Ví dụ này cũng cho thấy rằng với một hệ kết
cấu đơn giản chỉ gồm 5 bậc tự do, tuy nhiên khi
phân tích phi tuyến động cần đến gần 500 giây
(phương pháp HHT). Đây chính là một trong
những nhược điểm của những phương pháp phi
tuyến động thường dùng hiện nay, do đó cần có
yêu cầu phát triển những phương pháp tính toán
mới tiết kiệm thời gian và công sức tính toán hơn
mà vẫn đảm bảo độ chính xác của kết quả, ví dụ
như phương pháp được giới thiệu trong tài liệu
[3].
10 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 599 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các phương pháp phân tích động phi tuyến kết cấu theo lịch sử thời gian trong sap 2000 (phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 3
CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐỘNG PHI TUYẾN KẾT CẤU
THEO LỊCH SỬ THỜI GIAN TRONG SAP 2000 (PHẦN 2)
ThS. TRẦN NGỌC CƯỜNG
Viện KHCN Xây dựng
Tóm tắt: Trong phần 1, bài báo đã trình bày
những đặc điểm cơ bản của năm phương pháp
phân tích phi tuyến động được tích hợp sẵn trong
phần mềm SAP 2000. Trong phần 2 này, bài báo
sẽ giải thích các thông số khi áp dụng phân tích
động phi tuyến, đồng thời đưa ra một số ví dụ
minh họa nhằm làm rõ đặc điểm của các phương
pháp đã trình bày ở phần 1.
1. Các thông số cơ bản
a. Cửa sổ Load Case Data
Cửa sổ Load Case Data – Nonlinear Direct
Integration History trong SAP2000 được dùng để
định nghĩa các phương pháp phân tích và kiểu
phân tích. Các thuật ngữ trong cửa sổ này đều
đơn giản và dễ hiểu nên có thể không cần giải
thích thêm. Góc bên dưới trong phần Other
Parameters có hai ô, ô Time Integration để chọn
phương pháp phân tích và điều chỉnh các thông
số đầu vào, ô Nolinear Parameters dùng để chỉnh
các thông số phụ (hình 1). Nhập số bước thời
gian xuất ra (Number of Output Time Steps) và
giá trị bước thời gian xuất ra (Output Time Step
Size) vào hai ô tương ứng như trongHình 1hình
1. Lưu ý đây là số bước thời gian và giá trị bước
thời gian xuất ra chứ không phải là bước thời
gian tính toán (∆t) như trong các công thức trình
bày ở phần 1 của bài báo [1], bước thời gian tính
toán được chương trình tính tự động, căn cứ vào
điều kiện hội tụ của kết quả. Tuy nhiên, do giá trị
bước thời gian tính toán của chương trình luôn
nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bước thời gian xuất ra,
do đó giá trị bước thời gian xuất ra này có thể
được dùng để khống chế giá trị lớn nhất của
bước thời gian tính toán ∆t.
Hình 1. Cửa sổ Load Case Data
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
4 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016
b. Cửa sổ Time Integration Parameters
Cửa sổ Time Integration Parameters (hình 2)
cho phép chọn phương pháp phân tích và các hệ
số đầu vào (như α, β, γ, θ,). Việc chọn phương
pháp và các thông số đầu vào này căn cứ vào
yêu cầu tính toán và các tính chất số của mỗi
phương pháp như đã phân tích ở phần 1 bài báo
này [1].
Hình 2. Cửa sổ Integration Parameters và Nonlinear Parameters
c. Cửa sổ Nonlinear Parameters
Ý nghĩa của các thông số trong cửa sổ
Nonlinear Parameters (hình 2) được giải thích
như sau [2]:
- Maximum Substep Size (a): Quy định giá trị
lớn nhất cho một bước thời gian tính toán (∆t).
Khi người dùng đặt giá trị này, đầu tiên chương
trình sẽ tính toán với giá trị ∆t bằng giá trị lớn
nhất. Nếu như kết quả tính không hội tụ, chương
trình sẽ tự động chia nhỏ hơn bước thời gian ∆t
và lặp lại quá trình tính toán. Giá trị Maximum
Substep Size không được lớn hơn giá trị bước
thời gian xuất ra. Trong trường hợp không gán
giá trị cho thông số này (mặc định bằng 0),
chương trình sẽ tự động gán giá trị bằng giá trị
bước thời gian xuất ra (Output Time Step);
- Minimum Substep Size (b): Quy định giá trị
nhỏ nhất cho một bước thời gian ∆t tính toán. Khi
phân tích phi tuyến, nếu kết quả tính không hội tụ
sau một số bước tính toán nhất định, SAP2000
sẽ tự động giảm giá trị ∆t và lặp lại quy trình tính
toán. Do thời gian phân tích phụ thuộc vào số
lượng các bước tính toán này, để tránh lãng phí
thời gian xử lý và tránh cho chương trình bị lỗi
tràn bộ nhớ (lỗi Run-time error), người dùng có
thể quy định số bước thời gian nhỏ nhất mà
chương trình sẽ sử dụng, ví dụ bằng 0,005 giây.
Nếu đã giảm giá trị ∆t đến giá trị nhỏ nhất này mà
kết quả vẫn không hội tụ thì chương trình sẽ tự
động dừng lại và đưa ra cảnh báo;
- Maximum Constant-Stiffness Iterations per
Step (c) và Maximum Newton-Raphson Iterations
per Step (d): Phương pháp tính lặp với ma trận
độ cứng là hằng số còn được gọi là phương pháp
Newton-Raphson cải tiến (Modified Newton-
Raphson). Đầu tiên chương trình sẽ tính lặp bằng
phương pháp Modified Newton-Raphson, sau số
bước đã quy định ở (c), nếu kết quả không hội tụ
thì chương trình sẽ chuyển sang tính bằng
phương pháp Newton-Raphson với số bước ở
(d), khi đó ma trận độ cứng sẽ được cập nhật sau
từng vòng lặp. Nếu cả hai trường hợp này kết
quả đều không hội tụ, chương trình sẽ tự động
chia nhỏ bước thời gian và lặp lại quá trình tính
toán. Theo [2], tính lặp bằng phương pháp
Modified Newton Raphson thường nhanh hơn (do
không phải cập nhật ma trận độ cứng sau mỗi
vòng lặp), tuy nhiên tính bằng phương pháp
Newton-Raphson lại hiệu quả hơn, đặc biệt là với
kết cấu dạng sợi cáp và kết cấu có xét đến hiệu
ứng phi tuyến hình học. Nếu gán cả hai giá trị ở
hai ô này đều bằng 0 thì chương trình sẽ tự động
tính số vòng lặp cho phép theo yêu cầu;
- Iteration Convergence Tolerance (Relative)
(e): Sai số tương đối cho phép. Sau mỗi vòng lặp,
SAP2000 sẽ kiểm tra giá trị sai số, nếu giá trị sai
số nhỏ hơn giá trị sai số cho phép thì chương
trình sẽ thoát vòng lặp và chuyển sang bước tiếp
theo. Giá trị sai số càng nhỏ thì kết quả tính càng
chính xác, nhưng mất thêm thời gian để chương
trình xử lý;
- Event-To-Event Stepping (f) và Event
Lumping Tolerance (g): đây là tùy chọn và sai số
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 5
cho phép áp dụng với các khớp dẻo nhằm làm
giảm số vòng tính lặp trong một bước. Người
dùng có thể sử dụng có hoặc không sử dụng với
tùy chọn này. Lưu ý rằng tùy chọn này không
dùng cho loại cấu kiện cốt sợi (fiber frame);
- Maximum Line Searches per Iteration (h),
Line-Search Acceptance Tolerance (Relative) (i)
và Line-Search Step Factor (j): Line-search là một
thuật toán của SAP 2000 nhằm cải thiện hiệu quả
của việc tính lặp bằng cách thử tăng hoặc giảm
độ biến thiên của kết quả tính toán nhằm thu
được một sai số nhỏ nhất. Do tính hiệu quả và
khả năng hội tụ của thuật toán tính lặp Newton-
Raphson phụ thuộc vào việc chọn giá trị thử ban
đầu, thuật toán line-search là một bước đệm
nhằm giúp cho việc chọn ra giá trị này. Thuật
toán này tuy làm tăng khối lượng tính toán trong
mỗi bước nhưng lại có thể làm giảm số vòng lặp
và cải thiện tính hội tụ của vòng lặp.
Trong các thông số tính toán mô tả ở trên, với
những bài toán kết cấu thông thường, người
dùng chỉ cần quan tâm đến các thông số từ (a)
đến (e), các thông số từ (f) đến (j) có thể để theo
giá trị mặc định mà chương trình đưa ra. Cũng
cần lưu ý thêm rằng khi sử dụng cho họ phương
pháp ngoại hiển thức hoặc khi phân tích động với
hệ kết cấu đàn hồi tuyến tính, chỉ cần quan tâm
đến giá trị thông số (a) và (b) mà không cần quan
tâm đến các thông số còn lại do thuật toán không
cần phải tính lặp trong những trường hợp này.
Các thông số cơ bản trình bày trong phần này
cũng như các kiến thức liên quan đến về động
lực học công trình có thể được tham khảo thêm
tại các tài liệu [3], [4], [5].
2. Các ví dụ tính toán
Như đã trình bày ở phần 1 của bài báo [1],
SAP 2000 tích hợp sẵn năm phương pháp phân
tích phi tuyến động khác nhau. Tuy nhiên, trong
phạm vi sử dụng để tính toán kết cấu các công
trình thường gặp, về cơ bản chỉ cần quan tâm
đến ba đặc điểm chính sau:
Phương pháp sử dụng thuộc họ ngoại hiển
thức hay nội ẩn thức;
Phương pháp sử dụng có hay không có hệ số
cản nhớt số (numerical damping ratio);
Độ chính xác trong kết quả tính toán của
phương pháp được sử dụng.
Căn cứ vào các đặc điểm này, để cho người
dùng dễ dàng hơn khi lựa chọn các phương pháp
tính, các ví dụ tính toán sau đây sẽ chỉ tính toán
với các phương pháp sau:
- Phương pháp Newmark Explicit Method (viết
tắt là NEM): phương pháp ngoại hiển thức có
điều kiện ổn định, không có hệ số cản nhớt số
(chọn β=0 và γ=0,5 trong phương pháp
Newmark);
- Phương pháp Hilber – Hughes – Taylor với
hệ số α = 0 (viết tắt là HHT(0)): đây là phương
pháp nội ẩn thức không có điều kiện ổn định,
không có hệ số cản nhớt số. Trường hợp tính
này cũng tương đương với việc sử dụng phương
pháp AAM như đã giải thích ở Phần 1 của bài
báo;
- Phương pháp Hilber – Hughes – Taylor với
hệ số α < 0 (viết tắt là HHT(α)): đây là phương
pháp nội ẩn thức không có điều kiện ổn định và
có hệ số cản nhớt số.
Các phương pháp này có các đặc điểm tính
toán gần như bao gồm đủ các trường hợp tính
toán thông thường nên người dùng có thể chỉ cần
sử dụng các trường hợp tính này mà không cần
dùng đến các phương pháp khác.
2.1 Ví dụ 1: Hệ kết cấu tuyến tính
Hệ kết cấu khung gồm năm bậc tự do với các
thông số về khối lượng và độ cứng các tầng (tính
cho cả 2 cột) được thể hiện trong hình 3, trong đó
độ cứng các tầng được giả thiết là làm việc đàn
hồi tuyến tính. Căn cứ vào các thông số này, chu
kỳ dao động (Period), tần số dao động tự nhiên
(Natural Frequency), tần số dao động
(Frequency) và hệ số khối lượng tham gia các
dạng dao động (Participating Mass Ratios) được
tính toán bằng SAP2000 và trình bày trong bảng
1. Vec-tơ của dạng dao động thứ 1 và thứ 5 tính
được như sau:
[ ] [ ]T Tv = 0,970 0,990 1,000 1,000 1,000 v = 0 0 0,006 -1,621 1,00051 (1)
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
6 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016
Từ bảng 1 có thể thấy các dạng dao động thứ
3, 4, 5 là các dạng dao động bậc cao so với dạng
dao động thứ 1 và 2, vì hai lý do: thứ nhất, tần số
dao động f của các dạng dao động này lớn hơn
nhiều lần so với tần số dao động của hai dạng dao
động đầu tiên; thứ hai, khối lượng kết cấu tham
gia vào các dạng dao động 3, 4, 5 là quá nhỏ (nhỏ
hơn 0,1% tổng khối lượng) so với dạng dao động
1 và 2. Trong một số trường hợp tính với kết quả
không cần quá chính xác, thậm chí còn có thể coi
dạng dao động thứ 2 là dạng dao động bậc cao và
chỉ tính với dạng dao động thứ 1.
Cho hệ kết cấu chịu tải trọng là gia tốc nền
được giả định có dạng hàm sin như sau:
( ) 2a = 1,0× sin πt (m / s )g (2)
m5=100 kg
m4=100 kg
m3=10
4
kg
m2=10
4 kg
m1=10
6 kg
k0-5=2×10
4 kN/m
k0-4=2×10
4 kN/m
k0-3=2×10
4
kN/m
k0-2=2×10
4 kN/m
k0-1=2×10
4 kN/m
6 12
5 11
4 10
3 9
2 8
1 16
11
12
13
14
15
Z
X
(a) (b)
Hình 3. Hệ kết cấu tuyến tính 5 bậc tự do
Bảng 1. Các thông số động lực học của hệ kết cấu trong ví dụ 1
Dạng dao động Chu kỳ T (s) Tần số dao động tự nhiên ω (rad/s)
Tần số dao động f
(Hz)
Hệ số khối lượng
tham gia dao động
1 1,419 4,427 0,705 0,960
2 0,227 27,707 4,410 0,040
3 0,087 72,191 11,489 0,000
4 0,023 279,070 44,415 0,000
5 0,009 723,990 115,221 0,000
Để xem xét ảnh hưởng của các dạng dao động bậc cao, vận tốc ban đầu (initial velocity) tại thời
điểm t = 0 được lấy bằng không và điều kiện chuyển vị ban đầu (initial displacement) tính theo vec-tơ
dạng dao động thứ 5 như sau:
[ ]Td(0) = v / 20 = 0 0 0 -0,081 0,050 (m)5 (2)
Hệ kết cấu được tính toán bằng cả ba phương pháp NEM, HHT(0) và HHT(-0,1).
Để lựa chọn bước thời gian ∆t với phương pháp NEM, căn cứ vào điều kiện ổn định bước thời gian
tính toán phải thỏa mãn điều kiện sau:
( ) ≤Ω =ω ∆t 2max
( ) ( )→ ≤∆t 2 / ω = 2 / 723,99 = 0,0027 smax (3)
Chọn ∆t = 0,002 giây, căn cứ vào hình 2 của
tài liệu [1], sai số tương đối chu kỳ đối với dạng
dao động thứ 1 là 0,1% và với dạng dao động thứ
2 là 0,9%. Các giá trị sai số này đủ nhỏ để coi kết
quả tính toán là chuẩn khi so sánh với các
phương pháp tính khác. Lưu ý nếu giá trị ∆t được
chọn không thỏa mãn điều kiện ổn định thì khi
tính toán chương trình dễ bị lỗi tràn bộ nhớ.
Với phương pháp HHT, do không có điều kiện
ổn định nên bước thời gian được chọn căn cứ
theo độ chính xác yêu cầu của kết quả tính. Giả
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 7
sử ta chỉ quan tâm đến dạng dao động thứ 1 và
2, độ chính xác của kết quả được lấy theo giá trị
sai số tương đối của chu kỳ với sai số cho phép
là 5%, khi đó giá trị bước thời gian được tính căn
cứ vào hình 6 [1] như sau:
( ) ( ) ( )≤ → ≤∆t / T 0,1 ∆t 0,1* T = 0,1* 0,227 = 0,023 s2 2 (4)
Chọn ∆t = 0,02 giây cho cả hai trường hợp
tính bằng phương pháp HHT(0) và HHT(-0,1) với
lưu ý rằng sai số của phương pháp HHT(-0,1) sẽ
lớn hơn một chút so với phương pháp HHT(0).
Kết quả tính toán của chuyển vị tầng 1 (nút 2)
và tầng 5 (nút 6) được trình bày trong hình 4,
chuyển vị của tầng 1 được trình bày cho 5 giây
đầu tiên trong khi chuyển vị tầng 5 chỉ in cho 1
giây đầu tiên.
Kết quả tính toán ở hình 4a cho thấy:
- Đường cong kết quả tính toán bằng
phương pháp HHT(0) hoàn toàn trùng khớp với
đường cong kết quả tính toán bằng phương pháp
NEM (được lấy làm chuẩn), trong khi bước thời
gian tính toán của phương pháp HHT(0) lớn gấp
10 lần so với bước thời gian tính toán của
phương pháp NEM. Điều này cho thấy phương
pháp HHT(0) không bị khống chế bởi điều kiện ổn
định nên đã tiết kiệm được khá nhiều công sức
tính toán hơn so với phương pháp NEM trong khi
vẫn thu được kết quả với độ chính xác tương
đương;
- Đường cong kết quả tính toán bằng
phương pháp HHT(-0,1) có sự sai lệch nhỏ so
với kết quả chuẩn, tuy nhiên, trong các bài toán
về xây dựng thì sai số này nhìn chung là chấp
nhận được.
Kết quả tính toán ở hình 4b cho thấy:
- Đường cong kết quả tính toán bằng
phương pháp NEM và HHT(0) khá “nhiễu”, do
chuyển vị của tầng 5 bị ảnh hưởng của dạng dao
động có tần số cao, trong khi đường cong kết quả
tính toán bằng phương pháp HHT(-0,1) chỉ hơi
“nhiễu” trong khoảng 0,2 giây đầu tiên, sau đó trở
nên rất “trơn”. Điều này được lý giải là do hai
phương pháp NEM và HHT(0) đều không có hệ
số cản nhớt nên không có khả năng loại bỏ ảnh
hưởng của các dạng dao động bậc cao, trong khi
phương pháp HHT(-0,1) có khả năng này. Việc
loại bỏ ảnh hưởng của các dạng dao động bậc
cao có ba ý nghĩa: thứ nhất, trong các bài toán về
xây dựng, các dạng dao động bậc cao ảnh
hưởng không đáng kể đến tổng thể ứng xử kết
cấu (trong ví dụ này, ba dạng dao động 3, 4, 5
chiếm chưa đến 0,1% tổng khối lượng kết cấu
tham gia dao động), do đó việc loại bỏ ảnh
hưởng của chúng sẽ làm giảm công sức tính
toán; thứ hai, kết quả tính toán với các dạng dao
động bậc cao thường không chính xác nên không
được quan tâm; thứ ba, với hệ kết cấu phi tuyến,
việc loại bỏ các giá trị “nhiễu” trong kết quả tính
sẽ làm tăng khả năng hội tụ khi tính lặp và giảm
số bước tính lặp, từ đó cũng làm giảm thời gian
tính toán.
Hình 4. Kết quả tính toán ví dụ 1
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
8 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016
2.2 Ví dụ 2: Hệ kết cấu phi tuyến vật liệu
Hệ kết cấu trong ví dụ 1 được điều chỉnh lại
với các thông số về khối lượng và độ cứng như
trong hình 5. Giả thiết độ cứng của các tầng là
như nhau, quan hệ ứng xử của cấu kiện tầng
được giả thiết là quan hệ tuyến tính hai đoạn
thẳng. Giá trị FT = -FC = 200 kN tính cho mỗi cột,
Ke =k0-i, Kh = 0,11Ke. Các thông số động lực học
của hệ kết cấu tính theo độ cứng ban đầu được
trình bày trong bảng 2. Hệ kết cấu được tính toán
dưới tác dụng của tải trọng động đất theo
phương ngang với gia tốc nền ghi nhận được từ
trận động đất Chi-Chi xảy ra ở Đài Loan vào năm
1999 (tên phổ ghi gia tốc này theo ký hiệu quốc tế
thường dùng là CHY 028), đỉnh gia tốc nền được
lấy bằng 0,8g (hình 6).
m5=2×10
4 kg
m4=2×10
4 kg
m3=2×10
4 kg
m2=2×10
4 kg
m1=2×10
4 kg
k0-5=8×10
3
kN/m
k0-4=8×10
3
kN/m
k0-3=8×10
3
kN/m
k0-2=8×10
3 kN/m
k0-1=8×10
3 kN/m
(a) (b)
Hình 5. Hệ kết cấu phi tuyến vật liệu 5 bậc tự do
Hình 6. Phổ ghi gia tốc nền CHY 028
Bảng 2. Các thông số động lực học của hệ kết cấu trong ví dụ 2
Dạng dao động Chu kỳ T (s) Tần số dao động tự nhiên ω (rad/s)
Tần số dao động f
(Hz)
Hệ số khối lượng
tham gia dao động
1 1,104 5,6926 0,906 0,880
2 0,378 16,617 2,645 0,087
3 0,240 26,194 4,169 0,024
4 0,187 33,65 5,356 0,008
5 0,164 38,38 6,108 0,002
Hệ kết cấu cũng được tính với ba phương
pháp NEM, HHT(0) và HHT(-0,1). Việc lựa chọn
bước thời gian tính toán ∆t cũng tương tự như ở
ví dụ 1. Trong ví dụ này, do phổ ghi gia tốc nền
được ghi với bước thời gian ∆t = 0,005 giây nên
SAP 2000 tự động chọn giá trị này làm bước thời
gian tính toán nếu như giá trị bước thời gian xuất
ra chọn lớn hơn giá trị này. Với hệ kết cấu này, ∆t
= 0,005 giây là đủ để thỏa mãn điều kiện ổn định
của phương pháp NEM và thỏa mãn yêu cầu về
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 9
độ chính xác trong kết quả của phương pháp
HHT.
Kết quả tính toán chuyển vị của tầng 1 và tầng
5 được thể hiện trong hình 7, mối quan hệ giữa
biến dạng và lực cắt các tầng được thể hiện trong
hình 8. Thời gian tính toán của SAP 2000 cho ba
phương pháp NEM, HHT(0) và HHT(-0,1) lần
lượt là 229 giây, 499 giây và 487 giây. SAP 2000
được chạy trên máy tính cá nhân với chip
Intel®CoreTMi5 CPU M460 @2.53GHz, RAM 4.00
GB.
Kết quả tính toán của ví dụ này cho thấy:
- Kết quả tính bằng phương pháp HHT(0)
trùng với kết quả tính toán bằng phương pháp
NEM, trong khi kết quả tính toán bằng phương
pháp HHT(-0,1) có sai số chấp nhận được;
- Hệ kết cấu ứng xử hoàn toàn phi tuyến ở
tầng từ 1 đến 4, tầng 5 vẫn trong giai đoạn đàn
hồi tuyến tính.
Do hệ kết cấu ở ví dụ này có số bậc tự do
thấp, khối lượng các tầng bằng nhau, độ cứng
các tầng tương đương cho nên điều kiện ổn định
của phương pháp NEM được thỏa mãn dễ dàng,
dẫn đến phương pháp này đã được sử dụng rất
hiệu quả biểu hiện qua thời gian tính toán bằng
phương pháp NEM chỉ bằng khoảng một nửa so
với thời gian tính toán của hai phương pháp còn
lại. Điều này được giải thích là do trong mỗi bước
tính toán, NEM là phương pháp ngoại hiển thức
nên không cần sử dụng thuật toán tính lặp, vì vậy
khi cùng số bước tính toán thì tính bằng NEM
mất ít công sức hơn. Tuy nhiên, cũng cần nói
thêm rằng với những hệ kết cấu phức tạp có
nhiều bậc tự do thì khả năng có thể áp dụng
được phương pháp NEM một cách hiệu quả là
không cao do bước thời gian tính toán bị khống
chế bởi điều kiện ổn định.
Ví dụ này cũng cho thấy rằng với một hệ kết
cấu đơn giản chỉ gồm 5 bậc tự do, tuy nhiên khi
phân tích phi tuyến động cần đến gần 500 giây
(phương pháp HHT). Đây chính là một trong
những nhược điểm của những phương pháp phi
tuyến động thường dùng hiện nay, do đó cần có
yêu cầu phát triển những phương pháp tính toán
mới tiết kiệm thời gian và công sức tính toán hơn
mà vẫn đảm bảo độ chính xác của kết quả, ví dụ
như phương pháp được giới thiệu trong tài liệu
[3].
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
10 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016
Hình 7. Kết quả tính toán chuyển vị tầng ở ví dụ 2
(a) Tầng 1 (b) Tầng 2
(c) Tầng 3 (d) Tầng 4
(e) Tầng 5
Hình 8. Quan hệ giữa chuyển vị - lực cắt tầng (đơn vị: kN-cm)
2.3 Ví dụ 3: Hệ kết cấu có xét đến hiệu ứng phi tuyến hình học
Xét hệ khung thép hai tầng có kích thước và số hiệu thanh, số hiệu nút như trong hình 9. Cột và
dầm khung đều có tiết diện chữ I với kích thước cột và dầm như sau:
Cột: thanh 1, 2, 3, 4: ( )b = 10 h = 15 t = 1 w = 0,5 cmf
Dầm: thanh 5, 6: ( )b = 15 h = 30 t = 1,5 w = 1 cmf
(5)
Mô-đun đàn hồi của vật liệu thép E = 200000
MPa. Khối lượng mỗi tầng bằng 10 tấn, chia đều
cho hai nút ở hai đầu cột (chia vào các nút 2 ,3,
5, 6 mỗi nút 5 tấn).
Tải trọng tác dụng lên hệ kết cấu gồm có tải
trọng thẳng đứng để tạo hiệu ứng P-∆ và tải trọng
ngang. Tải trọng đứng gồm có lực P = 100 tấn
tác dụng vào nút 3 và 6 và phần tải trọng bản
thân do khối lượng các tầng gây ra. Tải trọng
ngang là chuyển vị nền với gia tốc có dạng hình
sin như sau:
( ) 2a =10×sin πt (m / s )g
(6)
Căn cứ vào các thông số đầu vào, chu kỳ dao
động thứ 1 của hệ kết cấu tính được T1 = 0,663
giây, chu kỳ dao động cao nhất của hệ là chu kỳ
thứ 12 (hệ có 12 bậc tự do khi phân tích phẳng)
tính được là T12 = 0,020 giây.
Để xem xét riêng ảnh hưởng của hiệu ứng bậc
hai P-∆, giả thiết rằng sau khi biến dạng vật liệu
của khung vẫn làm việc đàn hồi tuyến tính.
Bước thời gian tính toán ∆t nếu phân tích
bằng phương pháp NEM để thỏa mãn điều kiện
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 11
ổn định sẽ là ∆t ≤ 0,006 giây, do đó chỉ chọn
phương pháp HHT(0) và HHT(-0,1) để phân tích.
Bước thời gian tính toán được chọn là 0,01 giây.
Kết quả tính toán chuyển vị của tầng 1 (nút 2)
và tầng 2 (nút 3) với hai trường hợp có và không
kể đến hiệu ứng P-∆ được thể hiện trong hình 10.
Với trường hợp không kể đến hiệu ứng P-∆, hệ
được tính toán bằng phương pháp tách dạng dao
động (chọn ô Modal trong phần Time History
Type ở cửa sổ Load Case Data). Để chọn tính
toán với hiệu ứng P-∆ thì cần đánh dấu vào ô P-
Delta Plus Large Displacement (hiệu ứng P-∆ và
chuyển vị lớn) trong cửa sổ Load Case Data.
3
0
0
0
3
0
0
0
2
1
4
3
h
Hình 9. Hệ khung thép hai tầng
Hình 10. Kết quả tính toán chuyển vị tầng ở ví dụ 3
Cũng như kết quả ở ví dụ 1 và 2, kết quả tính
toán bằng phương pháp HHT(-0,1) có chút sai số
so với kết quả tính toán bằng phương pháp
HHT(0). Kết quả tính toán cũng cho thấy rằng với
hệ kết cấu này, hiệu ứng P-∆ làm chuyển vị của
tầng tăng lên khoảng 1,6 lần (32,4 cm so với 19,3
KẾT CẤU – CÔNG NGHỆ XÂY DỰNG
12 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016
cm ở tầng 2 và 18,0 cm so với 11,2 cm ở tầng 1).
Trong tiêu chuẩn thiết kế chống động đất hiện
hành của Việt Nam [4] có quy định về việc sử
dụng hệ số ứng xử q để xem xét để khả năng làm
việc phi tuyến của hệ kết cấu khi kết cấu được
phân tích bằng phương pháp phổ phản ứng đàn
hồi. Ví dụ này cho thấy có thể ứng dụng phân tích
phi tuyến động bằng SAP 2000 để tìm hệ số ứng
xử q cho các trường hợp mà tiêu chuẩn chưa có
quy định rõ ràng.
3. Kết luận
Bài báo (phần 1 và 2) đã giới thiệu đặc điểm
và phạm vi của các phương pháp phân tích phi
tuyến động được tích hợp sẵn trong phần mềm
SAP 2000. Phần 1 trình bày đặc điểm của cả
năm phương pháp, tuy nhiên, chỉ hai phương
pháp được khuyến nghị áp dụng trong phạm vi
tính toán thông thường là phương pháp Newmark
và phương pháp Hilber – Hughes – Taylor với ba
trường hợp tính khác nhau như trình bày trong
phần 2.
Bài báo (phần 2) đã giải thích ý nghĩa các
thông số cơ bản của chương trình SAP 2000 khi
phân tích động phi tuyến kết cấu, đồng thời đã
trình bày các ví dụ để làm rõ đặc điểm của các
phương pháp phân tích động phi tuyến tích hợp
sẵn trong SAP 2000. Với các hệ kết cấu có số
bậc tự do thấp, tần số dao động của dạng dao
động cao nhất không lớn, có thể sử dụng phương
pháp NEM để tiết kiệm thời gian phân tích. Sử
dụng phương pháp HHT(0) – phương pháp mặc
định trong SAP 2000 – là phù hợp cho phần lớn
các trường hợp tính toán thông thường. Trong
một số trường hợp tính, việc giảm giá trị hệ số α
trong khoảng [-1/3, 0] nhằm loại bỏ ảnh hưởng
của các dạng dao động bậc cao để tăng khả
năng hội tụ khi tính lặp và giảm thời gian tính
toán có thể được áp dụng. Việc giảm giá trị hệ số
α làm giảm độ chính xác trong kết quả tính, tuy
nhiên, sai số nhìn chung có thể chấp nhận được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] T. N. Cường (2016), "Các phương pháp phân
tích động phi tuyến kết cấu theo lịch sử thời gian
trong SAP 2000 (phần 1)", Tạp chí Khoa học
Công nghệ Xây dựng, số 1.
[2] Computers and Structures, “SAP2000 Watch and
Learn,” [Trực tuyến]. Available:
tch-and-learn. [Đã truy cập 1 1 2016].
[3] A. K. Chopra (1995), Dynamics of structures:
theory and applications to earthquake
engineering, Englewood Cliffs, N.J.
[4] R. W. Clough and J. Penzien (1975), Dynamics
of Structures, New York: McGraw-Hill.
[5]. T. J. Hughes (1987), The Finite Element Method,
Toronto, Canada: General Publishing Company
Ltd.
[6]. S.-Y. Chang, T. N. Cường (2015), "Phương
pháp phân tích động phi tuyến kết cấu theo lịch
sử thời gian không có điều kiện ổn định", Tạp chí
Khoa học Công nghệ Xây dựng, vol. 4, pp. 3-11.
[7]. TCVN 9386:2012 (2012), Thiết kế công trình
chịu động đất, Nhà xuất bản Xây dựng, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 12/01/2016.
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 20/6/2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1469173928tranngoccuong_6615.pdf