Dựa trên kết quả phân tích, nghiên cứu này chỉ ra bốn nhân tố có tác động lên độ trễ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, bao gồm: Chất lượng của công ty kiểm toán (BIG4); Tình hình tài chính của doanh nghiệp (ROA); Khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải thu (INVREC); và Tổng các khoản kế toán dồn tích (TA). Trong bốn nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, có hai nhân tố, là Tình hình tài chính của doanh nghiệp và Lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, có tác động lên độ trễ kiểm toán theo hướng trùng hợp với các nghiên cứu ở các nước khác. Theo đó, trong bối cảnh Việt Nam, tình hình tài chính doanh nghiệp càng khả quan thì độ trễ kiểm toán càng ngắn và khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải thu càng lớn thì độ trễ kiểm toán càng dài. Tuy nhiên, hai nhân tố còn lại là Chất lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn tích lại có tác động đến độ trễ kiểm toán không giống như quan sát được ở các nước khác. Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán lâu hơn các công ty kiểm toán khác. Tương tự, chứng cứ ở các nước khác cho thấy doanh nghiệp có giao dịch kế toán dồn tích càng cao thường có độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán càng dài.
17 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT Tập 8, Số 1S, 2018 3–19
3
CÁC NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỘ TRỄ KIỂM TOÁN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thanh Hồng Âna*, Hoàng Mai Phươnga
aKhoa Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
*Tác giả liên hệ: Email: annth@dlu.edu.vn
Lịch sử bài báo
Nhận ngày 24 tháng 10 năm 2017
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 11 năm 2017 | Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 11 năm 2017
Tóm tắt
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của các
công ty niêm yết tại Việt Nam. Dựa trên số liệu của 176 công ty niêm yết tại Việt Nam trong
giai đoạn 2013-2016, kết quả phân tích hồi quy với dữ liệu nhóm cho thấy độ trễ kiểm toán
của các công ty niêm yết tại Việt Nam được quyết định bởi bốn nhân tố: chất lượng công ty
kiểm toán, mức độ sinh lời của doanh nghiệp, lượng hàng trong kho và các khoản phải thu,
và lượng kế toán dồn tích của doanh nghiệp. Cụ thể, mức độ sinh lời của công ty có tác động
nghịch biến lên độ trễ của báo cáo tài chính kiểm toán. Khối lượng hàng hóa trong kho và
các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán
của doanh nghiệp. Trái với kết quả nghiên cứu ở các nước khác, tại Việt Nam, các doanh
nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán chất lượng cao thường có độ trễ báo cáo
dài hơn; và các công ty có tổng lượng kế toán dồn tích lớn lại có độ trễ kiểm toán thấp hơn
các công ty khác. Kiểm định tăng cường bằng mô hình hồi quy dữ liệu bảng với hiệu ứng
ngẫu nhiên cũng xác nhận lại kết quả này.
Từ khóa: Báo cáo tài chính kiểm toán; Doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam; Độ trễ kiểm
toán; Nhân tố quyết định; Tính kịp thời.
Mã số định danh bài báo:
Loại bài báo: Bài báo nghiên cứu gốc có bình duyệt
Bản quyền © 2018 (Các) Tác giả.
Cấp phép: Bài báo này được cấp phép theo CC BY-NC-ND 4.0
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
4
DETERMINANTS OF AUDIT REPORT LAG
OF VIETNAMESE LISTED FIRMS
Nguyen Thanh Hong Ana*, Hoang Mai Phuonga
aThe Faculty of Economics and Business Administration, Dalat University, Lamdong, Vietnam
*Corresponding author: Email: annth@dlu.edu.vn
Article history
Received: October 24th, 2017
Received in revised form: November 09th, 2017 | Accepted: November 15th, 2017
Abstract
The purpose of this research is to identify the determinants of audit report lag of the
Vietnamese listed firms. Using a dataset of 176 firms listed on the Hochiminh Stock Exchange
from 2013 to 2016, the ordinary least square pooled data model regression results show that
the audit report lag of the Vietnamese firms is determined by four factors: The quality of the
auditors, the profitability of the firms, the amount of inventory and account receivable, and
the total amount of accrual of the listed firms. In particular, the firms’ profitability negatively
affects the firms’ audit report lag, while the amount of inventory and account receivable
positively affects the firms’ audit report lag. Contrary to previous literature, the Vietnamese
listed firms which are audited by high-quality auditors usually have longer audit report lag,
while the firms with large amount of total accruals generally have shorter audit report lag.
A robust test is performed, where the regression equation is re-estimated using panel data
estimation techniques with random effect model, and the results confirm the above
conclusions.
Keywords: Audit report lag; Audited financial reports; Determinants; Timeliness;
Vietnamese listed companies.
Article identifier:
Article type: (peer-reviewed) Full-length research article
Copyright © 2018 The author(s).
Licensing: This article is licensed under a CC BY-NC-ND 4.0
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
5
1. GIỚI THIỆU
Để đảm bảo tính hữu dụng đối với các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý, báo cáo
tài chính cần phải đảm bảo được tính kịp thời (IASB, 2008; Quốc hội, 2015; Vuko &
Cular, 2014). Các báo cáo tài chính kiểm toán của một công ty sẽ không giúp ích gì cho
những người sử dụng nếu chúng được công bố quá chậm. Do tầm quan trọng của tính kịp
thời của báo cáo tài chính, những nhân tố nào tác động đến sự kịp thời của báo cáo tài
chính kiểm toán của các công ty niêm yết đã thu hút được sự chú ý và nghiên cứu của rất
nhiều học giả.
Dù đã được nghiên cứu ở nhiều nơi trên thế giới, chủ đề về sự kịp thời của báo
cáo tài chính kiểm toán của các công ty niêm yết vẫn chưa được nghiên cứu tại Việt Nam,
theo khảo cứu của tác giả cho đến thời điểm thực hiện nghiên cứu này. Do vậy, tiếp nối
các nghiên cứu đi trước ở các nước, mục tiêu của nghiên cứu này là xác định các nhân tố
tác động đến độ trễ của việc công bố báo cáo tài chính kiểm toán của các công ty niêm
yết tại Việt Nam. Với bối cảnh nghiên cứu là các doanh nghiệp niêm yết tại một nền kinh
tế mới nổi và đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, nghiên cứu này được kỳ vọng
sẽ bổ sung những phát hiện khác biệt vào kho tàng nghiên cứu về tính kịp thời của báo
cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên khắp thế giới. Đồng thời, kết quả nghiên
cứu cũng đưa ra một số hàm ý quan trọng về những nhân tố tác động đến hành vi báo cáo
tài chính của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, có thể được dùng làm thông tin đầu
vào cho quá trình soạn thảo chính sách của các cơ quan quản lý thị trường cũng như quá
trình ra quyết định của nhà đầu tư.
Dựa trên số liệu của 176 công ty niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2013-
2016, nhóm tác giả phát hiện ra rằng độ trễ kiểm toán của các công ty niêm yết được
quyết định bởi bốn nhân tố, bao gồm: Chất lượng công ty kiểm toán, tình hình tài chính
của doanh nghiệp, lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, và lượng kế toán dồn tích
của doanh nghiệp. Cụ thể, kết quả phân tích của nghiên cứu này chỉ ra rằng mức độ sinh
lời của công ty (ROA) có tác động nghịch biến lên độ trễ của báo cáo tài chính kiểm toán,
trong khi khối lượng hàng hóa trong kho và các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp
có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp. Trái với kết quả nghiên cứu
ở các nước khác, các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam được kiểm toán bởi các công
ty kiểm toán chất lượng (nằm trong nhóm Big 4) lại thường có độ trễ báo cáo dài hơn các
doanh nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán ít chất lượng hơn. Tương tự,
trong khi các nghiên cứu ở các nước khác cho thấy tổng các khoản kế toán dồn tích thường
có tác động đồng biến lên độ trễ kiểm toán, chứng cứ từ các doanh nghiệp niêm yết tại
Việt Nam cho thấy các công ty có tổng lượng kế toán dồn tích lớn thì lại có độ trễ công
bố báo cáo kiểm toán thấp hơn các công ty khác.
Phần nội dung của nghiên cứu sẽ được trình bày theo cấu trúc như sau. Phần tổng
quan các nghiên cứu đi trước và các giả thuyết sẽ được trình bày ở Mục 2. Mục 3 sẽ trình
bày phương pháp nghiên cứu. Mục 4 mô tả về phương pháp thu thập và thông tin mô tả
về tập dữ liệu và trình bày kết quả phân tích dữ liệu và thảo luận. Mục 5 sẽ tổng hợp kết
quả và kết luận về toàn bộ nghiên cứu này.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
6
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT
2.1. Khuôn khổ pháp lý và khái niệm
Cũng như tại các nước khác, việc công bố báo cáo kiểm toán của các công ty đại
chúng tại Việt Nam là bắt buộc và được quy định trong nhiều văn bản luật pháp khác
nhau, như Luật Chứng khoán sửa đổi năm 2010 và Luật Doanh nghiệp 2014. Cụ thể,
trong Thông tư 155-2015-TTBTC, Bộ Tài chính có hướng dẫn rằng các công ty đại chúng
bắt buộc phải công bố báo cáo tài chính kiểm toán hằng năm trong thời hạn không quá 90
ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính (Bộ Tài chính, 2015).
Để thực hiện yêu cầu công bố thông tin này, các công ty niêm yết thường thuê
một công ty kiểm toán độc lập để kiểm toán báo cáo tài chính trước khi nộp. Quá trình từ
khi kết thúc năm tài chính đến khi công ty nộp báo cáo tài chính đã kiểm toán thường kéo
dài một thời gian và được giới học thuật gọi là độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán. Như
vậy, độ trễ báo cáo kiểm toán được phân chia ra thành hai khoảng thời gian thành phần:
(1) Khoảng thời gian các công ty kiểm toán hoàn tất báo cáo kiểm toán (mà sau đây được
gọi là độ trễ kiểm toán); và (2) Khoảng thời gian sau khi công ty nhận được báo cáo tài
chính kiểm toán đến khi họ quyết định công bố.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi định nghĩa độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán
bằng khoảng thời gian sau khi kết thúc năm tài chính đến ngày công ty kiểm toán chính
thức hoàn thành việc kiểm toán, tức là tương đương với độ trễ kiểm toán. Cách định nghĩa
của chúng tôi cũng thống nhất với đa số các nghiên cứu khác thực hiện về chủ đề này.
2.2. Lược sử nghiên cứu và phát triển giả thuyết
Các nghiên cứu về các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm
yết đã được thực hiện từ lâu ở các nền kinh tế phát triển, như Mỹ (Ashton, Willingham &
Elliott, 1987; Bamber, Bamber, & Schoderbek, 1993; Garsombke, 1981), Canada
(Ashton, Graul, & Newton, 1989), Australia (Davies & Whittred, 1980; Dyer & McHugh,
1975), New Zealand (Carslaw & Kaplan, 1991; Courtis, 1976; Gilling, 1977), Hong Kong
(Jaggi & Tsui, 1999; Ng & Tai, 1994). Gần đây, một loạt các nghiên cứu khác cũng được
thực hiện ở các nền kinh tế đang phát triển, ví dụ như Bahrain (Abdulla, 1996), Zimbabwe
(Owusu-Ansah, 2000), Malaysia (Che-Ahmad & Abidin, 2009), Hy Lạp (Owusu-Ansah
& Leventis, 2006), Thổ Nhĩ Kỳ (Türel, 2010), và Croatia (Vuko & Cular, 2014). Dựa trên
các nghiên cứu trước ở các nước khác, chúng tôi tóm lược các kết quả chính và đưa ra
các giả thuyết nghiên cứu như sau cho các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam như sau.
2.2.1. Quy mô công ty được kiểm toán
Quy mô của công ty được kiểm toán, thường được đo bằng tổng tài sản, là nhân
tố được xem xét trong hầu hết các nghiên cứu trước đây về độ trễ kiểm toán (Abdulla,
1996; Ashton & ctg., 1989; Carslaw & Kaplan, 1991; Courtis, 1976; Davies & Whittred,
1980; Gilling, 1977; Vuko & Cular, 2014). Các nghiên cứu trước đều chỉ ra rằng có mối
quan hệ nghịch biến giữa quy mô công ty được kiểm toán và độ trễ kiểm toán. Lý do cho
việc này có thể là do các công ty lớn thường chịu áp lực phải công bố thông tin nhanh
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
7
chóng và họ cũng có khả năng gây áp lực lên các công ty kiểm toán, buộc các công ty
kiểm toán phải hoàn thành công việc của mình càng nhanh càng tốt (Bamber & ctg., 1993;
Carslaw & Kaplan, 1991). Dựa trên lý thuyết và các kết quả nghiên cứu thực chứng từ
các quốc gia khác, tác giả kỳ vọng mối quan hệ này cũng tồn tại trong bối cảnh Việt Nam.
Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H1: Tại Việt Nam, công ty niêm yết có quy mô lớn hơn thường có độ trễ
kiểm toán ngắn hơn, các yếu tố khác như nhau.
2.2.2. Chất lượng của công ty kiểm toán
Theo lý luận thông thường, các công ty kiểm toán quy mô hoạt động lớn thường
được coi là có nhiều nguồn lực chất lượng và có công nghệ kiểm toán cao hơn các công
ty kiểm toán nhỏ. Do vậy, một số các nghiên cứu trong lĩnh vực này thường dùng quy mô
của công ty kiểm toán để làm đại diện cho chất lượng của dịch vụ kiểm toán mà công ty
kiểm toán đó thực hiện. Trong giới kiểm toán, người ta thường coi 4 công ty kiểm toán
lớn nhất (Big 4) là các công ty có chất lượng dịch vụ cao hơn các công ty kiểm toán còn
lại. Theo đó, các công ty kiểm toán trong nhóm Big 4 được kỳ vọng là sẽ thực hiện công
tác kiểm toán nhanh hơn (Vuko & Cular, 2014). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu về nhân
tố này là chưa thống nhất. Trong khi Gilling (1977) phát hiện ra mối quan hệ đồng biến
giữa độ trễ kiểm toán và quy mô của công ty kiểm toán. Garsombke (1981); Carslaw và
Kaplan (1991); Davies và Whittred (1980); và Vuko và Cular (2014) lại không phát hiện
ra mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hai biến này. Ngược lại, một số nhà nghiên
cứu lại phát hiện có mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô công ty kiểm toán và độ trễ
kiểm toán (Ashton, Willingham, & Elliott, 1987; Owusu-Ansah & Leventis, 2006). Trong
bối cảnh các công ty niêm yết tại Việt Nam, tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H2: Tại Việt Nam, công ty kiểm toán có chất lượng cao hơn thường thực hiện
công việc kiểm toán nhanh hơn, tức là có mối quan hệ nghịch biến giữa chất
lượng công ty kiểm toán và độ trễ kiểm toán, các yếu tố khác như nhau.
2.2.3. Chất lượng giám sát nội bộ của công ty được kiểm toán
Nhiệm vụ của ban kiểm soát là giám sát quy trình báo cáo tài chính, hệ thống kiểm
soát nội bộ, quy trình kiểm soát rủi ro, và quy trình kiểm toán nội bộ cũng như kiểm toán
độc lập (Vuko & Cular, 2014). Các nhà nghiên cứu lập luận rằng các công ty có ban kiểm
soát nội bộ thường có hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ được tổ chức quy củ và hoạt
động mạnh hơn, theo đó làm giảm khả năng công ty mắc sai sót trong quá trình báo cáo
tài chính và có thể phối hợp tốt hơn với công ty kiểm toán độc lập. Điều này giúp giảm
lượng công việc và mức độ khó khăn khi thực hiện công việc của công ty kiểm toán độc
lập, từ đó giúp giảm độ trễ kiểm toán (Carslaw & Kaplan, 1991). Dựa trên lập luận trên
và các kết quả nghiên cứu tại các nước khác, tác giả kỳ vọng mối quan hệ này cũng tồn
tại trong bối cảnh Việt Nam. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H3: Tại Việt Nam, các công ty niêm yết có ủy ban kiểm soát nội bộ thường
có độ trễ kiểm toán ngắn hơn các công ty không có ủy ban kiểm soát nội bộ,
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
8
các yếu tố khác như nhau.
2.2.4. Tình hình tài chính của công ty niêm yết
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng có mối quan hệ nghịch biến giữa độ trễ
kiểm toán và tình hình tài chính của công ty (Ashton & ctg., 1987; Bamber & ctg., 1993;
Carslaw & Kaplan, 1991; Vuko & Cular, 2014). Bamber và ctg. (1993) cho rằng các công
ty có tình hình tài chính tiêu cực thường có rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính cao hơn.
Với các công ty này, công ty kiểm toán thường phải thực hiện công việc của mình kỹ
càng hơn, do đó kéo dài thời gian hoàn thành báo cáo kiểm toán. Ngược lại, những công
ty có tình hình tài chính tích cực thường coi đây là “tin tốt” và có động cơ hợp tác và thúc
đẩy việc hoàn thành báo cáo kiểm toán càng sớm càng tốt (Ashton & ctg., 1989; Carslaw
& Kaplan, 1991). Dựa trên lý thuyết và chứng cứ từ các nghiên cứu từ các nước khác, tác
giả kỳ vọng mối quan hệ giữa tình hình tài chính với độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán
của doanh nghiệp cũng tồn tại trong bối cảnh Việt Nam. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết
như sau:
H4: Tại Việt Nam, các công ty niêm yết có tình hình tài chính tích cực thường
công bố báo cáo tài chính nhanh hơn các công ty có tình hình tài chính tiêu
cực, các yếu tố khác như nhau.
2.2.5. Dạng ý kiến kiểm toán được ban hành
Nhiều nhà nghiên cứu (Ashton & ctg., 1987; Carslaw & Kaplan, 1991; Davies &
Whittred, 1980; Vuko & Cular, 2014) cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa loại ý kiến
kiểm toán (ý kiến thông qua hay ý kiến ngoại trừ) và độ trễ kiểm toán và phát hiện ra mối
quan hệ nghịch biến giữa hai yếu tố này. Ý kiến kiểm toán ngoại trừ được coi là thông
tin tiêu cực về tình hình tài chính và triển vọng của công ty. Do vậy, theo quy tắc hành
nghề thì các công ty kiểm toán phải dành nhiều thời gian hơn để thu thập và kiểm tra
chứng cứ trước khi đưa ra quyết định cuối cùng của mình (Che-Ahmad & Abidin, 2009;
Davies & Whittred, 1980). Một lý do khác mà Davies và Whittred (1980) nêu lên để lý
giải cho mối quan hệ này là ban giám đốc của công ty coi ý kiến kiểm toán ngoại trừ là
một tin xấu, có thể tác động đến lợi ích tài chính và chức vụ của mình trong công ty, nên
sẽ cố gắng tìm cách đàm phán, thậm chí trì hoãn hợp tác với công ty kiểm toán. Điều này
sẽ khiến thời gian kiểm toán kéo dài hơn. Dựa trên lý thuyết và các chứng cứ thực chứng
từ các nghiên cứu ở các nước khác, tác giả kỳ vọng mối quan hệ giữa dạng ý kiến kiểm
toán và độ trễ báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết cũng tồn tại trong bối cảnh
Việt Nam. Do vậy, tác giả đưa ra giả thuyết rằng:
H5: Tại Việt Nam, các công ty niêm yết nhận được ý kiến kiểm toán ngoại
trừ thường có độ trễ kiểm toán dài hơn, các yếu tố khác như nhau.
2.2.6. Độ phức tạp và rủi ro trong hoạt động của công ty được kiểm toán
Mức độ phức tạp trong hoạt động của công ty được kiểm toán có thể tác động đến
độ trễ kiểm toán của công ty đó. Ng và Tai (1994) dùng biến số lượng công ty con để làm
đại diện cho mức độ phức tạp trong tổ chức và mức độ đa dạng hóa trong hoạt động kinh
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
9
doanh của công ty và kết luận rằng mức độ phức tạp trong hoạt động của công ty càng
cao thì độ trễ kiểm toán càng lâu. Ngoài ra, một số nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng các
công ty phi tài chính thường có độ trễ kiểm toán lâu hơn các công ty tài chính (Ashton &
ctg., 1987; Bamber & ctg., 1993). Lý do được đưa ra là các công ty trong lĩnh vực tài
chính không có hoặc có rất ít hàng hóa tồn kho và các khoản phải thu. Hàng hóa tồn kho
và các khoản phải thu là các hạng mục tốn rất nhiều thời gian để thực hiện kiểm toán. Do
vậy, doanh nghiệp có ít hàng tồn kho và các khoản phải thu thường được kiểm toán nhanh
hơn (Carslaw & Kaplan, 1991; Vuko & Cular, 2014). Ngoài ra, nghiên cứu của Vuko và
Cular (2014) cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp có càng nhiều các giao dịch dạng kế toán
dồn tích thường có độ trễ kiểm toán dài hơn, do các giao dịch loại này tiềm ẩn nhiều rủi
ro và thường cần nhiều thời gian hơn để được kiểm toán. Ngoài ra, các công ty có tỉ lệ
đòn bẩy cao cũng được coi là có mức độ rủi ro tài chính cao và cần phải được kiểm toán
kỹ càng hơn (Abdulla, 1996; Vuko & Cular, 2014). Dựa trên lý thuyết và các chứng cứ
thực chứng của nghiên cứu từ các nước khác, tác giả đưa ra các giả thuyết sau:
H6: Tại Việt Nam, các doanh nghiệp có càng nhiều công ty con thì có độ trễ
kiểm toán càng dài, các yếu tố khác như nhau.
H7: Tại Việt Nam, các doanh nghiệp có hàng tồn kho và các khoản phải thu
ngắn hạn càng lớn thì có độ trễ kiểm toán càng dài, các yếu tố khác như nhau.
H8: Tại Việt Nam, các doanh nghiệp có tổng các khoản kế toán dồn tích càng
lớn thì có độ trễ kiểm toán càng dài, các yếu tố khác như nhau.
H9: Tại Việt Nam, các doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính càng cao thì có độ
trễ kiểm toán càng dài, các yếu tố khác như nhau.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Định nghĩa biến
Để thống nhất với các nghiên cứu trước (Bamber & ctg., 1993; Vuko & Cular,
2014), nghiên cứu này định nghĩa độ trễ kiểm toán (hay độ trễ báo cáo tài chính kiểm
toán) là khoảng thời gian tính từ sau ngày kết thúc năm tài chính của doanh nghiệp đến
ngày công ty kiểm toán chính thức ấn hành báo cáo kiểm toán (tính theo ngày ghi trên
báo cáo kiểm toán). Tuy nhiên, trước khi đưa vào phân tích hồi quy, biến độ trễ kiểm toán
sẽ được chuyển thành dạng logarithm. Việc chuyển đổi dữ liệu thành dạng logarithm
trong trường hợp này là để giúp hạn chế bớt tác động của các quan sát cá biệt và giúp mô
hình dễ đạt được các tính chất tiệm cận mong muốn trong phương pháp hồi quy
(Wooldridge, 2002). Bảng 1 trình bày thông tin về định nghĩa, cách mã hóa và cách tính
toán của các biến được sử dụng trong nghiên cứu này.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
10
Bảng 1. Mô tả biến
Tên biến Mã hóa Mô tả/cách tính toán
Độ trễ kiểm toán ARL Số ngày từ khi kết thúc năm tài chính đến khi hoàn
thành báo cáo kiểm toán
Độ trễ kiểm toán LNARL Logarithm của độ trễ kiểm toán
Quy mô công ty được kiểm toán LNSIZE Logarithm của tổng tài sản công ty được kiểm toán
Chất lượng công ty kiểm toán BIG4 1: công ty kiểm toán nằm trong nhóm Big 4 (PwC,
E&Y, Delloite, KPMG)
0: các công ty kiểm toán còn lại
Chất lượng giám sát nội bộ AC 1: công ty có ban kiểm soát
0: công ty không có ban kiểm soát
Tình hình tài chính ROA Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
Dạng ý kiến kiểm toán AUDITOPI 1: ý kiến ngoại trừ
0: ý kiến chấp thuận
Số lượng công ty con SUBS Số lượng công ty con trong báo cáo tài chính hợp
nhất
Mức độ phức tạp của công tác
kiểm toán
INVREC (Hàng tồn kho + khoản phải thu ngắn hạn)/Tổng
tài sản
Trị tuyệt đối của tổng kế toán
dồn tích
TA |(lợi nhuận ròng sau thuế - Dòng tiền thuần từ hoạt
động kinh doanh)|/Tổng tài sản
Tỉ lệ đòn bẩy LEV Tổng nợ/ Tổng tài sản
3.2. Mô hình nghiên cứu
Để đưa ra kết luận một cách chặt chẽ về các giả thuyết nghiên cứu, một mô hình
hồi quy đa biến được xây dựng. Kế thừa các nghiên cứu trước đây, tác giả xây dựng mô
hình với cấu trúc như sau:
itit10it9it8it7
it6it5it4it3it21it
LEVTAINVRECSUBS
AUDITOPIROAAC4BIGLNSIZELNARL
(1)
Dựa trên mô hình (1), các giả thuyết nghiên cứu sẽ được kiểm định. Để cung cấp
cái nhìn nhiều chiều hơn, mô hình (1) sẽ được ước lượng theo hai cách. Thứ nhất, mô
hình (1) sẽ được ước lượng theo từng năm. Sau đó, mô hình (1) lại được ước lượng với
dữ liệu nhóm cho toàn bộ giai đoạn 2013-2016. Trong điều kiện không có sự tự tương
quan giữa các quan sát của biến phụ thuộc qua các năm, việc dùng mô hình hồi quy tuyến
tính OLS với dữ liệu nhóm sẽ cho ta kết quả ước lượng nhất quán (Wooldridge, 2002).
Trong trường hợp này, ta không có lý do nào để cho rằng độ trễ kiểm toán của năm hiện
tại phụ thuộc vào độ trễ kiểm toán của các năm trước đó nên việc sử dụng mô hình hồi
quy OLS với dữ liệu nhóm là hợp lý.
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
11
Tuy nhiên, khác với các nghiên cứu trước, tác giả đã thực hiện kiểm định tăng
cường với phương pháp hồi quy với dữ liệu bảng trong nghiên cứu này. Mô hình kiểm
định tăng cường có cấu trúc như sau:
itiit10it9it8it7
it6it5it4it3it21it
uLEVTAINVRECSUBS
AUDITOPIROAAC4BIGLNSIZELNARL
(2)
Việc sử dụng mô hình với dữ liệu bảng cũng là một điểm mới của nghiên cứu này,
vì các nghiên cứu trước đó, ví dụ như nghiên cứu của Vuko và Cular (2014), chỉ dừng lại
ở việc dùng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến với dữ liệu nhóm. Việc sử dụng mô hình
với dữ liệu nhóm trong trường hợp này bộc lộ một số nhược điểm, mà quan trọng nhất là
cách làm này không tận dụng được dữ liệu cấp độ doanh nghiệp, khiến ước lượng có thể
kém chính xác, ngay cả khi ta vẫn có thể ước lượng các hệ số hồi quy một cách nhất quán
(Wooldridge, 2002).
Mô hình (2) sẽ được ước lượng bằng các kỹ thuật hồi quy với dữ liệu bảng. Các
phép kiểm định Hausman (Hausman, 1978) và kiểm định kiểm định LM (Breusch &
Pagan, 1980) sẽ được thực hiện để chọn dạng mô hình phù hợp. Một số điều chỉnh cần
thiết cũng sẽ được thực hiện để khắc phục hiện tượng phương sai không đồng nhất và
tương quan nhóm (clustering). Các kết quả kiểm định giả thuyết dựa trên mô hình (1) sẽ
được kiểm định lại bằng mô hình (2) và từ đó các kết luận cuối cùng sẽ được đưa ra.
4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN
4.1. Dữ liệu
Dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu này được thu thập thủ công từ các báo cáo tài
chính hợp nhất đã kiểm toán hằng năm của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2016. Trước
tiên, các doanh nghiệp tài chính (như các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty bảo
hiểm, ngân hang thương mại) được loại bỏ ra khỏi quy trình khảo sát do loại hình doanh
nghiệp này có những đặc trưng về kinh doanh và các quy định kiểm soát tương đối khác
biệt so với các doanh nghiệp còn lại. Cách lấy mẫu này cũng được thực hiện trong nhiều
nghiên cứu tương tự ở các nước khác, như nghiên cứu của Vuko và Cular (2014). Sau khi
loại bỏ các quan sát thiếu dữ liệu trong giai đoạn nghiên cứu, các doanh nghiệp bị hủy
niêm yết, các doanh nghiệp không thu thập được đầy đủ số liệu, tập dữ liệu cuối cùng
được dùng để tiến hành các phân tích định lượng bao gồm 704 quan sát-năm, đến từ 176
doanh nghiệp. Thông số thống kê tóm tắt của các biến trong tập dữ liệu được trình bày
trong Bảng 2.
Theo Bảng 2, độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam là
khoảng 78 ngày, thấp hơn khá nhiều so với mức quy định tối đa 90 ngày của Bộ Tài chính.
Độ trễ kiểm toán trung bình của các doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam là tương đương
với các doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ (78.5 ngày), thấp hơn so với các doanh nghiệp niêm
yết tại Croatia (106 ngày), Hong Kong (105 ngày), nhưng cao hơn các doanh nghiệp tại
Bharain và Zimbabwe (cùng khoảng 60 ngày). Phân tích bổ sung cho thấy độ trễ kiểm
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
12
toán trung bình này tương đối ổn định qua các năm: 78 ngày trong năm 2013, 75 ngày
trong năm 2014, 79 ngày trong năm 2015, và 79 ngày trong năm 2016. Ngoài ra, phân
tích cũng cho thấy trong suốt giai đoạn nghiên cứu, có tổng cộng 43 trường hợp (tương
ứng với 6.1% số quan sát) doanh nghiệp niêm yết công bố báo cáo tài chính kiểm toán trễ
hơn quy định, với 7 trường hợp trong năm 2013, 5 trường hợp trong năm 2014, 16 trường
hợp trong năm 2015, và 15 trường hợp trong năm 2016. Trong số 700 báo cáo tài chính
được kiểm toán trong nghiên cứu, có 45 báo cáo kiểm toán có ý kiến kiểm toán ngoại trừ,
chiếm 6.4%. Kết quả thống kê cũng cho thấy có khoảng 73% số công ty được khảo sát có
ban kiểm soát nội bộ.
Bảng 2. Thông số thống kê
Tên biến Mã hóa
Trung
bình
Độ lệch chuẩn Min Max
Độ trễ kiểm toán
Độ trễ kiểm toán ARL 77.85 21.80 9 286
Logarithm của độ trễ kiểm toán LNARL 4.31 0.32 2.20 5.66
Quy mô công ty được kiểm toán
Logarithm của tổng tài sản LNSIZE 20.96 1.35 17.24 25.92
Quy mô của công ty kiểm toán
Nhóm Big 4 BIG4 0.318 0.47 0 1
Chất lượng giám sát nội bộ
Ban kiểm soát AC 0.73 0.44 0 1
Tình hình tài chính
Tỉ lệ sinh lời trên tổng tài sản ROA 6.73 12.82 -201.22 97.87
Dạng ý kiến kiểm toán
Ý kiến kiểm toán AUDITOPI 0.06 0.25 0 1
Mức độ phức tạp của công tác kiểm toán
Số lượng công ty con SUBS 3.59 7.38 0 75
Khối lượng kiểm toán INVREC 44.39 23.92 0.2 96.69
Trị tuyệt đối của tổng kế toán dồn tích TA 0.08 0.10 0.001 1.21
Tỉ lệ đòn bẩy LEV 45.81 21.67 0.2 96.69
Ghi chú: Thông số thống kê trình bày trong bảng này được tính toán dựa trên 704 quan sát của 176 công
ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 2013 đến 2016.
Bảng 3 trình bày ma trận hệ số tương quan giữa các biến sử dụng trong nghiên
cứu. Qua Bảng 3, ta thấy biến Độ trễ kiểm toán có mối tương quan với mức ý nghĩa thống
kê 5% với các biến LNSIZE, BIG4, AC, ROA, AUDITOPI, SUBS, và INVREC. Đây là
chứng cứ sơ khởi cho thấy có mối quan hệ tuyến tính giữa Độ trễ kiểm toán và các biến
nêu trên. Tuy nhiên, mối quan hệ này cần phải được xác quyết lại bằng phân tích hồi quy
đa biến.
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
13
4.2. Kiểm định giả thuyết với
mô hình OLS dữ liệu nhóm
Dựa trên kết quả hồi quy với
dữ liệu của toàn bộ giai đoạn 2013-
2016 (Cột 5) trình bày trong Bảng 4,
ta thấy hệ số hồi quy của các biến
LNSIZE, LEV, và TA đều không có
ý nghĩa thống kê tại cả ba mức ý
nghĩa 10%, 5%, và 1%. Điều này
cho thấy Quy mô, Tỉ lệ đòn bẩy, và
Tổng các khoản kế toán dồn tích
không tác động đến độ trễ kiểm toán
của các doanh nghiệp niêm yết tại
Việt Nam. Kết quả hồi quy theo từng
năm, trình bày trong Cột 1 đến Cột 4
trong Bảng 5 cũng ủng hộ kết luận
này, với hệ số hồi quy của biến
LNSIZE và LEV không có ý nghĩa
thống kê trong tất cả các năm trong
giai đoạn nghiên cứu. Riêng với biến
TA, kết quả hồi quy trong năm 2014
cho thấy có mối quan hệ giữa Tổng
các khoản kế toán dồn tích và Độ trễ
kiểm toán. Tuy nhiên, mối quan hệ
này chỉ xuất hiện trong một năm
trong giai đoạn nghiên cứu và kết
quả hồi quy với toàn bộ dữ liệu lại
không cho thấy có mối quan hệ này
cho toàn bộ giai đoạn nghiên cứu
nên ta cần thực hiện thêm các kiểm
định tăng cường trước khi đưa ra kết
luận.
Dựa trên kết quả hồi quy với
dữ liệu của toàn bộ giai đoạn 2013-
2016, ta thấy hệ số hồi quy của các
biến BIG4, ROA, AUDITOPI,
SUBS, và INVREC đều có ý nghĩa
thống kê ở mức 5% trở lên. Điều này
cho thấy Chất lượng công ty kiểm
toán, Tình hình tài chính của công
ty, Dạng ý kiến kiểm toán, Số lượng công ty con, và Khối lượng hàng tồn kho và các
khoản phải thu có tác động lên độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt
Nam. Riêng biến AC, tức là sự hiện diện của Ban kiểm soát nội bộ, chỉ có ý nghĩa ở mức
10%, nghĩa là có chứng cứ cho thấy Ban kiểm soát nội bộ có tác động lên độ trễ kiểm
B
ả
n
g
3
. H
ệ số
tư
ơ
n
g
q
u
a
n
g
iữ
a
cá
c b
iến
tro
n
g
m
ô
h
ìn
h
1
2
3
4
5
6
7
8
9
1
0
1
1
2
0
.0
9
8
4
*
1
3
0
.1
0
8
3
*
0
. 4
5
7
4
*
1
4
0
.0
9
6
1
*
-0
.0
5
8
0
-0
.0
6
2
6
1
5
-0
.2
5
4
3
*
-0
.0
1
2
5
0
.0
3
1
3
0
.0
3
2
5
1
6
0
.1
1
2
4
*
-0
.0
9
2
5
*
-0
.1
0
3
5
*
0
.0
4
1
3
-0
.1
1
9
4
*
1
7
0
.1
2
2
7
*
0
.6
2
2
6
*
0
.2
6
2
8
*
-0
.0
1
2
5
-0
.0
3
7
8
-0
.0
1
6
2
1
8
0
.1
5
9
5
*
-0
.0
5
6
0
-0
.0
3
9
6
0
.1
7
4
2
*
-0
.2
2
0
3
*
0
.0
6
2
8
-0
.0
8
2
3
*
1
9
-0
.0
4
2
9
-0
.1
5
1
1
*
-0
.0
5
1
6
-0
.0
2
4
8
-0
.0
2
2
3
0
.1
2
9
5
*
-0
.1
0
2
2
*
0
.0
8
4
5
*
1
1
0
0
.0
9
9
9
*
0
.3
3
5
0
*
-0
.0
2
6
0
0
.0
5
4
1
-0
.2
6
8
0
*
0
.0
6
7
8
0
.1
7
8
8
*
0
.3
5
5
0
*
-0
.1
0
1
7
*
1
G
h
i ch
ú
: H
ệ số
tư
ơ
n
g
q
u
an
trìn
h
b
ày
tro
n
g
b
ản
g
n
ày
đ
ư
ợ
c tín
h
to
án
d
ự
a trên
7
0
4
q
u
an
sát củ
a 1
7
6
cô
n
g
ty
n
iêm
y
ết trên
S
ở
g
iao
d
ịch
ch
ứ
n
g
k
h
o
án
T
P
. H
ồ
C
h
í M
in
h
tro
n
g
g
iai đ
o
ạn
từ
2
0
1
3
đ
ến
2
0
1
6
. D
ấu
(*
) th
ể h
iện
m
ố
i tư
ơ
n
g
q
u
an
có
ý
n
g
h
ĩa th
ố
n
g
k
ê ở
m
ứ
c 5
%
. C
ác
b
iến
k
ý
h
iệu
n
h
ư
sau
: 1
) L
N
A
R
L
; 2
) L
N
S
IZ
E
; 3
) B
IG
4
; 4
) A
C
; 5
) R
O
A
; 6
) A
U
D
I-T
O
P
I; 7
) S
U
B
S
; 8
) IN
V
R
E
C
; 9
) T
A
; v
à 1
0
) L
E
V
.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
14
toán của công ty niêm yết tại Việt Nam, nhưng sức mạnh của kết luận này là không cao.
Khi hồi quy theo từng năm, kết quả cho thấy hệ số hồi quy của ROA là khá nhất quán qua
thời gian khi đạt mức ý nghĩa thống kê từ 5% trở lên xuyên suốt 3 trong 4 năm nghiên
cứu. Còn hệ số hồi quy của các biến còn lại chỉ có ý nghĩa thống kê trong khoảng từ 1
đến 2 năm trong cả giai đoạn nghiên cứu. Điều này cho thấy các kiểm định tăng cường là
cần thiết trước khi đưa ra kết luận cuối cùng.
Xét về chiều hướng mối quan hệ, một số các yếu tố nêu trên có chiều hướng tác
động không giống như dự báo trong lý thuyết. Theo kỳ vọng, hệ số hồi quy của biến BIG4
và AC là âm, tức là chất lượng công ty kiểm toán càng cao và sự hiện diện của ban kiểm
soát nội bộ sẽ giúp giảm được độ trễ kiểm toán. Tuy nhiên, chứng cứ thực tế lại cho thấy
rằng chất lượng công ty kiểm toán càng cao và sự hiện diện của ban kiểm soát nội bộ làm
cho độ trễ kiểm toán gia tăng. Với các biến còn lại, chiều hướng tác động lên độ trễ kiểm
toán là giống như kỳ vọng. Cụ thể, các công ty có tình hình tài chính tốt hơn thường có
độ trễ kiểm toán ngắn hơn; Các công ty có ý kiến kiểm toán là ngoại trừ thường có độ trễ
kiểm toán lâu hơn; Các công ty có nhiều công ty con hơn thường có độ trể kiểm toán lâu
hơn; và Các công ty có tổng hàng hóa trong kho và các khoản phải thu nhiều hơn thường
có độ trễ kế toán dài hơn. Do chiều hướng của mối quan hệ không hoàn toàn thống nhất
với kỳ vọng, ta cần phải xem xét thêm các phép kiểm định tăng cường trước khi đi đến
kết luận cuối cùng. Như vậy, kết quả hồi quy mô hình (1) cho ta thấy các biến Chất lượng
kiểm toán (BIG4); Tình hình tài chính (ROA); Sự hiện diện của Ban kiểm soát (AC);
Dạng ý kiến kiểm toán (AUDITOP); Số lượng công ty con (SUBS); và Lượng hàng tồn
kho và khoản phải thu (INVREC) có tác động lên độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp
niêm yết tại Việt Nam. Các nhân tố Quy mô (LNSIZE); Tỉ lệ đòn bẩy (LEV); và Tổng
khoản kế toán dồn tích (TA) dường như không tác động đến độ trễ kiểm toán tại Việt
Nam. Các kết quả trên đều hoặc chưa nhất quán với lý thuyết hoặc chưa nhất quán qua
thời gian. Do vậy, ta cần phải thực hiện kiểm định tăng cường trước khi đi đến kết luận
cuối cùng.
4.3. Kiểm định tăng cường
Để thực hiện kiểm định tăng cường, tác giả ước lượng lại các mối quan hệ trên,
dùng mô hình dạng bảng. Trước tiên, tác giả ước lượng mô hình (2) theo ba cách: Hồi
quy hiệu ứng cố định, hồi quy hiệu ứng ngẫu nhiên, và hồi quy dữ liệu nhóm. Kết quả sau
khi thực hiện hai phép kiểm định lựa chọn định dạng mô hình Hausman (1978) và LM
(Breusch & Pagan, 1980) cho ta kết quả là mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên là mô hình hiệu
quả nhất và được chọn làm mô hình để kiểm định độ vững của các kết luận trong Mục
4.2. Kết quả ước lượng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên được trình bày trong Bảng 5.
Kết quả kiểm định tăng cường cho thấy hệ số hồi quy của các biến LNSIZE, AC,
AUDITOPI, SUBS, và LEV đều không có ý nghĩa thống kê. Điều này có nghĩa là Quy
mô của công ty; Việc tồn tại của ban kiểm soát; Dạng ý kiến kiểm toán; Số lượng công
ty con; và Tỉ lệ đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng đến độ trễ kiểm toán của các công
ty niêm yết tại Việt Nam. Kết quả này không giống với kỳ vọng thông thường và chứng
cứ từ một số nghiên cứu đi trước, như Bamber và ctg. (1993); Vuko và Cular (2014);
Ashton và ctg. (1987); và Carslaw và Kaplan (1991).
Bảng 4. Kết quả hồi quy theo năm và cho cả giai đoạn 2013-2016
Biến Dấu kỳ
vọng
2013 2014 2015 2016 2013-2016
Hệ số hồi quy
(1)
t Hệ số hồi quy
(2)
t Hệ số hồi quy
(3)
t Hệ số hồi quy
(4)
t Hệ số hồi quy
(5)
t
Giao điểm 3.7815*** 4.56 4.8451*** 7.23 4.5151*** 8.82 3.8150*** 7.49 4.1878*** 12.04
LNSIZE + 0.02132 0.50 -0.02971 -0.91 -0.01315 -0.52 0.02033 0.82 0.00110 0.06
BIG4 - 0.03796 0.76 0.09507** 2.22 0.05926 1.18 0.05187 1.22 0.0738*** 3.12
AC - 0.03897 0.65 -0.04649 -0.70 0.08852 1.48 0.14319** 2.21 0.06403* 1.89
ROA - -0.00502*** -4.47 -0.00086 0.85 -0.00648** -2.1 -0.01166** -2.42 -0.00567*** -4.88
AUDITOPI + 0.08800 1.62 0.10582 0.85 0.27007* 1.88 0.14683*** 3.50 0.1257214** 2.46
LEV + 0.00008 0.05 0.00127 0.74 -0.00070 -0.51 -0.00125 -1.10 -0.00008 -0.11
SUBS + 0.00417 0.84 0.00852** 2.20 0.00376 1.55 0.00203 0.76 0.00397** 2.31
INVREC + 0.00167 1.40 0.00162 1.21 0.00135 1.38 0.00153* 1.70 0.00145** 2.45
TA + -0.23605 -0.44 -1.242** -2.37 -0.04051 -0.15 0.23141 1.60 -0.16236 -0.76
N 176 176 176 176 704
R2 0.1662 0.1536 0.1626 0.2169 0.1180
F 4.04 2.05 2.48 4.37 7.53
Chỉ số p 0.0001 0.0368 0.0110 0.0000 0.0000
Ghi chú: Bảng trên trình bày kết quả ước lượng cho mô hình sau đây:
itit
LEV
it
TA
it
INVREC
it
SUBS
it
AUDITOPI
it
ROA
it
AC
it
BIG
it
LNSIZE
it
LNARL
10987654
4
321
*, **, ***: thể hiện mức ý nghĩa thống kê tương ứng là 10%, 5%, và 1%.
1
5
N
g
u
y
ễn
T
h
an
h
H
ồ
n
g
Â
n
v
à
H
o
àn
g
M
ai
P
h
ư
ơ
n
g
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
16
Kết quả phân tích trình bày trong Bảng 5 cũng cho thấy có bốn nhân tố có tác
động lên độ trễ kiểm toán tại Việt Nam, là: Chất lượng của công ty kiểm toán (BIG4);
Tình hình tài chính của doanh nghiệp (ROA); Khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải
thu (INVREC); và Tổng các khoản kế toán dồn tích (TA). Trong bốn nhân tố tác động
đến độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, có hai nhân tố, là Tình
hình tài chính của doanh nghiệp; và Lượng hàng trong kho và các khoản phải thu, có tác
động lên độ trễ kiểm toán theo hướng trùng hợp với các nghiên cứu ở các nước khác, như
Ashton và ctg. (1987); Carslaw và Kaplan (1991); Bamber và ctg. (1993); và Vuko và
Cular (2014). Theo đó, trong bối cảnh Việt Nam, tình hình tài chính doanh nghiệp càng
khả quan thì độ trễ kiểm toán càng ngắn; và khối lượng hàng tồn kho và các khoản phải
thu càng lớn thì độ trễ kiểm toán càng dài.
Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên
Biến Dấu kỳ vọng Hệ số hồi quy Chỉ số z Chỉ số p Kết luận
Giao điểm 4.297449*** 12.49 0.000
LNSIZE + -0.004502 -0.26 0.792
BIG4 - 0.0906582** 2.46 0.014 +
AC - 0.0400313 1.23 0.220
ROA - -0.0054327*** -5.76 0.000 -
AUDITOPI + 0.0678027 1.41 0.158
SUBS + 0.0040778 1.49 0.135
INVREC + 0.0017119** 2.53 0.011 +
TA + -0.1870384* -1.84 0.065 -
LEV + 0.0002131 0.26 0.793
N 704
R2 0.1139
Wald Chi-sq 68.50
Chỉ số p 0.0000
Ghi chú: Bảng trên trình bày kết quả ước lượng cho mô hình sau đây:
itiit10it9
it8it7it6it5it4it3it21it
uLEVTA
INVRECSUBSAUDITOPIROAAC4BIGLNSIZELNARL
Kiểm định Hausman (1978) và kiểm định Breusch-Pagan (1980) được thực hiện và cho ra chỉ số kiểm
định tương ứng là chỉ số Wald Chi-square = 6.53 (p-value=0.6858) và Wald Chi-square = 163.53 (p-
value=0.0000). Kết quả kiểm định cho thấy định dạng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên là định dạng hiệu quả
nhất và được chọn làm mô hình nghiên cứu chính cho nghiên cứu này. *, **, ***: Thể hiện mức ý nghĩa
thống kê tương ứng là 10%, 5%, và 1%; +, - : Tương ứng có nghĩa là có mối quan hệ đồng biến, và có
mối quan hệ nghịch biến với ý nghĩa thống kê từ 5% trở lên.
Tuy nhiên, hai nhân tố là Chất lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn
tích lại có tác động đến độ trễ kiểm toán không giống như quan sát được ở các nước khác.
Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong
nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán lâu hơn các công ty kiểm toán khác, trong khi các
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
17
nghiên cứu ở các nước phát triển lại không tìm ra chứng cứ về mối quan hệ này (Carslaw
& Kaplan, 1991; Davies & Whittred, 1980; Garsombke, 1981; Vuko & Cular, 2014), hoặc
cho thấy điều ngược lại (Gilling, 1977). Tương tự, trong khi chứng cứ ở các nước khác
cho thấy các công ty có tổng các khoản kế toán dồn tích càng lớn thì càng mất nhiều thời
gian để thực hiện kiểm toán, chứng cứ tại Việt Nam lại cho thấy các công ty có các khoản
kế toán dồn tích cao thì lại được kiểm toán nhanh hơn.
Hai khác biệt giữa hành vi báo cáo tài chính của doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp ở các nước khác được phỏng đoán là do có sự khác biệt trong công nghệ kiểm
toán giữa các công ty kiểm toán. Các công ty kiểm toán có chất lượng cao và có uy tín
thường có quy trình kiểm toán khắt khe để bảo vệ uy tín của mình, trong khi các công ty
kiểm toán nhỏ có thể có quy trình kiểm toán đơn giản hơn, do nguồn lực bị hạn chế. Có
thể vì lý do này mà thời gian kiểm toán của các công ty thuộc nhóm Big 4 tại Việt Nam
lại lâu hơn các công ty kiểm toán nhỏ khác tại địa phương. Ngoài ra, các khoản kế toán
dồn tích được coi là khu vực có thể xảy ra các hoạt động quản trị số liệu lợi nhuận. Do
vậy, các công ty kiểm toán thường phải dành nhiều thời gian hơn để kiểm tra các công ty
có khoản kế toán dồn tích cao để tránh trường hợp số liệu báo cáo bị điều chỉnh (dù hợp
pháp) và không phản ánh đúng tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Việc quan
sát được mối quan hệ ngược lại tại thị trường Việt Nam có thể là một tín hiệu không tốt
về chất lượng hoạt động kiểm toán tại Việt Nam. Những điểm khác biệt này có thể mang
hàm ý rất quan trọng đối với các nhà làm chính sách và các nhà đầu tư tại Việt Nam. Để
có câu trả lời chính xác, hai nhân tố khác biệt này cần được nghiên cứu kỹ hơn và với số
liệu chi tiết hơn trong một nghiên cứu riêng biệt.
5. KẾT LUẬN
Dựa trên kết quả phân tích, nghiên cứu này chỉ ra bốn nhân tố có tác động lên độ
trễ báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, bao gồm: Chất lượng
của công ty kiểm toán (BIG4); Tình hình tài chính của doanh nghiệp (ROA); Khối lượng
hàng tồn kho và các khoản phải thu (INVREC); và Tổng các khoản kế toán dồn tích (TA).
Trong bốn nhân tố tác động đến độ trễ kiểm toán của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam,
có hai nhân tố, là Tình hình tài chính của doanh nghiệp và Lượng hàng trong kho và các
khoản phải thu, có tác động lên độ trễ kiểm toán theo hướng trùng hợp với các nghiên
cứu ở các nước khác. Theo đó, trong bối cảnh Việt Nam, tình hình tài chính doanh nghiệp
càng khả quan thì độ trễ kiểm toán càng ngắn và khối lượng hàng tồn kho và các khoản
phải thu càng lớn thì độ trễ kiểm toán càng dài. Tuy nhiên, hai nhân tố còn lại là Chất
lượng của công ty kiểm toán và Lượng kế toán dồn tích lại có tác động đến độ trễ kiểm
toán không giống như quan sát được ở các nước khác. Cụ thể, tại Việt Nam, các công ty
kiểm toán được coi là có chất lượng cao (nằm trong nhóm Big 4) lại có độ trễ kiểm toán
lâu hơn các công ty kiểm toán khác. Tương tự, chứng cứ ở các nước khác cho thấy doanh
nghiệp có giao dịch kế toán dồn tích càng cao thường có độ trễ báo cáo tài chính kiểm
toán càng dài.
Dù đã đưa ra được một số kết quả nghiên cứu có ý nghĩa, đóng góp vào kho tàng
nghiên cứu về chủ đề độ trễ báo cáo tài chính kiểm toán nói chung, nghiên cứu này cũng
không tránh khỏi một số hạn chế. Thứ nhất, nghiên cứu này thực hiện dựa trên một tập
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT [CHUYÊN SAN KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ]
18
dữ liệu không lớn, với chỉ 176 công ty, được khảo sát trong 4 năm, từ 2013-2016. Các
nghiên cứu tương lai có thể mở rộng nghiên cứu này bằng cách thu thập thêm dữ liệu từ
nhiều công ty và trong một giai đoạn dài hơn để gia tăng sức mạnh của các phép kiểm
định giả thuyết, từ đó làm tăng sự tin cậy của các kết luận. Thứ hai, mô hình nghiên cứu
sử dụng trong nghiên cứu này chỉ giới hạn sử dụng một số biến hạn chế và khá thông
dụng trong ngành. Các nghiên cứu trong tương lai có thể bổ sung vào mô hình các biến
khác, ví dụ các biến về chất lượng hội đồng quản trị, để mở rộng phạm vi nghiên cứu và
gia tăng khả năng giải thích của mô hình. Cuối cùng, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở việc
xác định các nhân tố quyết định độ trễ kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt
Nam mà không đưa ra các lý giải cho các kết quả. Các nghiên cứu tương lai có thể mở
rộng nghiên cứu này bằng cách đưa ra các lý giải cho các kết quả phân tích trong nghiên
cứu này, đặc biệt là cho hai nhân tố khác biệt được chỉ ra trong nghiên cứu này: giải thích
lý do tại sao công ty kiểm toán chất lượng cao lại có thời gian kiểm toán lâu hơn và các
công ty có khoản kế toán dồn tích cao lại được kiểm toán nhanh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdulla, J. (1996). The timeliness of Bahraini annual reports. Advances in International
Accounting, 9, 73-88.
Ashton, R., Willingham, J., & Elliott, R. (1987). An empirical analysis of audit delay.
Journal of Accounting Research, 25, 275-292.
Ashton, R. H., Graul, P. R., & Newton, J. D. (1989). Audit delay and the timeliness of
corporate reporting. Contemporary Accounting Research, 5, 657-673.
Bamber, E. M., Bamber, L. S., & Schoderbek, M. P. (1993). Audit structure and other
determinants of audit report lag: An empirical analysis. Auditing: A Journal of
Practice & Theory, 12(1), 1-23.
Bộ Tài chính. (2015). Thông tư 155/2015/TT-BTC: Hướng dẫn công bố thông tin trên
Thị trường chứng khoán. Hà Nội, Việt Nam: Bộ Tài chính. Được truy lục từ
D=30653
Breusch, T., & Pagan, A. (1980). The Lagrange Multiplier Test and its application to
model specification in econometrics. Review of Economic Studies, 47, 239-254.
Carslaw, C. A. P. N., & Kaplan, S. E. (1991). An examination of audit delay: Further
evidence from New Zealand. Accounting & Business Research, 22, 21-32.
Che-Ahmad, A., & Abidin, S. (2009). Audit delay of listed companies: A case of
Malaysia. International Business Research, 1, 32-39.
Courtis, J. (1976). Relationships between timeliness in corporate reporting and corporate
attributes. Accounting and Business Research, 6, 46-56.
Davies, B., & Whittred, G. (1980). The association between selected corporate attributes
and timeliness in corporate reporting: Further analysis. ABACUS, 16, 48-60.
Dyer, J. C., & McHugh, A. J. (1975). The timeless of the Australian annual report.
Journal of Accounting Research, 13, 204-219.
Nguyễn Thanh Hồng Ân và Hoàng Mai Phương
19
Garsombke, H. (1981). The timeliness of corporate financial disclosure. In J. K. Courtis
(Ed.), Communications via annual reports, AFM Exploratory Series No. 11 (pp.
204-218). Armidale, Australia: University of New England.
Gilling, D. (1977). Timeliness in corporate reporting: Some further comment. Accounting
and Business Research, 7, 34-36.
Hausman, J. A. (1978). Specification tests in econometrics. Econometrica, 46, 1251-
1272.
IASB. (2008). Exposure draft of an improved conceptual framework for financial
reporting. London, England: IASB.
Jaggi, B., & Tsui, J. (1999). Determinants of audit report lag: Further evidence from Hong
Kong. Accounting and Business Research, 30(1), 17-28.
Ng, P. P. H., & Tai, B. Y. K. (1994). An empirical examination of the determinants of
audit delay in Hong Kong. British Accounting Review, 26(1), 43-59.
Owusu-Ansah, S. (2000). Timeliness of corporate financial reporting in emerging capital
markets: Empirical evidence from the Zimbabwe Stock Exchange. Accounting
and Business Research, 30, 241-254.
Owusu-Ansah, S., & Leventis, S. (2006). Timeliness of corporate annual financial
reporting in Greece. European Accounting Review, 15, 273-287.
Quốc hội. (2015). Luật Kế toán số 88/2015/QH13. Hà Nội, Việt Nam: Văn phòng Quốc
hội.
Türel, A. (2010). Timeliness of financial reporting in emerging capital markets: Evidence
from Turkey. Istanbul University Journal of the School of Business
Administration, 39(2), 227-240.
Vuko, T., & Cular, M. (2014). Finding determinants of audit delay by pooled OLS
regression analysis. Croatian Operational Research Review, 15, 81-91.
Wooldridge, J. M. (2002). Introductory Econometrics: A modern approach.
Massachusetts, USA: Cengage Learning Press.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_nhan_to_quyet_dinh_do_tre_kiem_toan_cua_cac_doanh_nghiep.pdf