Về phân chia lợi nhuận cho các
thành viên góp vốn
Theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, lợi nhuận được chia hằng năm cho
các thành viên góp vốn được xác định tương
ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công
ty nhưng các thành viên hợp danh được chia
lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp hoặc
theo thỏa thuận quy định tại Điều lệ công
ty11. Như vậy, Điều lệ công ty có thể quy
định cách thức phân chia lợi nhuận khác cho
thành viên hợp danh phù hợp với hoạt động
kinh doanh cũng như các điều kiện cụ thể
của doanh nghiệp12. Cách quy định này của
Luật Doanh nghiệp đang gây bất lợi cho
thành viên góp vốn. Bởi lẽ, nếu các thành
viên hợp danh thỏa thuận chia lợi nhuận theo
Điều lệ công ty và số tiền được chia cho mỗi
thành viên hợp danh có thể nhiều hơn số tiền
được xác định theo tỷ lệ vốn góp, các thành
viên góp vốn có thể bác bỏ cách chia đó
không? Điều này rất khó thực hiện bởi vì
việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty cơ bản
thuộc về quyền của thành viên hợp danh
(được ít nhất ba phần tư số thành viên hợp
danh đồng ý). Đặc biệt, trước lúc gia nhập
CTHD, các bên đã thỏa thuận chia theo tỷ lệ
vốn góp nhưng sau một thời gian, CTHD
làm ăn phát đạt, các thành viên hợp danh
thay đổi cách chia lợi nhuận theo ý chí chủ
quan của họ. Điều này có thể dẫn tới việc lợi
nhuận được chia cho các thành viên góp vốn
ít hơn số tiền đáng lẽ họ được hưởng nếu
tính theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
182 Luật Doanh nghiệp. Trong khi đó, vốn
điều lệ của CTHD có thể được hình thành từ
hai nguồn là vốn góp của thành viên hợp
danh và vốn góp của thành viên góp vốn. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng, khi phân chia lợi
nhuận cũng nên phân chia thành hai nguồn
như vậy, tương ứng với tỷ lệ vốn góp của các
thành viên. Giả sử, CTHD H gồm có 2 thành
viên hợp danh A và B với số vốn góp chiếm
tỷ lệ 70% vốn điều lệ, hai thành viên góp vốn
C, D chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ. Cuối năm
2018, CTHD H lợi nhuận ròng 1 tỷ đồng thì
thành viên A, B sẽ được chia lợi nhuận 700
triệu còn C, D được 300 triệu. Trong phần
700 triệu, hai thành viên hợp danh được
quyền tự thỏa thuận cách chia dựa trên công
sức đóng góp của mỗi người.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các quy định về công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp năm 2014: Bất cập và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công ty hợp danh (CTHD) là loại hìnhdoanh nghiệp ra đời từ rất sớm trênthế giới. Ở Việt Nam, mô hình này
xuất hiện cùng với quá trình thực dân Pháp
xâm lược nước ta vào thế kỷ XIX1. Mãi cho
đến khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 ra đời
thì mô hình CTHD mới ghi nhận rõ ràng
trong luật. Từ đó đến nay, CTHD hầu như
không mấy phát triển ở Việt Nam. Số lượng
thành lập mới của CTHD trên thị trường Việt
Nam rất ít, chiếm khoảng 0,03% so với công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, 0,1%
so với công ty cổ phần. Xét về vốn và người
lao động thì CTHD cũng xếp vị trí thấp
nhất2. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có nguyên nhân là
65Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1 Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.241-242.
2 https://dangkykinhdoanh.gov.Việt Nam/Việt Nam/tin-tuc/598/4337/tinh-hinh-chung-ve-dang-ky-doanh-
nghiep—thang-12-va-nam-2017.aspx, truy cập ngày 6/7/2019.
cÁc quY địnH về cÔng tY HỢp DanH
tHEo luẬt DoanH ngHiệp năm 2014: bất cẬp và KiẾn ngHị
Nguyễn Thị Ngọc uyển*
lê Nhật Bảo**
* ThS. Khoa Luật – Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn.
** ThS. Khoa Luật Thương mại - Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: công ty hợp danh, thành viên
hợp danh, thành viên góp vốn.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/01/2020
Biên tập : 12/01/2020
Duyệt bài : 14/01/2020
Article Infomation:
Keywords: partnerships, general
partner, limited partner.
Article History:
Received : 05 Jan. 2020
Edited : 12 Jan. 2020
Approved : 14 Jan. 2020
Tóm tắt:
Bài viết này tập trung phân tích những điểm còn bất cập trong
các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về công ty hợp
danh và từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định đó.
Abstract:
This article points out the inadequacies of the partnership
model in the Law on Enterprises of 2014, from which to
provide recommendations for the draft amendments of the
Law on Enterprises.
khung pháp lý điều chỉnh CTHD còn nhiều
hạn chế, bất cập cần được hoàn thiện.
1. Quy định về thành viên hợp danh
1.1. Về đối tượng có thể trở thành
thành viên hợp danh
Thành viên hợp danh là đối tượng bắt
buộc phải có trong CTHD, trực tiếp tham gia
quản lý điều hành trong CTHD. Các thành
viên hợp danh là những người giữ vai trò bảo
lãnh liên đới cho mọi hoạt động của công ty3.
Chính vì vậy, pháp luật đặt ra những điều
kiện, tiêu chuẩn nhất định cho thành viên
hợp danh.
Theo quy định Luật Doanh nghiệp
năm 2014 (Luật Doanh nghiệp), thành viên
hợp danh phải là cá nhân, còn pháp nhân
không thể trở thành thành viên hợp danh.
Trong khi đó, nếu cho phép pháp nhân làm
thành viên hợp danh sẽ có những mặt tích
cực như: Cung cấp thêm một loại hình doanh
nghiệp để pháp nhân khởi sự kinh doanh; khi
CTHD bị phá sản, pháp nhân vẫn có thể
dùng các tài sản của mình để thực hiện nghĩa
vụ cho CTHD; khả năng kiểm soát và đảm
bảo tài sản của pháp nhân để thanh toán nợ
thuận lợi hơn so với cá nhân. Đối với các tài
sản riêng của cá nhân thường khó kiểm soát,
nhưng tài sản của pháp nhân phải tuân thủ
pháp luật kế toán, kiểm toán nên tính minh
bạch tốt hơn.
Việc cho phép pháp nhân được làm
thành viên hợp danh trong CTHD vốn đã có
từ lâu ở nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn,
theo Luật số 66-537 ngày 24/7/1966 của
Pháp về các công ty thương mại thì thành
viên hợp danh (general partnership) có thể
là pháp nhân; theo đó CTHD (the partner-
ship) phải có ít nhất là 2 thành viên (đều là
thương nhân: cá nhân hoặc pháp nhân) cùng
tiến hành hoạt động thương mại dưới một
hãng chung và cùng liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty.
Tại Hoa Kỳ, hợp danh thông thường là một
tổ chức kinh doanh được thành lập bởi ít
nhất hai thành viên hợp danh, có thể là các
cá nhân hoặc công ty (corporation). Mỗi
thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm
cá nhân, liên đới và vô hạn đối với tất cả các
khoản nợ và nghĩa vụ của công ty4. Hay nói
cách khác, “thành viên hợp danh có thể là
một công ty”5. Do vậy, ở các nước không ít
trường hợp hai hoặc nhiều pháp nhân cùng
góp vốn thành lập một CTHD.
Từ đó, tác giả kiến nghị nên bổ sung
quy định thành viên hợp danh có thể là cá
nhân hoặc pháp nhân. Khi đó, để thực hiện
quyền chủ sở hữu pháp nhân tại CTHD,
pháp luật cần xây dựng quy chế pháp lý để
pháp nhân cử một cá nhân đại diện tham gia
quản lý CTHD. Vì nếu pháp nhân cử nhiều
người đại diện quản lý, điều hành thì có thể
khó khăn để đưa ra quyết định cuối cùng,
gây phức tạp không cần thiết đến quản trị
công ty. Khi pháp nhân cử một người đại
diện quản lý tại CTHD thì người này có
quyền ngang với thành viên hợp danh cá
nhân khác.
Số 2+3(402+403) - T1+2/202066 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
3 Nguyễn Vinh Hưng (2019), Pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản tại một số quốc gia – so sánh với Việt
Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2019, tr.53.
4 Dịch từ: “A general partnership is a business organization established by at least two partners, which may
be private individuals or entities such as other partnerships or corporations. Each partner is personally, jointly
and severally liable for all of the partnership’s debts and obligations”. Gero Pfeiffer, Wirtschaftsjurist, Sven
Timmerbeil (2008), US-American Company Law – An Overview, Zeitschift fuer das Juristische Studium,
p.597.
5 Marianne M. Jennings (2006), Business its legal, Ethical, and global environment, seventh edition, Thomson
West, p.853.
1.2. Về quyền của thành viên hợp
danh
Quyền biểu quyết của thành viên hợp
danh
Theo điểm a khoản 1 Điều 176 Luật
Doanh nghiệp, “mỗi thành viên hợp danh có
một phiếu biểu quyết hoặc có số phiếu biểu
quyết khác quy định tại Điều lệ công ty”.
Như vậy, Điều lệ công ty hợp danh có thể
ghi nhận mỗi thành viên hợp danh có hơn
một phiếu biểu quyết. Tuy nhiên, khoản 3
Điều 176 Luật này lại quy định, việc thông
qua quyết định của Hội đồng thành viên
được tính dựa trên tổng số thành viên hợp
danh (tính trên đầu người) chứ không phải
tính trên tổng số phiếu biểu quyết của thành
viên hợp danh, mặc dù điều luật này cho
phép Điều lệ công ty hợp danh được quy
định khác với luật.
Do đó, tác giả đề xuất sửa đổi quy định
về điều kiện để thông qua quyết định Hội
đồng thành viên, tại khoản 2, 3 Điều 176
Luật Doanh nghiệp, phải dựa vào số phiếu
biểu quyết của thành viên hợp danh.
Thứ hai, về quyền được chia một phần
giá trị tài sản còn lại khi công ty hợp danh
giải thể.
Quyền này được quy định tại điểm g
khoản 1 Điều 176 Luật Doanh nghiệp. Theo
đó, thành viên hợp danh có quyền được chia
một phần tài sản còn lại của công ty hợp
danh theo thoả thuận giữa các thành viên
hợp danh trong Điều lệ công ty mà không
nhất thiết phải theo tỷ lệ phần vốn góp. Tuy
nhiên, khoản 6 Điều 202 Luật lại quy định,
việc xử lý phần tài sản còn lại sau khi giải
thể, được trả cho các thành viên theo tỷ lệ sở
hữu phần vốn góp mà không có ngoại lệ.
Điều này tạo ra sự mâu thuẫn trong các quy
định về việc giải thể công ty hợp danh.
Xét thấy công ty hợp danh tồn tại dựa
trên cơ sở liên kết giữa các thành viên hợp
danh, họ phải cùng nhau liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công
ty. Do đó, chúng ta cần tôn trọng thoả thuận
(nếu có) giữa các thành viên hợp danh trong
việc xử lý khối tài sản còn lại của công ty
hợp danh sau giải thể. Vì vậy, tác giả đề xuất
sửa đổi khoản 6 Điều 202 Luật Doanh
nghiệp theo hướng tương thích với điểm g
khoản 1 Điều 176 của Luật.
Thứ ba, về quyền được thành lập
doanh nghiệp tư nhân
Theo quy định của khoản 1 Điều 175
Luật Doanh nghiệp, thành viên hợp danh có
thể làm chủ doanh nghiệp tư nhân nếu được
sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn
lại. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 183 Luật
Doanh nghiệp lại cấm chủ doanh nghiệp tư
nhân đồng thời làm thành viên công ty hợp
danh (gồm cả thành viên hợp danh và thành
viên góp vốn). Sự bất cập giữa hai quy định
này gây ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu
quả của việc thực thi Luật trên thực tế. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng, cần xác định rõ ràng
trong Luật để đảm bảo quyền của thành viên
hợp danh trong việc làm chủ doanh nghiệp
tư nhân. Nếu cấm chủ doanh nghiệp tư nhân
làm thành viên công ty hợp danh thì các quy
định về công ty hợp danh cũng cần đảm bảo
tính tương thích, tránh sự xung đột.
1.3. Về chấm dứt sử dụng tên của
thành viên hợp danh
Tên là một bộ phận bắt buộc phải có ở
mỗi doanh nghiệp nói chung cũng như
CTHD nói riêng. Việc đặt tên trong CTHD
phải tuân thủ các quy định tại các điều 38,
39, 40, 41, 42 Luật Doanh nghiệp. Điểm đặc
thù của tên CTHD là có thể ghép tên của
từng thành viên hợp danh tạo thành tên công
ty. Đơn giản bởi vì họ là những người đại
diện theo pháp luật cho CTHD, trực tiếp
quản lý và thực hiện hoạt động kinh doanh
dựa trên uy tín, năng lực của mỗi người.
Hiện nay, Luật Doanh nghiệp quy
định, CTHD không được tiếp tục sử dụng
67Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
tên cũ nếu sau khi chấm dứt tư cách thành
viên, thành viên hợp danh đó hoặc người
thừa kế, người đại diện theo pháp luật của
họ không cho phép6. Việc không cho phép
CTHD tiếp tục sử dụng tên của CTHD sẽ
gây thiệt hại trực tiếp cho lợi ích công ty. Bởi
lẽ, tên doanh nghiệp là một bộ phận gắn liền
với doanh nghiệp từ lúc thành lập, là một
phần tài sản của công ty – tài sản này tách
bạch, độc lập với các thành viên. Nói cách
khác, mỗi thành viên không còn quyền sở
hữu tên của doanh nghiệp, bởi đó là tài sản
của chính công ty. Ngoài ra, việc thay đổi tên
CTHD sau khi một thành viên hợp danh
chấm dứt tư cách thành viên có thể ảnh
hưởng xấu đến tình hình kinh doanh của
công ty, gây khó khăn trong các thủ tục đăng
ký lại với cơ quan nhà nước và trên các giao
dịch khác.
Khi nghiên cứu pháp luật của Cộng
hòa Pháp, sau khi thành viên hợp danh chết,
hợp danh hữu hạn vẫn có quyền tiếp tục sử
dụng tên của thành viên đó là một phần tên
của công ty, nếu không vi phạm các quy định
về đặt tên tại Điều L221-2 và Điều L222-3.
Cụ thể, theo quy định của Điều L221-17 Bộ
luật Thương mại Pháp: “Trừ các vi phạm các
quy định của Điều L221-2 và Điều L222-3,
các thành viên hợp danh sử dụng tên của một
hoặc nhiều thành viên sáng lập đã chết trong
tên doanh nghiệp của họ từ ngày 1/4/1967
có thể được phép giữ lại tên này trong tên
của doanh nghiệp”7. Ngoài ra, Bộ luật
Thương mại Pháp cho phép hợp danh hữu
hạn đặt tên theo tên của thành viên góp vốn
nhưng phải có cụm từ “société en
commandite simple” (thành viên góp vốn)
trước hoặc sau tên của thành viên đó8.
Chúng tôi cho rằng, để bảo đảm lợi ích
của công ty, cần bỏ nội dung quy định tại
khoản 6 Điều 180 Luật Doanh nghiệp. Luật
chỉ nên cấm doanh nghiệp đó không được sử
dụng tên của thành viên hợp danh nếu việc
sử dụng tên đó gây thiệt hại về quyền nhân
thân và quyền tài sản cho cá nhân và gia đình
của họ. Trong trường hợp, nếu người thừa kế,
người đại diện theo pháp luật của thành viên
đó chứng minh việc sử dụng tên gây ra thiệt
hại rõ ràng thì có quyền khởi kiện ra Tòa án
yêu cầu việc chấm dứt sử dụng tên đó.
2. Quy định về thành viên góp vốn
2.1. Về quyền của thành viên góp vốn
Hiện nay, quy định của Luật Doanh
nghiệp về quyền cho thành viên góp vốn còn
chung chung, chưa đầy đủ, dẫn đến quyền
của thành viên góp vốn chưa được bảo vệ
thỏa đáng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về quyền triệu tập họp Hội
đồng thành viên
Theo quy định tại khoản 1 Điều 178
Luật Doanh nghiệp, chỉ có Chủ tịch Hội
đồng thành viên hoặc thành viên hợp danh
Số 2+3(402+403) - T1+2/202068 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
6 Tham khảo khoản 6 Điều 180 Luật Doanh nghiệp 2014 về chấm dứt tư cách của thành viên hợp danh: “Sau
khi chấm dứt tư cách thành viên, nếu tên của thành viên bị chấm dứt đã được sử dụng làm thành một phần
hoặc toàn bộ tên công ty thì người đó hoặc người thừa kế, người đại diện theo pháp luật của họ có quyền
yêu cầu công ty chấm dứt việc sử dụng tên đó”.
7 Được dịch từ Điều L221-17 Bộ luật Thương mại Pháp: “By derogation from the provisions of Articles L221-
2 and L222-3, general partnerships which were using the name of one or more deceased founding partners
in their business name on 1 April 1967 may be authorised to retain this name in their business name”. Nguồn:
https://www.legifrance.gouv.fr/content/download/1951/13685/version/5/file/Code_32.pdf?utm_source=zalo
&utm_medium=zalo&utm_campaign=zalo&zarsrc=30.
8 Tham khảo Điều L222-3 Bộ luật thương mại Pháp: “A limited partnership shall be designated by its business
name, in which may be incorporated the names of one or more partners and which must be immediately
preceded or followed by the words “société en commandite simple” (limited partnership)”.
có quyền triệu tập họp Hội đồng thành viên.
Điều này đồng nghĩa là thành viên góp vốn
không có quyền triệu tập cuộc họp Hội đồng
thành viên mặc dù họ có lý do chính đáng.
Trên thực tế, nhiều trường hợp các thành
viên góp vốn có bằng chứng chứng minh
những vi phạm của các thành viên hợp danh
trong quá trình hoạt động, nhưng họ không
thể yêu cầu triệu tập cuộc họp Hội đồng
thành viên để giải quyết vấn đề của mình.
Điều này, vô hình trung ảnh hưởng đến
quyền lợi của những thành viên góp vốn. Ở
Pháp, thành viên góp vốn vẫn có quyền triệu
tập cuộc họp Hội đồng thành viên, miễn là
họ đáp ứng điều kiện: số thành viên góp vốn
triệu tập cuộc họp Hội đồng thành viên phải
ít nhất một phần tư về số lượng và ít nhất
một phần tư về vốn góp của tổng số thành
viên góp vốn9. Chúng tôi cho rằng, để tạo
môi trường pháp lý thuận lợi cho các thành
viên góp vốn phát huy quyền của mình, Luật
Doanh nghiệp cần bổ sung thêm quy định:
thành viên góp vốn có quyền triệu tập cuộc
họp Hội đồng thành viên bất thường khi họ
có chứng cứ chứng minh được những vi
phạm của thành viên hợp danh trong quá
trình hoạt động tại CTHD.
Thứ hai, về quyền tham gia biểu quyết
của thành viên góp vốn
Khoản 5 Điều 177 Luật Doanh nghiệp
quy định: “Quyền tham gia biểu quyết của
thành viên góp vốn được thực hiện theo quy
định của Luật này và Điều lệ công ty”. Quy
định này thiếu cụ thể. Theo kinh nghiệm của
pháp luật Pháp, việc quyết định những vấn
đề quan trọng liên quan đến quyền lợi tất cả
thành viên trong công ty phải được sự đồng
ý của tất cả thành viên hợp danh và phần lớn
theo số lượng và vốn của thành viên góp
vốn. Phần lớn ở đây được hiểu là trên 50%
tổng số thành viên góp vốn đồng ý10.
Chúng tôi cho rằng, để thu hút nhà đầu
tư góp vốn vào doanh nghiệp và bảo đảm
môi trường pháp lý cho các thành viên góp
vốn, pháp luật cần mở rộng thêm quyền cho
thành viên góp vốn trong CTHD. Đó là khi
quyết định các vấn đề quan trọng như: sửa
đổi, bổ sung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ
sung các quyền và nghĩa vụ của thành viên
góp vốn, tổ chức lại và giải thể công ty phải
được ít nhất ba phần tư số thành viên hợp
danh và trên 50% số thành viên góp vốn
đồng ý.
2.2. Về giới hạn trách nhiệm tài sản
của thành viên góp vốn
Điểm c khoản 1 Điều 172 Luật Doanh
nghiệp quy định: “Thành viên góp vốn chỉ
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty”,
trong khi đó, điểm a khoản 2 Điều 182 lại
quy định, thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn
đã cam kết góp. Ở đây cần lưu ý là, vốn đã
69Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
9 Điều L222-5 Bộ luật thương mại Pháp chỉ rõ: “Các quyết định sẽ được thực hiện theo quy định trong điều
lệ và những thỏa thuận khác của công ty. Tuy nhiên, Hội đồng thành viên được triệu tập hợp pháp theo yêu
cầu bởi một thành viên hợp danh hoặc một phần tư theo số lượng và vốn của các thành viên góp vốn”.
Nguyên gốc: “Decisions shall be taken in accordance with the conditions specified in the memorandum and
articles of association. However, a general meeting of all the partners shall be legally convened if requested
by either one active partner or one quarter by number and by capital of the limited partners”.
10 Tham khảo Điều L222-9 Bộ luật thương mại Pháp: “The partners may not change the nationality of the
partnership other than by unanimous agreement. All other amendments of the memorandum and articles of
association may be decided upon with the consent of all the active partners and the majority by number and
by capital of the limited partners. Clauses decreeing more onerous majority conditions shall be deemed null
and void”.
góp khác với vốn đã cam kết góp. Theo
chúng tôi, cần sửa lại điểm c khoản 1 Điều
172 Luật Doanh nghiệp theo hướng phù hợp
với điểm a khoản 2 Điều 182 của Luật. Bởi
lẽ, lợi nhuận mà thành viên góp vốn được
nhận là lợi nhuận được chia theo tỷ lệ phần
trăm phần vốn góp trong vốn Điều lệ của
công ty hay nói một cách chính xác là vốn
đã cam kết góp. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều
173 Luật Doanh nghiệp còn quy định:
“Trường hợp có thành viên góp vốn không
góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số
vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của
thành viên đó đối với công ty”.
2.3. Về phân chia lợi nhuận cho các
thành viên góp vốn
Theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, lợi nhuận được chia hằng năm cho
các thành viên góp vốn được xác định tương
ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công
ty nhưng các thành viên hợp danh được chia
lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp hoặc
theo thỏa thuận quy định tại Điều lệ công
ty11. Như vậy, Điều lệ công ty có thể quy
định cách thức phân chia lợi nhuận khác cho
thành viên hợp danh phù hợp với hoạt động
kinh doanh cũng như các điều kiện cụ thể
của doanh nghiệp12. Cách quy định này của
Luật Doanh nghiệp đang gây bất lợi cho
thành viên góp vốn. Bởi lẽ, nếu các thành
viên hợp danh thỏa thuận chia lợi nhuận theo
Điều lệ công ty và số tiền được chia cho mỗi
thành viên hợp danh có thể nhiều hơn số tiền
được xác định theo tỷ lệ vốn góp, các thành
viên góp vốn có thể bác bỏ cách chia đó
không? Điều này rất khó thực hiện bởi vì
việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty cơ bản
thuộc về quyền của thành viên hợp danh
(được ít nhất ba phần tư số thành viên hợp
danh đồng ý). Đặc biệt, trước lúc gia nhập
CTHD, các bên đã thỏa thuận chia theo tỷ lệ
vốn góp nhưng sau một thời gian, CTHD
làm ăn phát đạt, các thành viên hợp danh
thay đổi cách chia lợi nhuận theo ý chí chủ
quan của họ. Điều này có thể dẫn tới việc lợi
nhuận được chia cho các thành viên góp vốn
ít hơn số tiền đáng lẽ họ được hưởng nếu
tính theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
182 Luật Doanh nghiệp. Trong khi đó, vốn
điều lệ của CTHD có thể được hình thành từ
hai nguồn là vốn góp của thành viên hợp
danh và vốn góp của thành viên góp vốn. Vì
vậy, chúng tôi cho rằng, khi phân chia lợi
nhuận cũng nên phân chia thành hai nguồn
như vậy, tương ứng với tỷ lệ vốn góp của các
thành viên. Giả sử, CTHD H gồm có 2 thành
viên hợp danh A và B với số vốn góp chiếm
tỷ lệ 70% vốn điều lệ, hai thành viên góp vốn
C, D chiếm tỷ lệ 30% vốn điều lệ. Cuối năm
2018, CTHD H lợi nhuận ròng 1 tỷ đồng thì
thành viên A, B sẽ được chia lợi nhuận 700
triệu còn C, D được 300 triệu. Trong phần
700 triệu, hai thành viên hợp danh được
quyền tự thỏa thuận cách chia dựa trên công
sức đóng góp của mỗi người.
Với những phân tích nêu trên, chúng
tôi cho rằng, để bảo vệ quyền lợi cho thành
viên góp vốn tốt hơn, cần sửa quy định tại
điểm e khoản 1 Điều 176 Luật Doanh nghiệp
theo hướng: các thành viên hợp danh được
chia lợi nhuận tương ứng với tỷ lệ vốn góp
hoặc theo thỏa thuận quy định tại Điều lệ
công ty, miễn là tổng lợi nhuận được chia
cho các thành viên hợp danh tương ứng với
tổng tỷ lệ vốn góp của họ. Điều này có nghĩa
là, các thành viên hợp danh có thể tự do thỏa
thuận cách chia lợi nhuận cho mỗi thành
viên phù hợp với công sức đóng góp nhưng
không ảnh hưởng đến lợi nhuận được chia
cho các thành viên góp vốn n
Số 2+3(402+403) - T1+2/202070 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
11 Xem điểm b khoản 1 Điều 182 và điểm e khoản 1 Điều 176 Luật Doanh nghiệp 2014.
12 Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh (2019), Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, tr.149.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_quy_dinh_ve_cong_ty_hop_danh_theo_luat_doanh_nghiep_nam.pdf