị trường tiêu thụ 11,54 19,23 46,15 23,08 0 2,81
Giá bán dong củ 26,92 30,77 42,31 0 0 2,15
Quy mô sản xuất của hộ 0 11,54 23,08 46,15 19,23 3,73
Hiệu quả kinh tế của dong riềng 0 7,69 19,23 50 23,08 3,88
Kế hoạch sản xuất của địa phương 0 0 57,69 19,23 23,08 3,65
Hoạt động liên kết sản xuất 0 23,08 65,38 11,54 0 2,88
Hoạt động liên kết tiêu thụ sản phẩm 26,92 42,31 26,92 3,85 0 2,08
(Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả từ số liệu điều tra)
Giá bán dong củ cũng là một yếu tố ảnh
hưởng rất nhiều đến hoạt động phát triển sản
xuất của hộ gia đình. Như phân tích tại bảng
7, giá bán biến động không ngừng qua các
năm dẫn đến hiệu quả kinh tế của hộ bị thay
đổi và ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của
hộ năm sau đó. Liên quan đến yếu tố này có
11 cán bộ quản lý không đưa ra nhận định
chính xác là giá bán dong củ hiện đang gây
khó khăn hay tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động sản xuất dong riềng tại Na Rì. Trong khi
đó 15 cán bộ còn lại đều nhận định giá bán
dong củ thời điểm hiện tại chính là yếu tố cản
trở phát triển sản xuất tại Na Rì. Điều này
hoàn toàn dễ hiểu khi giá dong riềng giảm
hơn 1000 đồng trên 1 kg so với năm 2016.
Yếu tố hiệu quả kinh tế của dong riềng và quy
mô sản xuất của hộ lại nhận được sự đánh giá
tương đối tốt khi cả hai yếu tố này nhận được
số điểm đánh giá trung bình là 3,88 và 3,73.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng hai
yếu tố này chưa thực sự tạo điều kiện thuận
lợi mà còn gây ra những khó khăn nhất định
cho hoạt động sản xuất tại địa phương.
Cuối cùng kế hoạch phát triển sản xuất của
địa phương nhận được sự đánh giá khá tích
cực đạt 3,65 điểm, khi không có cán bộ nào
cho rằng kế hoạch phát triển của địa phương
gây ra cản trở đối với phát triển sản xuất dong
riềng tại huyện Na Rì.
3.4. Đề xuất một số giải pháp phát triển sản
xuất dong riềng huyện Na Rì trong thời gian tới
* Quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định gắn
với tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm
Ổn định diện tích trồng dong riềng hằng năm
đúng theo nhu cầu của thị trường trong dài hạn.
Thực tế hiện nay ban lãnh đạo huyện Na Rì
hướng tới việc phát triển quy mô vùng nguyên
liệu khoảng 500 ha, tuy nhiên thực tế cho thấy
dù những năm qua diện tích trồng dong riềng
của huyện chưa đạt đến 500 ha nhưng giá cả
của dong riềng cũng đã biến động không kiểm
soát do sự mất cân bằng về cung cầu. Chính vì
vậy, việc duy trì một quy mô sản xuất vừa phải
để cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất
tại địa phương và một số các cơ sở sản xuất lớn
đảm bảo khác.
Bên cạnh đó việc quy hoạch vùng nguyên liệu
trọng điểm theo từng khu vực xã cũng rất
quan trọng, nó giúp cho việc quản lý chất
lượng sản phẩm của vùng nguyên liệu được
tốt hơn, ngoài ra việc canh tác cùng nhau trên
một diện tích sẽ giúp các hộ tiết kiệm được
nguồn lực thông qua việc tận dụng nguồn lực
giữa các hộ khi canh tác cùng nhau. Đề xuất
sẽ xây dựng quy hoạch xã Côn Minh là trung
tâm của vùng nguyên liệu và là trung tâm của
các cơ sở chế biến bột và miến dong; các xã
như Quang Phong, Lam Sơn, Hảo nghĩa,
Dương Sơn, Đổng Xá, Xuân Dương, Ân
Tình, Hữu Thác, Cư Lễ, Lạng San, Kim Lư,
Lương Hạ, Văn Minh là vùng nguyên liệu.
Tăng quy mô về diện tích sản xuất miến dong
của hộ thông qua chuyển đổi cơ cấu cây trồng
trên đất lúa không chủ động nước, kém hiệu
quả sang trồng cây dong riềng. Đây chính là
khởi điểm của việc phát triển chuyên môn hóa
trong việc trồng dong riềng trong tương lai.
Trong công tác trồng dong riềng các hộ dân
cần phải áp dụng kỹ thuật trồng dong riềng
mới để giúp tăng năng suất đặc biệt là kĩ thuật
lên luống cao ở dưới đất ruộng đang được
nghiên cứu thử nghiệm tại địa phương; tận
dụng nguồn phế phẩm có sẵn là bã dong riềng
làm phân bón hữu cơ cho sản xuất nhằm mục
đích tiết kiệm chi phí, giảm ô nhiễm môi
trường và tăng năng suất cho cây trồng.
* Phát triển hoạt động liên kết trong sản xuất,
chế biến và tiêu thụ các sản phẩm của dong riềng
Đẩy mạnh liên kết giữa 04 nhà: Nhà nông -
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 37 - 44
Email: jst@tnu.edu.vn 44
Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà doanh nghiệp
từ khâu trồng, chế biến đến tiêu thụ theo
chuỗi giá trị sản phẩm. Đây là yếu tố quyết
định ảnh hưởng đến việc phát triển quy mô
sản xuất của dong riềng trong tương lai. Việc
thiếu đi những mối liên kết này làm cho hiệu
quả sản xuất của hộ giảm, giá trị gia tăng của
toàn chuỗi giá trị cũng vì đó mà bị ảnh hưởng
và tác động lớn nhất của việc thiếu liên kết
này là đời sống của các hộ sản xuất dong
riềng không được đảm bảo.
* Phát triển mô hình hợp tác xã nhằm tăng
năng suất và năng lực cạnh tranh cho sản
phẩm của huyện
Để duy trì phát triển sản phẩm miến dong ổn
định, bền vững, UBND huyện cần chỉ đạo các
cơ quan liên quan, Hội dong riềng tham mưu
để thành lập Hợp tác xã dong riềng mục tiêu:
Tổ chức lại sản xuất, quản lý về chất lượng sản
phẩm miến dong, liên kết thúc đẩy thị trường
tiêu thụ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường. Ngoài ra việc phát triển mô hình hợp
tác xã này cũng là giải pháp để xử lý việc quy
mô sản xuất nhỏ lẻ của hộ gia đình. Hiệu quả
sản xuất theo quy mô là điều mà ai cũng biết
đến nhưng thực tế các hộ không đủ trình độ và
điều kiện để làm điều này. Chính vì vậy mô
hình hợp tác xã là giải pháp hợp lý mà có thể
áp dụng ngay trong thời gian trước mắt.
* Đầu tư khoa học cho sản xuất dong riềng
nhằm tăng năng suất và chất lượng của sản
phẩm dong riềng
Cây dong riềng đã gắn bó với người dân Bắc
Kạn từ những năm 1960 và được duy trì đến
nay. Tuy nhiên, có một thực trạng hoạt động
sản xuất vẫn chủ yếu dựa trên kinh nghiệm
nên hiệu quả không cao. Giống được sử dụng
lại qua nhiều năm dẫn đến thoái hóa, năng
suất thấp, tỉ lệ và chất lượng tinh bột giảm.
Đồng thời, tận dụng quỹ đất, ngành chức
năng đã tích cực trong việc đưa cây trồng
khác trồng xen canh với dong riềng. Việc này
đã thực hiện thành công tại xã Côn Minh (Na
Rì), kết hợp trồng cỏ Stylo vừa chống xói
mòn đất, vừa làm thức ăn cho gia súc, cho cá,
làm giàu chất đạm trong đất. Khi cỏ cao
khoảng 60-80 cm tiến hành cắt cỏ cho cá hay
gia súc ăn, nếu không sử dụng trong chăn
nuôi thì cắt cỏ rải đều gần gốc dong riềng, sau
thời gian cỏ phân huy tạo thành phân xanh
cung cấp dinh dưỡng cho cây dong riềng
Nhờ đó, năng suất cây dong riềng ở mô hình
trồng xen này đạt 650-700 tạ/ha. Hay trồng
xen dong riềng dưới những tán rừng trồng
trong 2-3 năm đầu, vừa tận dụng được đất
canh tác, thời gian chăm sóc cây trồng, tăng
hiệu suất kinh tế trên 1 đơn vị diện tích.
Tiếp tục nâng cao chất lượng năng suất của
cây dong riềng, trong những năm tới tỉnh Bắc
Kạn sẽ tiếp tục tập trung nghiên cứu, tuyển
chọn bổ sung các giống dong riềng mới phù
hợp cho năng suất cao, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, đầu tư kỹ thuật trong canh tác trồng,
chăm sóc hướng đến xây dựng vùng
nguyên liệu sạch.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu và áp dụng
các giống dong riềng khác DR1 để cải thiện
hiệu quả kinh tế của toàn chuỗi giá trị dong
riềng cũng cần phải được tiến hành.
4. Kết luận
Về cơ bản các yếu tố liên quan đến nguồn lực
hộ gia đình là tương đối thuận lợi cho phát
triển sản xuất dong riềng ở địa phương. Đối
với nhóm nhân tố liên quan đến thị trường
như giá bán, thị trường tiêu thụ hay các hoạt
động liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động phát triển sản xuất cho cây dong riềng.
Trong thời gian tới khi xây dựng kế hoạch
phát triển cho cây dong riềng chính quyền địa
phương cần quan tâm đến các nhân tố kinh tế
đã phân tích để việc canh tác cho các hộ dân
đạt kết quả cao nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. Department of Agriculture and Rural
Development of the province Bac Kan,
Technical guide arrowroot planting, 2011.
[2]. I. Fatmawati, and Y. Hariyati, “Supply Chain
Analysis of Galangal Coffee Agroindustry in
Sumenep,” The 2nd International Conference On
Economics And Business, 2018, pp. 317-320.
[3]. I. F. Pramasari, and Y. Hariyati, “Value Added
and Strategy Development of Galangal Coffe
Agroindustry,” International Journal of Education
and Research, vol. 6, no. 5, pp. 45-46, 2018.
[4]. Bac Kan Statistical Office, Statistical
Yearbook, 2017.
[5]. K. Q. Nguyen, and V. H. Truong, Processing
process of household vermicelli, Collection of
scientific research works, Vietnam Institute of
Agricultural Science, Agriculture Publishing
House, Hanoi, 1995.
[6]. K. Q. Nguyen, and V. H. Truong, Research
process of vermicelli processing technology in
Northern Vietnam, Agricultural Publishing
House, Hanoi, 1996.
[7]. People's Committee of Na Ri district,
Report on arrowroot planting, processing
and consumption results in 2017 and
developing a plan for galangal and tobacco
planting in 2018, 2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_nhan_to_kinh_te_anh_huong_den_phat_trien_san_xuat_dong_r.pdf