Thứ nhất, sửa đổi quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 81 Luật QLNT 2017 là:
“BTBCT có thể chấp nhận, không chấp nhận
hoặc đề nghị điều chỉnh nội dung cam kết trên
cơ sở lấy ý kiến của tổ chức, cá nhân đại diện
cho ngành sản xuất trong nước và đề nghị của
CQĐT”. Việc sửa đổi này đảm bảo quy định
này đúng với thẩm quyền của Bộ Công
Thương được xác định tại khoản 2 Điều 6
Luật QLNT 2017 và phù hợp với nhiệm vụ
quyền hạn của CQĐT theo quy định tại Điều
73 Luật QLNT 2017. Trong đó, CQĐT chính
là cơ quan của Bộ Công Thương, giúp Bộ
Công Thương thực hiện hoạt động điều tra
các hoạt động thương mại có thể ảnh hưởng
đến ngành sản xuất trong nước.
Thứ hai, pháp luật cần tạo điều kiện
cho việc tăng khả năng áp dụng cam kết.
Theo quy định tại Điều 8.3 của Hiệp định
ADA thì: “Cam kết giá được đưa ra có thể
không được chấp nhận nếu như các cơ quan
có thẩm quyền xét thấy việc chấp nhận đó
không mang tính thực tế Nếu như trường
hợp đó xảy ra và nếu như có thể thực hiện
được, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cho các
nhà xuất khẩu biết lý do tại sao họ lại coi
việc chấp nhận đề nghị đó là không thích
hợp và trong chừng mực có thể sẽ tạo cơ hội
cho các nhà xuất khẩu được phản biện”. Rõ
ràng quy định của Hiệp định ADA đã mở ra
cơ hội cho bên đưa ra cam kết có sự giải
trình, phản biện và nếu sau những giải trình,
phản biện được xác định là hợp lý thì có thể
cam kết vẫn được chấp nhận. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, theo quy định tại khoản 1 Điều 39
Nghị định số 10/2018/NĐ-CP thì: “Căn cứ
báo cáo của CQĐT, BTBCT xem xét ban
hành quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận cam kết của Bên đề nghị. Trường hợp
không chấp nhận cam kết của Bên đề nghị,
BTBCT phải thông báo lý do không chấp
nhận cam kết”. Có nghĩa là về nguyên tắc,
cam kết sẽ không được thực hiện, chấp nhận
sau khi BTBCT xác định và thông báo lý do.
Bên cam kết sẽ không có cơ hội giải trình,
phản biện. Điều này là chưa hợp lý nên
chúng tôi kiến nghị bổ sung nội dung “bên
cam kết có thể phản biện, trình bày quan
điểm với những lý do được BTBCT nêu
trong quyết định không chấp nhận cam kết”
để BTBCT xem xét lại quyết định của mình.
Tuy nhiên, thời gian để bên cam kết đưa ra
phản biện, quan điểm về các lý do bị từ chối
là phải trong thời gian hợp lý thì việc phản
biện này mới được BTBCT xem xét. Quy
định này sẽ vừa tăng cao khả năng được
chấp nhận cam kết cũng như giảm thiểu các
chi phí cho các bên trong việc thực hiện các
công việc khác trong việc điều tra này. Tuy
vậy, cần quy định rõ ý kiến phản biện của
bên Cam kết phải gửi lại cho BTBCT trước
khi kết thúc điều tra để ra kết luận cuối cùng
trong một khoảng thời gian hợp lý, để
BTBCT xem xét và ra quyết định cuối cùng
là chấp nhận hay không chấp nhận cam kết.
Thứ ba, pháp luật cần giải thích rõ từ
“giá cam kết” và nơi tồn tại “giá cam kết”.
Trong đó, pháp luật cần xác định rõ: i) giá
cam kết là mức giá mà bên cam kết cần phải
xác định trong cam kết gửi đến CQĐT để
nhằm cam kết về mức giá sẽ áp dụng cho
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam trong thời
gian xác định, và ii) quy định tại khoản 2
Điều 38 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP cần
được xác định rõ là cần có giá cam kết và
xác định mối liên hệ giữa giá cam kết và giá
tham chiếu. Quy định này nhằm đảm bảo
tính công khai, minh bạch và tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình áp dụng BPCBPG.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các quy định của pháp luật về cam kết loại trừ bán phá giá và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cam kết về giá (price undertaking) làmột trong các biện pháp có thể đượcáp dụng trong pháp luật về chống
bán phá giá (CBPG)1. Đây là một biện pháp
đem lại nhiều ưu điểm cho những chủ thể
liên quan như: i) giảm thiểu chi phí cho quá
trình tiếp tục thực hiện hoạt động điều tra để
xác định chính xác biên độ phá giá của
những nhà sản xuất xuất khẩu hàng hóa; ii)
giảm thiểu được thiệt hại của các nhà xuất
khẩu hàng hóa vì có thể họ sẽ bị áp dụng
mức thuế chống phá giá cao hơn khi nước
nhập khẩu hoàn tất đợt điều tra; iii) việc áp
dụng cam kết đủ để hạn chế những tổn thất
xảy ra cho ngành sản xuất trong nước2. Vì
vậy, có những thời điểm mà cam kết về giá
103Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1 Điều 8.5 của Hiệp định về chống bán phá giá (viết tắt là ADA).
2 Vivian C. Jones (2010), Trade Remedies and the WTO Rules Negotiations, Congressional Research Service,
p. 24 theo https://pdfs.semanticscholar.org/4995/5eabb2731c3c3ecc0515c3a8abb814c71cde.pdf, truy cập
ngày 23/01/2020.
các quy ĐỊnh của PháP luẬt về
cam KẾt loẠi trỪ Bán Phá giá và KiẾn nghỊ
Phan Phương Nam*
kim Thị hạnh**
* TS. Phó Trưởng Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
** ThS. NCS. Phó trưởng Ban thường trực Ban Văn hóa – Xã hội HĐND tỉnh Tây Ninh.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Chống bán phá giá, cam
kết về giá, quản lý ngoại thương.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 03/01/2020
Biên tập : 08/01/2020
Duyệt bài : 11/01/2020
Article Infomation:
Keywords: anti-dumping, price
undertaking, foreign trade
management.
Article History:
Received : 03 Jan. 2020
Edited : 08 Jan. 2020
Approved : 11 Jan. 2020
Tóm tắt:
Bài viết phân tích, chỉ ra những hạn chế liên quan đến việc cam kết
về giá trong pháp luật chống bán phá giá. Trên cơ sở đó, bài viết
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định cam kết về
giá sẽ được thực hiện có hiệu quả và phát huy rõ hơn vai trò của nó
trong hoạt động chống bán phá giá.
Abstract:
This article provides analysis of and shortcoming in the rules
on price undertaking in the legal regulation on anti-dumping. Then,
the article also provides a number of recommendations to improve
the rules on the price undertaking so that they will be enforced
effectively and to better enrich its role in anti-dumping.
đã chiếm tỷ trọng rất lớn trong các cuộc điều
tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá3. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp cam
kết về giá không được sử dụng nhiều trong
thời gian gần đây, có nhiều lý do, trong đó
có lý do biện pháp cam kết giá có thể gây
nên sự lẩn tránh thuế của nhà xuất khẩu4.
Tuy vậy, rõ ràng cam kết giá cũng có vai trò
nhất định trong việc áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá, nhằm hạn chế những
thiệt hại bởi việc bán phá giá cho ngành sản
xuất trong nước của quốc gia nhập khẩu. Vì
vậy, việc nghiên cứu nội dung này cũng là
một yêu cầu cấp thiết và quan trọng cho quá
trình hoàn thiện các quy định của pháp luật
về phòng vệ thương mại nói riêng và các quy
định của pháp luật về quản lý hoạt động
ngoại thương của Việt Nam nói chung.
1. Thực trạng quy định của pháp luật Việt
Nam về cam kết loại trừ bán phá giá
Vai trò của cam kết loại trừ bán phá giá
(cam kết) là điều khó phủ nhận trong việc áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá. Bởi
lẽ, đôi khi có sự cam kết, các vấn đề liên
quan đến việc áp dụng biện pháp chống bán
phá giá (BPCBPG) cũng trở nên đơn giản và
hiệu quả hơn. Cam kết vừa tạo điều kiện cho
bên sản xuất, bên xuất khẩu hàng hóa (bên
cam kết) có thể khắc phục hành vi bán phá
giá của mình, thể hiện sự thiện chí, hợp tác
với quốc gia nhập khẩu hàng hóa5 vừa giúp
cho cơ quan điều tra (CQĐT) có thêm các
thông tin để từ đó thực hiện các hoạt động
liên quan trong công tác điều tra.
Hiện nay, ở Việt Nam, cam kết về loại
trừ bán phá giá trong các BPCBPG được quy
định trong Luật Quản lý ngoại thương năm
2017 (Luật QLNT)6; Nghị định số
10/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính
Phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật
quản lý ngoại thương về các biện pháp
phòng vệ thương mại (Nghị định số
10/2018/NĐ-CP) và Thông tư số
37/2019/TT-BCT ngày 29/11/2019 của Bộ
Công thương ban hành Quy định chi tiết một
số nội dung về các biện pháp phòng vệ
thương mại (Thông tư số 37/2019/TT-BCT).
Về cơ bản, những quy định về cam kết
trong Luật QLTN và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã có nhiều tiến bộ hơn so với các
quy định trong Pháp lệnh số 20/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 29/04/2004 của
UBTVQH về việc chống bán phá giá hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Điều này được thể hiện
qua các nội dung sau:
Thứ nhất, các quy định trong Luật
QLTN và các văn bản hướng dẫn thi hành
đã có những quy định chi tiết hơn, rõ ràng
hơn về cam kết về giá. Theo đó, các nội dung
của cam kết được thiết kế hợp lý hơn, các cơ
sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp
nhận hay từ chối cam kết cũng đã được nêu
ra phù hợp hơn. Điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Số 2+3(402+403) - T1+2/2020104 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
3 Nghiên cứu của Tharakan đã cho thấy trong số 249 trường hợp điều tra chống bán phá giá trong giai đoạn
1980 -1987 đã có đến 72% trường hợp bị chấm dứt do áp dụng cam kết trong EEC. Xem Tharakan (1991),
The political economy of anti-dumping undertakings in the European communities, European Economic
Review Volume 35, Issue 6, August 1991, pp.1341-1359.
Theo nghiên cứu của Zanardi và Maurizio cho thấy từ năm 1981 đến năm 2001, khoảng 40% các vụ kiện
chống bán phá giá tại EU đã được giải quyết bằng các cam kết về giá. Xem Zanardi và Maurizio (2004),
Anti-dumping: What are the Numbers to Discuss at Doha?, The World Economy, Wiley Blackwell, vol.
27(3), p.425.
4 Shih-Jye Wu, Yang-Ming Chang, Hung-Yi Chen (2014), Antidumping duties and price undertakings:
A welfare analysis, International Review of Economics and Finance, 29(2014), pp.97-107.
5 Armin Steinbach (2014), Price Undertakings in EU Anti-dumping Proceedings — An Instrument of the
Past?, Journal of Economic Integration, Vol. 29, No. 1 (March 2014), pp. 165-187 (23 pages), pp.179.
6 Điểm b, khoản 3, Điều 77 Luật QLNT 2017.
trong việc xem xét và chấp nhận hay không
chấp nhận cam kết này. Theo đó, về cơ bản,
pháp luật Việt Nam cũng xác định rõ cam kết
về giá là quyền, không phải là nghĩa vụ của
bên cam kết. Cam kết đó thể hiện sự thiện
chí, sự mong muốn tự ràng buộc mình của
bên cam kết với cơ quan điều tra về mức giá
nhất định để đảm bảo rằng mức giá đó có
khả năng khắc phục được thiệt hại đáng kể
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, để
xem xét cam kết, cơ quan điều tra, không chỉ
xem xét yếu tố giá cam kết có khả năng khắc
phục được thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây
ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước, mà còn xem xét nhiều yếu tố khác liên
quan như: cơ chế quản lý hiện tại có thể
giám sát hiệu quả việc thực hiện cam kết;
khả năng lẩn tránh biện pháp chống bán phá
giá thông qua cam kết;7
Thời điểm xuất hiện quyền đưa ra cam
kết về giá cũng như việc xem xét có chấp
nhận hay không chấp nhận cam kết về giá là
sau khi Bộ trưởng Bộ Công Thương
(BTBCT) quyết định áp dụng biện pháp
chống bán phá giá, chống trợ cấp tạm thời
và chậm nhất 30 ngày trước khi kết thúc giai
đoạn điều tra8. Điều này là hoàn toàn phù
hợp với quy định tại khoản 8.2 của ADA9
bởi đây là thời điểm đã xác định là có những
yếu tố nhất định của hành vi bán phá giá vào
Việt Nam nhưng chưa có kết luận cuối cùng
nên có thể chấp nhận cho phép nhà nhập
khẩu đưa ra cam kết.
Khi đã xem xét, cơ quan điều tra sẽ
báo cáo để BTBCT ra quyết định có chấp
nhận cam kết về giá hay không? Theo ADA,
khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã chấp
nhận cam kết thì việc điều tra có thể chấm
dứt trừ khi nhà xuất khẩu muốn và cơ quan
có thẩm quyền vẫn mong muốn tiếp tục hoàn
tất quá trình điều tra về bán phá giá và việc
xác định thiệt hại sẽ vẫn được hoàn thành10.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt
Nam, sau khi chấp nhận cam kết về giá, việc
tiếp tục điều tra là đương nhiên, không phụ
thuộc việc nhà xuất khẩu muốn hay không
muốn. Đây có thể xem là ưu điểm của pháp
luật Việt Nam vì lý do sau:
Một là, trong trường hợp nhà xuất
khẩu chấm dứt cam kết, việc tiếp tục điều tra
để có kết luận cuối cùng sẽ là cơ sở rất tốt
cho Chính phủ. Bởi lẽ, cam kết về giá là
quyền của nhà xuất khẩu nên họ có thể chấm
dứt cam kết bất kỳ thời điểm nào. Khi đó,
Chính phủ hoàn toàn có đủ dữ liệu, chứng
cứ để xác định biên độ phá giá và áp dụng
các biện pháp chống phá giá khác một cách
có hiệu quả11.
Hai là, việc tiếp tục điều tra để có kết
luận cuối cùng đôi khi nhằm đảm bảo cả lợi
ích của nhà xuất khẩu. Bởi lẽ, khi có kết luận
chính thức là không có hành vi bán phá giá,
BTBCT sẽ quyết định chấm dứt vụ việc và
chấm dứt thực hiện cam kết12.
Thứ hai, các quy định của pháp luật
hiện hành đã thể hiện rõ nét hơn yêu cầu
công khai, minh bạch của thông tin trên cơ
105Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
7 Xem thêm khoản 4 điều 38 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
8 Xem thêm khoản 1 Điều 38 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
9 Khoản 8.2 của ADA quy định: “8.2 Không được phép yêu cầu hoặc chấp nhận cam kết về giá của các nhà
xuất khẩu trừ khi các cơ quan có thẩm quyền của Thành viên nhập khẩu đã có quyết định sơ bộ khẳng định
có việc bán phá giá và có tổn hại do việc bán phá giá đó gây ra”.
10 Xem thêm khoản 8.4 của ADA.
11 Điều 43 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP quy định: “Điều 43. Áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống
trợ cấp sau khi hủy bỏ thực hiện cam kết
12 Trong trường hợp việc hủy bỏ thực hiện cam kết thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 42 của Nghị định
này, Bộ trưởng Bộ Công Thương có quyền quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp
chính thức dựa trên thông tin sẵn có và áp dụng trở về trước đối với hàng hóa của Bên đề nghị cam kết vi
phạm cam kết.
sở quy định: “Cơ quan điều tra (CQĐT)
thông báo công khai nội dung cam kết cho
các bên liên quan”13. Theo đó, các bên liên
quan có quyền gửi ý kiến bình luận bằng văn
bản trong thời hạn được quy định trong
thông báo. Quy định trên còn thể hiện tính
dân chủ để lắng nghe ý kiến đa chiều từ các
bên liên quan. Trên cơ sở đó và các quy định
của pháp luật liên quan, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền sẽ quyết định chấp nhận hay
không chấp nhận cam kết.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích
cực trên, các quy định về nội dung này vẫn
còn một số điểm hạn chế cần xem xét:
Thứ nhất, quy định về cơ quan có thẩm
quyền quyết định việc chấp nhận hay không
chấp nhận cam kết của bên liên quan còn
chưa logic. Theo điểm b khoản 2 Điều 81
Luật QLNT 2017 quy định chủ thể có thể
chấp nhận, không chấp nhận hoặc đề nghị
điều chỉnh nội dung cam kết trên cơ sở lấy ý
kiến của tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành
sản xuất trong nước, là CQĐT. Điều này
mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 39
Nghị định số 10/2018/NĐ-CP là: “BTBCT
xem xét ban hành quyết định chấp nhận hoặc
không chấp nhận cam kết của Bên đề nghị”.
Về lý luận, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP là
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật QLNT
2017 nên việc quy định tại khoản 1 Điều 39
của Nghị định là trái với quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 81 Luật QLNT 2017. Như vậy,
theo Luật Ban hành văn bản quy pháp luật14
thì quy định tại khoản 1 Điều 39 Nghị định
số 10/2018/NĐ-CP là không có hiệu lực.
Tuy nhiên, rõ ràng quy định tại điểm b khoản
2 Điều 81 Luật QLNT 2017 là chưa phù hợp.
Vì theo Điều 73, khoản 2 Điều 6 Luật QLNT
2017 xác định rất rõ là “Bộ Công Thương là
cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về ngoại thương” và có
những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định
cụ thể. Điều 73 Luật QLNT 2017 cũng quy
định rõ rằng: “CQĐT do Chính phủ thành
lập thuộc cơ cấu tổ chức của Bộ Công
Thương” và với những nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại khoản 2 Điều 73 này càng
làm sáng tỏ vai trò giúp việc, hỗ trợ Bộ Công
thương của CQĐT. Do vậy, theo logic trên,
CQĐT chỉ là cơ quan tham mưu còn cơ quan
có thẩm quyền chính thức về vấn đề này phải
là BTBCT.
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa tạo
điều kiện cho việc tăng khả năng áp dụng
cam kết. Vẫn biết rằng cam kết là ý chí đơn
phương của bên cam kết và cần được sự
chấp nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trên cơ sở cân nhắc tính hợp lý của
cam kết, có loại trừ các thiệt hại từ hoạt động
bán phá giá cũng như làm cho hoạt động này
không còn đạt tới mức độ cần phải áp dụng
các BPCBPG. Mặt khác, các quy định của
ADA cũng đang khuyến khích các nước
thành viên có thể tăng khả năng áp dụng
được các cam kết nhằm giảm thiểu chi phí
cho hoạt động điều tra, hạn chế tác động tiêu
cực của việc bán phá giá thông qua quy định:
“trong chừng mực có thể sẽ tạo cơ hội cho
các nhà xuất khẩu được phản biện”15. Bởi vì,
có thể đôi khi cơ quan có thẩm quyền chưa
Số 2+3(402+403) - T1+2/2020106 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
13 Trong trường hợp việc hủy bỏ thực hiện cam kết thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 42
của Nghị định này, việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp việc hủy bỏ cam kết diễn ra trong giai đoạn biện pháp chống bán phá giá, chống trợ
cấp tạm thời đang được áp dụng, Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hủy bỏ thực hiện cam kết và thông
báo cơ quan hải quan áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp tạm thời căn cứ trên kết luận sơ
bộ.
b) Trong trường hợp việc hủy bỏ cam kết diễn ra trong giai đoạn biện pháp chống bán phá giá, chống trợ
cấp chính thức đang được áp dụng, Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định hủy bỏ thực hiện cam kết và
thông báo cơ quan hải quan áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp chính thức căn cứ trên kết
luận cuối cùng”.
14 Xem điểm a khoản 3 Điều 39 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
lường hết những khía cạnh khác của cam kết
nên đã từ chối cam kết do bên cam kết đưa
ra. Tác giả cho rằng, đó là điều hợp lý mà
pháp luật Việt Nam cũng cần cân nhắc để bổ
sung quy định này trong Điều 81 Luật
QLNT 2017.
Thứ ba, thuật ngữ “giá cam kết” được
đưa vào trong các quy định về BPCBPG
nhưng không có sự giải thích sẽ gây khó
khăn cho quá trình áp dụng BPCBPG. Một
trong các trường hợp được xác định là hành
vi vi phạm cam kết được quy định tại khoản
1 Điều 41 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP là:
“Bên đề nghị cam kết xuất khẩu hàng hóa bị
điều tra vào Việt Nam thấp hơn mức giá cam
kết”. Tuy nhiên, hiểu như thế nào về giá cam
kết để xác định chính xác hành vi vi phạm
của bên đề nghị để cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đưa ra các biện pháp xử lý thích
đáng tiếp theo là vấn đề cần thiết. Có quan
điểm cho rằng việc quy định trên là không
cần thiết bởi lẽ trong các nội dung cam kết
đã có xác định một nội dung là: “giá tham
chiếu” nên theo đó có thể hiểu “giá tham
chiếu” chính là “giá cam kết”. Tuy nhiên,
điều này là không hoàn toàn chính xác, bởi
lẽ theo điểm b khoản 2 Điều 38 Nghị định
10/2018/NĐ-CP thì: “Giá tham chiếu bao
gồm giá tự xác định, mức tăng giá, phương
án điều chỉnh giá”. Như vậy, giá tham chiếu
không chỉ đơn giản là mức giá đã được xác
định cụ thể bằng một con số tuyệt đối mà
bên cam kết cam kết. Ở đây, giá tham chiếu
này còn bao hàm cả mức tăng giá, phương
án điều chỉnh giá mà bên cam kết sẽ thực
hiện trong tương lai sau thời điểm gửi cam
kết. Việc đồng nhất giữa “giá tham chiếu”
với “giá cam kết” là không hợp lý. Vì vậy,
đây là điểm hạn chế cần xem xét và điều
chỉnh để hoàn thiện quy định.
Thứ ba, về hủy bỏ thực hiện cam kết,
có những điểm bất cập sau:
Một là, việc hủy bỏ cam kết được thể
hiện dưới hình thức nào chưa được quy định
thống nhất. Điều 42 Nghị định số
10/2018/NĐ-CP quy định 3 trường hợp là cơ
sở để hủy bỏ cam kết:
“1. Bên đề nghị cam kết có hành vi vi
phạm cam kết theo quy định tại Điều 41 của
Nghị định này;
2. CQĐT đề nghị hủy bỏ thực hiện
cam kết;
3. Bên đề nghị cam kết yêu cầu hủy bỏ
cam kết. Bên đề nghị cam kết có thể yêu cầu
hủy bỏ cam kết tại bất kỳ thời điểm nào
trong thời hạn hiệu lực của cam kết với điều
kiện việc hủy bỏ phải được thông báo cho
CQĐT ít nhất 30 ngày trước khi thực hiện
hủy bỏ”.
Trong 3 trường hợp đó thì có 2 trường
hợp tại khoản 2, 3 Điều 42 Nghị định số
10/2018/NĐ-CP là việc hủy bỏ được thể
hiện bằng Quyết định của BTBCT. Tuy
nhiên, trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 42
sẽ làm cho cam kết bị hủy, nhưng bằng hình
thức gì là điều pháp luật còn bỏ ngỏ. Khi rơi
vào trường hợp này, chính cơ quan điều tra
sẽ đề nghị BTBCT ra quyết định hủy hay là
trường hợp này đương nhiên bị hủy khi có
bằng chứng chứng minh rõ ràng sự vi phạm
của bên cam kết?
Hai là, khoản 2 Điều 42 Nghị định số
10/2018/NĐ-CP quy định việc hủy bỏ thực
hiện cam kết có thể do “CQĐT đề nghị hủy”
mà không nêu rõ lý do tại sao cơ quan được
quyền hủy là không hợp lý. Vì theo đó,
CQĐT có thể đề nghị áp dụng biện pháp hủy
này một cách tùy tiện, chủ quan và điều này
sẽ tạo nên nhiều chi phí để tiếp tục thực hiện
các BPCBPG khác. Theo chúng tôi, cần xác
định cơ sở để CQĐT tiến hành hủy nhằm xác
định rõ trách nhiệm của cơ quan này trong
quyết định trên với cơ quan nhà nước cấp trên.
Có thể có quan điểm cho cho rằng, CQĐT đề
nghị khi bên cam kết có những vi phạm được
xác định tại Điều 41 Nghị định số
10/2018/NĐ-CP. Suy luận đó có vẻ là hợp lý
nhưng rõ ràng với cách quy định tại Điều 42
Nghị định số 10/2018/NĐ-CP thì việc vi phạm
Điều 41 là một trường hợp và CQĐT đề nghị
107Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
15 Khoản 6 Điều 39 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
hủy thực hiện cam kết là một trường hợp khác,
vì được quy định thành hai khoản khác nhau
tại Điều 41 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP nên
không có sự liên hệ lẫn nhau.
Thứ tư, quy định tại khoản 1 Điều 43
Nghị định số 10/2018/NĐ-CP còn bất cập.
Theo quy định thời điểm đưa ra cam kết về
nguyên tắc là luôn trước khi có kết luận
chính thức của CQĐT về việc có hay không
có việc bán phá giá ít nhất là 30 ngày. Sau
đó, BTBCT ra quyết định chấp nhận (trên cơ
sở đề nghị của CQĐT). Do vậy, có thể thời
điểm BTBCT chấp nhận cam kết là chưa có
kết luận điều tra. Đồng thời, theo quy định
tại khoản 3 Điều 39 Nghị định số
10/2018/NĐ-CP thì CQĐT vẫn tiến hành
điều tra để ra kết luận cuối cùng. Điều này
cho thấy, việc vi phạm của bên cam kết có
thể thực hiện trước hoặc sau khi có kết luận
chính thức của CQĐT. Nếu thời điểm bên
cam kết vi phạm cam kết là trước khi có kết
luận chính thức của CQĐT thì căn cứ khoản
1 Điều 43 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP,
“BTBCT có quyền quyết định áp dụng
BPCBPG chính thức dựa trên thông tin
sẵn có và áp dụng trở về trước đối với hàng
hóa của Bên đề nghị cam kết vi phạm cam
kết”. Điều này là chưa hợp lý và vi phạm
quy định của ADA vì các lý do sau:
Tại thời điểm này, CQĐT chưa có kết
luận cuối cùng, có chăng chỉ là kết luận sơ
bộ của CQĐT. Do vậy, nếu lúc này yêu cầu
BTBCT quyết định chính thức để áp dụng
biện pháp chống phá giá thì có phù hợp, và
quyết định này có đúng với biên độ phá giá
hay không?
Khoản 8.6 của ADA quy định: “Trong
trường hợp có vi phạm đối với cam kết, các
cơ quan có thẩm quyền tại Thành viên nhập
khẩu có quyền sử dụng các thông tin tốt nhất
sẵn có để nhanh chóng áp dụng các hành
động, trong đó bao gồm áp dụng ngay các
biện pháp tạm thời theo đúng các quy định
của Hiệp định này”. Như vậy, rõ ràng ADA
không có quy định rằng cơ quan nhà nước
có thẩm quyền sẽ áp dụng quyết định chính
thức mà cơ quan nhà nước trong trường hợp
này sẽ áp dụng các biện pháp tạm thời.
Thứ năm, khoản 2 Điều 39 Nghị định
số 10/2018/NĐ-CP xác định “Các quyết
định quy định tại khoản 1 Điều này phải
được công bố công khai cho các bên liên
quan bằng phương thức thích hợp” nhưng
phương thức như thế nào được coi là thích
hợp còn là vấn đề bỏ ngỏ. “Công bố công
khai các quyết định về việc điều tra, áp dụng
các biện pháp phòng vệ thương mại”16 đã
được xác định là một trong các nguyên tắc
rất quan trọng trong áp dụng các BPPVTM.
Do vậy, dù quy định của pháp luật không rõ
ràng nhưng cơ quan nhà nước khi thực hiện
vẫn phải đảm bảo sự công khai đó. Tuy
nhiên, tác giả cho rằng quy định trên sẽ tạo
nên sự lúng túng, khó áp dụng cho cơ quan
có thẩm quyền và khi cần bằng chứng chứng
minh sẽ rất khó cho cơ quan áp dụng. Cần
có những quy định cụ thể về hình thức công
bố trong các trường hợp này nhằm đảm bảo
sự minh bạch, rõ ràng cho việc áp dụng của
cơ quan nhà nước, sự giám sát của các bộ
phận khác trong quá trình áp dụng và thực
hiện các BPPVTM nói chung và BPCBPG
nói riêng.
2. kiến nghị hoàn thiện các quy định của
pháp luật về cam kết loại trừ bán phá giá
Thứ nhất, sửa đổi quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 81 Luật QLNT 2017 là:
“BTBCT có thể chấp nhận, không chấp nhận
hoặc đề nghị điều chỉnh nội dung cam kết trên
cơ sở lấy ý kiến của tổ chức, cá nhân đại diện
cho ngành sản xuất trong nước và đề nghị của
CQĐT”. Việc sửa đổi này đảm bảo quy định
này đúng với thẩm quyền của Bộ Công
Thương được xác định tại khoản 2 Điều 6
Luật QLNT 2017 và phù hợp với nhiệm vụ
quyền hạn của CQĐT theo quy định tại Điều
Số 2+3(402+403) - T1+2/2020108 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
16 Khoản 1 Điều 14 Luật Ban hành văn bản quy pháp luật năm 2015 xác định một trong các hành vi bị cấm là
“ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên”.
73 Luật QLNT 2017. Trong đó, CQĐT chính
là cơ quan của Bộ Công Thương, giúp Bộ
Công Thương thực hiện hoạt động điều tra
các hoạt động thương mại có thể ảnh hưởng
đến ngành sản xuất trong nước.
Thứ hai, pháp luật cần tạo điều kiện
cho việc tăng khả năng áp dụng cam kết.
Theo quy định tại Điều 8.3 của Hiệp định
ADA thì: “Cam kết giá được đưa ra có thể
không được chấp nhận nếu như các cơ quan
có thẩm quyền xét thấy việc chấp nhận đó
không mang tính thực tế Nếu như trường
hợp đó xảy ra và nếu như có thể thực hiện
được, các cơ quan có thẩm quyền sẽ cho các
nhà xuất khẩu biết lý do tại sao họ lại coi
việc chấp nhận đề nghị đó là không thích
hợp và trong chừng mực có thể sẽ tạo cơ hội
cho các nhà xuất khẩu được phản biện”. Rõ
ràng quy định của Hiệp định ADA đã mở ra
cơ hội cho bên đưa ra cam kết có sự giải
trình, phản biện và nếu sau những giải trình,
phản biện được xác định là hợp lý thì có thể
cam kết vẫn được chấp nhận. Tuy nhiên, ở
Việt Nam, theo quy định tại khoản 1 Điều 39
Nghị định số 10/2018/NĐ-CP thì: “Căn cứ
báo cáo của CQĐT, BTBCT xem xét ban
hành quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận cam kết của Bên đề nghị. Trường hợp
không chấp nhận cam kết của Bên đề nghị,
BTBCT phải thông báo lý do không chấp
nhận cam kết”. Có nghĩa là về nguyên tắc,
cam kết sẽ không được thực hiện, chấp nhận
sau khi BTBCT xác định và thông báo lý do.
Bên cam kết sẽ không có cơ hội giải trình,
phản biện. Điều này là chưa hợp lý nên
chúng tôi kiến nghị bổ sung nội dung “bên
cam kết có thể phản biện, trình bày quan
điểm với những lý do được BTBCT nêu
trong quyết định không chấp nhận cam kết”
để BTBCT xem xét lại quyết định của mình.
Tuy nhiên, thời gian để bên cam kết đưa ra
phản biện, quan điểm về các lý do bị từ chối
là phải trong thời gian hợp lý thì việc phản
biện này mới được BTBCT xem xét. Quy
định này sẽ vừa tăng cao khả năng được
chấp nhận cam kết cũng như giảm thiểu các
chi phí cho các bên trong việc thực hiện các
công việc khác trong việc điều tra này. Tuy
vậy, cần quy định rõ ý kiến phản biện của
bên Cam kết phải gửi lại cho BTBCT trước
khi kết thúc điều tra để ra kết luận cuối cùng
trong một khoảng thời gian hợp lý, để
BTBCT xem xét và ra quyết định cuối cùng
là chấp nhận hay không chấp nhận cam kết.
Thứ ba, pháp luật cần giải thích rõ từ
“giá cam kết” và nơi tồn tại “giá cam kết”.
Trong đó, pháp luật cần xác định rõ: i) giá
cam kết là mức giá mà bên cam kết cần phải
xác định trong cam kết gửi đến CQĐT để
nhằm cam kết về mức giá sẽ áp dụng cho
hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam trong thời
gian xác định, và ii) quy định tại khoản 2
Điều 38 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP cần
được xác định rõ là cần có giá cam kết và
xác định mối liên hệ giữa giá cam kết và giá
tham chiếu. Quy định này nhằm đảm bảo
tính công khai, minh bạch và tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình áp dụng BPCBPG.
Thứ tư, cần hủy bỏ khoản 1 Điều 43
Nghị định số 10/2018/NĐ-CP. Theo đó,
Điều 43 của Nghị định được sửa lại như sau:
“Trong trường hợp việc hủy bỏ thực hiện
cam kết thực hiện theo quy định tại Điều 42
của Nghị định này, việc áp dụng biện pháp
chống bán phá giá, chống trợ cấp thực hiện
như sau:
1. Trong trường hợp việc hủy bỏ cam
kết diễn ra trong giai đoạn BPCBPG, chống
109Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
17 Khoản 8.3 của ADA quy định: “Cam kết giá được đưa ra có thể không được chấp nhận nếu như các cơ quan
có thẩm quyền xét thấy việc chấp nhận đó không mang tính thực tế, ví dụ như vì lý do số lượng các nhà
xuất khẩu thực sự hoặc tiềm năng quá lớn hoặc vì các lý do khác, bao gồm cả các lý do liên quan đến chính
sách chung. Nếu như trường hợp đó xảy ra và nếu như có thể thực hiện được, các cơ quan có thẩm quyền
sẽ cho các nhà xuất khẩu biết lý do tại sao họ lại coi việc chấp nhận đề nghị đó là không thích hợp và trong
chừng mực có thể sẽ tạo cơ hội cho các nhà xuất khẩu được phản biện”.
18 Khoản 3 Điều 68 Luật QLNT 2017.
trợ cấp tạm thời đang được áp dụng, BTBCT
quyết định hủy bỏ thực hiện cam kết và
thông báo cơ quan hải quan áp dụng
BPCBPG, chống trợ cấp tạm thời căn cứ trên
kết luận sơ bộ.
2. Trong trường hợp việc hủy bỏ cam
kết diễn ra trong giai đoạn BPCBPG, chống
trợ cấp chính thức đang được áp dụng,
BTBCT quyết định hủy bỏ thực hiện cam kết
và thông báo cơ quan hải quan áp dụng
BPCBPG, chống trợ cấp chính thức căn cứ
trên kết luận cuối cùng”.
Việc sửa đổi này nhằm làm cho quy
định trở nên rõ ràng, chính xác hơn. Theo đó,
việc cam kết bị hủy bỏ nhưng vẫn có thể tiếp
tục thực hiện các giai đoạn trong quy trình
điều tra CBPG và không ảnh hưởng, không
sai với các quy định trong ADA.
Thứ năm, pháp luật cần xác định rõ
các “phương thức thích hợp” được sử dụng
để công bố công khai các quyết định về chấp
nhận hay từ chối cam kết cho các bên liên
quan là phương thức nào? Theo tác giả, cần
thay cụm từ “phương thức thích hợp” bằng
cụm từ “bằng văn bản” sẽ hay và chính xác
hơn. Bởi lẽ, nội dung này không cần phải
công bố công khai trên các phương tiện
truyền thông đại chúng, nhất là trong trường
hợp từ chối vì phải nêu rõ cả lý do từ chối.
Nhưng việc công bố thông tin này cần phải
minh bạch nên thay vì quy định chung chung
là “phương thức thích hợp” thì thay bằng
cụm từ “bằng văn bản” để chỉ rõ là tất cả đều
có bằng chứng chứng minh việc từ chối hay
chấp nhận, lý do từ chối để các bên liên
quan có thể nắm bắt rõ các nội dung trong
các quyết định về cam kết này n
Số 2+3(402+403) - T1+2/2020110 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
TàI lIệu ThAM khảo:
1. Tổ chức Thương mại Thế giới, Hiệp định về việc thực thi Điều VI của Hiệp định chung
về Thuế quan và Thương mại 1994.
2. Armin Steinbach (2014), Price Undertakings in EU Anti-dumping Proceedings — An
Instrument of the Past?, Journal of Economic Integration, Vol. 29, No. 1 (March 2014),
pp. 165-187.
3. Shih-Jye Wu, Yang-Ming Chang, Hung-Yi Chen (2014), Antidumping duties and price
undertakings: A welfare analysis, International Review of Economics and Finance,
29(2014), pp. 97-107.
4. Tharakan (1991), The political economy of anti-dumping undertakings in the European
communities, European Economic Review Volume 35, Issue 6, August 1991, pp.1341-
1359.
5. Vivian C. Jones (2010), Trade Remedies and the WTO Rules Negotiations, Congressional
Research Service, p. 24 According to https://pdfs.semanticscholar.org/4995/
5eabb2731c3c3ecc0515c3a8abb814c71cde.pdf, accessed January 23, 2020.
6. Zanardi và Maurizio (2004), Anti-dumping: What are the Numbers to Discuss at Doha?,
The World Economy, Wiley Blackwell, vol. 27(3), pp.403-433.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_quy_dinh_cua_phap_luat_ve_cam_ket_loai_tru_ban_pha_gia_v.pdf