Mặc dù BLTTDS năm 2015 đã quy định
“Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, các
chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để phân
tích, đánh giá, nhận định về các tình tiết của vụ
án, những căn cứ pháp luật, để chấp nhận
hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề
khác có liên quan” (Khoản 2.b Điều 266
BLTTDS năm 2015), nhưng trên thực tế, vẫn
còn tình trạng các bên đưa ra lập luận nhưng
bản án, quyết định không xem xét, phân tích để
chấp nhận hay bác bỏ lập luận đó, mà chỉ đưa ra
phán quyết theo quan điểm riêng của tòa án.
Trong nhiều trường hợp, tòa án không giải thích
vì sao đưa ra được phán quyết, mà chỉ viện dẫn
điều luật áp dụng, như vậy việc tranh tụng của
các bên sẽ chỉ mang tính hình thức nếu kết quả
tranh tụng không được phản ánh trong bản án,
quyết định. Nếu hiểu tranh tụng theo đúng
nghĩa thì khi mỗi bên đưa ra chứng cứ, lập luận
nào, tòa án phải xem xét và quyết định chấp
nhận hay bác bỏ chứng cứ, lập luận đó. Kể cả
đối với lập luận thiếu thuyết phục, không có căn
cứ, tòa án cũng phải chỉ ra được lập luận đó có
khiếm khuyết ở điểm nào. Tình trạng bản án,
quyết định không xem xét đầy đủ lập luận của
các bên hoặc thậm chí không có lập luận về căn
cứ ra phán quyết của tòa án còn khá phổ biến.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các quyền thủ tục công bằng trong tố tụng dân sự ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
51
Review Article
Rights of Due Process in Civil Procedurs of Some
Countries in the World an in Vietnam
Nguyen Van Quan*, Nguyen Bich Thao
VNU, School of Law, Vietnam National University, Hanoi,
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 02 February 2020
Revised 06 March 2020; Accepted 24 March 2020
Abstract: Currently, civil procedure legal science in the world begins to study the application of
fair procedural rights. Meanwhile, Vietnamese civil procedure legal science seems to pay attention
to the proceedings instead of the procedural rights. In this context, the paper examines the
application of rights of due process around the world and in Vietnam. From there, the author
suggests a number of appropriate orientations in this area that Vietnam should apply in the near
future in order to match the trend in the world and the reality of Vietnam.
Keywords: Civil procedure, due process, rights of due process, human rights.
________
Corresponding author.
E-mail address: nguyen.vnu@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4282
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
52
Các quyền thủ tục công bằng trong tố tụng dân sự ở một số
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam
Nguyễn Văn Quân*, Nguyễn Bích Thảo
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 02 tháng 02 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 24 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Hiện nay, khoa học luật tố tụng dân sự trên thế giới bắt đầu nghiên cứu sâu về việc áp
dụng các quyền thủ tục công bằng. Trong khi đó, khoa học luật tố tụng dân sự Việt Nam dường
như mới chú ý đến các thủ tục tố tụng thay vì các quyền thủ tục. Trong bối cảnh đó, bài viết
nghiên cứu về việc áp dụng quyền xét xử công bằng trong tố tụng dân sự ở trên thế giới và ở Việt
Nam. Từ đó, vạch ra những hướng đi phù hợp trong lĩnh vực này mà Việt Nam nên áp dụng trong
thời gian tới, để phù hợp với xu hướng chung trên thế giới và hoàn cảnh trong nước.
Từ khóa: Tố tụng dân sự; thủ tục công bằng; quyền thủ tục công bằng; quyền con người.
Dẫn nhập*
Luật tố tụng dân sự là lĩnh vực pháp luật thủ
tục hay luật hình thức, bao gồm tập hợp các quy
định về quy trình thực thi một quyền, nghĩa vụ
của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự tại tòa án;
các quyền và nghĩa vụ dân sự này được quy
định bởi luật nội dung (substantive law) như
luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật
thương mại, luật lao động. Pháp luật tố tụng dân
sự là công cụ cơ bản để hiện thực hóa các
quyền dân sự và bảo vệ quyền dân sự, thiết lập
cơ chế và trình tự giải quyết tranh chấp dân
sự giữa các tổ chức, cá nhân tại tòa án một
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: nguyen.vnu@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4282
cách văn minh, nhằm khắc phục tình trạng “tự
xử”, giải quyết tranh chấp bằng bạo lực đã
từng tồn tại trong xã hội thời kì xa xưa khi
chưa có tòa án.
Theo trình tự do luật tố tụng dân sự quy
định, các bên trong quan hệ pháp luật dân sự,
bao gồm tổ chức, cá nhân, và cả các cơ quan
nhà nước, có quyền khởi kiện người khác về
hành vi xâm phạm quyền dân sự của mình
nhằm yêu cầu tòa án áp dụng các chế tài, các
biện pháp khắc phục để ngăn chặn hành vi xâm
phạm, khôi phục quyền lợi cho họ. Với ý nghĩa
đó, luật tố tụng dân sự đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ quyền con người, và việc xây
dựng, thực thi các quy phạm pháp luật tố tụng
dân sự đòi hỏi bảo đảm nguyên tắc trình tự
pháp luật công bằng (due process of law). Tuy
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62 53
nhiên, cho đến nay, các nghiên cứu về bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tố tụng cũng
như về các quyền thủ tục công bằng thường chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực tố tụng hình sự, ít
quan tâm đến lĩnh vực tố tụng dân sự. Trong
khi đó, những vi phạm các quyền thủ tục công
bằng trong tố tụng dân sự là khá phổ biến, tuy
không đến mức nghiêm trọng và thu hút sự chú
ý của dư luận như vi phạm trong tố tụng hình
sự, nhưng nó lại diễn ra thường xuyên, trên diện
rộng (bởi số lượng vụ việc dân sự mà các tòa án
thụ lí giải quyết hàng năm lớn hơn nhiều so với
số lượng vụ án hình sự). Cho đến gần đây, khoa
học luật tố tụng dân sự trên thế giới mới bắt đầu
nghiên cứu sâu về việc áp dụng các quyền thủ
tục công bằng. Trong khi đó, khoa học luật tố
tụng dân sự Việt Nam hầu như chưa đề cập khái
niệm “các quyền thủ tục công bằng” mà mới
chỉ có một vài công trình liên quan đến bảo vệ
quyền con người trong tố tụng dân sự.
1. Các quyền thủ tục công bằng trong tố tụng
dân sự Hoa Kì
Mặc dù nước Anh là quê hương của học
thuyết về trình tự công bằng, học thuyết này lại
được tiếp nhận một cách chính thức và phát
triển mạnh mẽ trong lí luận và thực tiễn pháp lí
ở Hoa Kì, đặc biệt thông qua các án lệ giải thích
Hiến pháp của Tòa án tối cao. Hiến pháp Hoa
Kì long trọng ghi nhận “due process of law” với
tư cách là một nguyên tắc cốt lõi. Tu chính án
thứ 5 của Hiến pháp Hoa Kì tuyên bố: “Không
ai bị tước bỏ tính mạng, tự do và tài sản mà
không dựa trên trình tự pháp luật công bằng”1.
Tu chính án thứ 14 một lần nữa khẳng định:
“không bang nào tước bỏ tính mạng, tự do và
tài sản của bất kì ai mà không dựa trên trình tự
pháp luật công bằng”2.
Hiện nay, các học giả trên thế giới đều
thống nhất rằng trình tự pháp luật công bằng
bao gồm hai khía cạnh: trình tự công bằng thủ
tục (procedural due process) và trình tự công
bằng nội dung (substantive due process). Các
________
1Tu chính án thứ 5 Hiến pháp Hoa Kì.
2Tu chính án thứ 14 Hiến pháp Hoa Kì.
quyền về thủ tục là những yếu tố cấu thành nên
quan niệm về trình tự công bằng thủ tục. Hai
yếu tố cốt lõi của trình tự công bằng thủ tục
trong tố tụng dân sự là chủ thể có quyền được
thông báo và quyền được lắng nghe bởi một tòa
án vô tư, không thiên vị trước khi chủ thể đó bị
tước đoạt tự do hoặc tài sản [1].
Tuy nhiên, theo thời gian, hệ thống án lệ đồ
sộ của Tòa án Tối cao Hoa Kì đã giải thích theo
hướng ngày càng mở rộng nội hàm của các
quyền thủ tục công bằng này, từ đó tạo nên một
hệ thống các giá trị cơ bản hay các bảo đảm về
thủ tục (procedural safeguards) trong tố tụng
dân sự Hoa Kì. Các quyền đó bao gồm:
Thứ nhất: quyền được thông báo. Một yêu
cầu căn bản của thủ tục công bằng trong bất kì
quy trình tố tụng nào là các bên liên quan phải
được thông báo hợp lí về vụ kiện, từ đó họ mới
có cơ hội tham gia vào quá trình tố tụng, trình
bày các chứng cứ, lí lẽ, lập luận để bảo vệ
mình. “Thông báo” phải đầy đủ để người nhận
nắm được nội dung vụ kiện và xác định được
mình cần làm gì để ngăn chặn việc lợi ích của
mình bị tước đoạt. “Thông báo” phải được thực
hiện bằng phương thức hợp lí nhằm đảm bảo
rằng người được thông báo có khả năng chắc
chắn sẽ nhận được.
Thứ hai: quyền được lắng nghe. Trước khi
một người bị tước đoạt lợi ích về tài sản hoặc tự
do, người đó phải được lắng nghe bởi tòa án tại
một phiên họp hay phiên xử được tổ chức dưới
hình thức nào đó, tức là có cơ hội trình bày thấu
đáo mọi chứng cứ, lí lẽ, lập luận của mình trước
tòa án, bác bỏ các chứng cứ, lí lẽ, lập luận của
đối phương. Quyền được lắng nghe được hiểu
là tòa án không chỉ xem xét và quyết định trên
cơ sở hồ sơ, tài liệu, mà phải trực tiếp nghe các
bên trình bày (xét xử trực tiếp, bằng lời nói).
Quyền được thông báo và quyền được lắng
nghe nói trên phải được thực hiện vào thời điểm
hợp lí, theo phương thức hợp lí và thực chất,
nghĩa là thông báo hay tổ chức phiên họp/phiên
xét xử không phải chỉ mang tính hình thức cho
có, mà cần phải diễn ra kịp thời, trước khi tòa
án có quyết định cuối cùng về việc tước đoạt tài
sản (tự do) của chủ thể [1]. Nói cách khác,
chính quyền không thể ra quyết định tước đoạt
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
54
tài sản hay tự do của người nào khi chưa đáp
ứng các đòi hỏi của thủ tục công bằng (thực
hiện quy trình thông báo và tổ chức phiên họp).
Việc thông báo và tổ chức phiên họp cũng
chính là hai yếu tố quan trọng để bảo đảm rằng
bên bị ảnh hưởng bởi quyết định của tòa án có
cơ hội tham gia một cách hữu hiệu vào quy
trình tố tụng [1]. Trình tự công bằng trong tố
tụng dân sự đặc biệt nhấn mạnh vào sự tham gia
của bên bị ảnh hưởng trong quá trình ra quyết
định. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, ngoại lệ,
quy trình tố tụng mới được diễn ra khi vắng mặt
một hoặc các bên
Quyền được lắng nghe phải được đảm bảo
không chỉ đối với phiên xét xử tập trung
(phiên tòa sơ thẩm) mà cả trong tất cả các
bước của quy trình tố tụng, tức là áp dụng đối
với bất kì trường hợp nào mà lợi ích về tài
sản hay tự do của một người bị đe dọa tước
đoạt, bao gồm cả trường hợp bị áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời.
Thứ ba: quyền được xét xử bởi một tòa án
vô tư, không thiên vị. Để thực hiện quyền này,
thẩm phán, bồi thẩm đoàn phải là những người
hoàn toàn trung lập, vô tư, khách quan, không
có định kiến, không có xung đột lợi ích nào với
một trong các bên đương sự [1]. Thẩm phán
phải từ chối xét xử nếu tự thấy mình không đảm
bảo sự vô tư trong một vụ án cụ thể. Tính trung
lập, khách quan, vô tư của người có quyền ra
quyết định là yếu tố cốt lõi, không thể thiếu của
trình tự công bằng thủ tục.
Thứ tư: Quyền chất vấn và thẩm tra chéo
nhân chứng. Trong trường hợp phán quyết của
tòa án trong vụ kiện dân sự phải dựa vào việc
xác định tình tiết của vụ án, tức là giữa các bên
có tranh cãi về mặt tình tiết, sự kiện, trình tự
công bằng đòi hỏi mỗi bên phải có quyền chất
vấn và thẩm tra chéo đối với nhân chứng chống
lại mình. Quyền này là sự mở rộng của quyền
được lắng nghe: mỗi bên không chỉ có quyền
trình bày những chứng cứ, lập luận có lợi cho
mình, mà còn phải có cơ hội bác bỏ chứng cứ,
lập luận của đối phương, đặc biệt là thông qua
việc chất vấn, bác bỏ lời khai của nhân chứng
bất lợi cho mình.
Thứ năm: Quyền được xét xử chỉ căn cứ
trên hồ sơ, chứng cứ của vụ án. Quyền này
cũng phái sinh từ quyền được lắng nghe. Quyền
trình bày chứng cứ, lí lẽ, lập luận tại phiên xét
xử sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu phán quyết của
tòa án không dựa trên các chứng cứ, lập luận
đó. Do vậy, để đảm bảo quyền này, người có
quyền ra quyết định phải nêu rõ các lập luận, lí
lẽ làm cơ sở cho phán quyết và các chứng cứ
mà mình dựa vào đó để ra phán quyết.
Thứ sáu: Quyền có luật sư. Quyền này cũng
phái sinh từ quyền được lắng nghe. Do các
đương sự thường không tự mình trình bày được
các chứng cứ, lập luận trước tòa án một cách
thuần thục, đặc biệt là trong hệ thống tố tụng
tranh tụng như Hoa Kì, nên họ rất cần có luật sư
bảo vệ quyền lợi cho mình. Trong tố tụng hình
sự, quyền có luật sư bào chữa là quyền đương
nhiên của bị cáo, nếu bị cáo không có khả năng
chi trả phí luật sư thì tòa án phải cử luật sư bào
chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, trong tố tụng dân
sự, quyền có luật sư không phải là đương
nhiên, và tòa án không có nghĩa vụ cử luật sư
cho đương sự là người nghèo, trừ trường hợp
tự do thân thể của người đó bị đe dọa.
Có thể thấy, các quyền thủ tục công bằng
trong tố tụng dân sự Hoa Kì được xây dựng trên
nền tảng của mô hình tố tụng tranh tụng [2], với
đặc trưng là các bên đương sự đóng vai trò chủ
động, còn thẩm phán ở vị trí bị động, trung lập,
lắng nghe các bên trình bày miệng các chứng
cứ, lập luận của mình, bác bỏ chứng cứ, lập
luận của đối phương và ra phán quyết trên cơ sở
các chứng cứ, lập luận đó.
Ngoài các quyền kể trên, trình tự công bằng
thủ tục với hai nội dung cơ bản là quyền được
thông báo và quyền được lắng nghe được thể
hiện xuyên suốt trong các quy định cụ thể của
pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kì như quy định
về thẩm quyền của tòa án, quy định về tống đạt,
quy định về phiên tòa sơ thẩm
Thẩm quyền
Theo nguyên tắc trình tự pháp luật công
bằng, về mặt truyền thống, tòa án của mỗi bang
chỉ có thẩm quyền xét xử đối với con người và
tài sản nằm trong phạm vi lãnh thổ của mình và
không bang nào có thẩm quyền trực tiếp đối với
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62 55
người hay tài sản ở ngoài lãnh thổ bang đó. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, giao
thương giữa các bang ngày càng mạnh mẽ,
người dân Hoa Kì di chuyển từ bang này sang
bang khác ngày một nhiều, do vậy Tòa án Tối
cao Hoa Kì đã đưa ra tiêu chí mới để xác định
thẩm quyền dựa trên tính chất của mối liên hệ
giữa cá nhân, pháp nhân với một bang nào đó
(tiêu chí đưa ra là cá nhân, pháp nhân phải có
các mối liên hệ tối thiểu với một bang. Đối với
tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa
vụ của một người, chứ không phải tranh chấp
về tài sản, quy trình tố tụng mang tính chất đối
nhân và do đó, thẩm quyền của tòa án đối với bị
đơn được xác định là thẩm quyền đối nhân. Tòa
án của một bang chỉ có thẩm quyền xét xử vụ
kiện dân sự liên quan đến bị đơn nếu bị đơn có
mối liên hệ tối thiểu với bang đó, ví dụ: bị đơn
cư trú tại bang và được tống đạt đơn khởi kiện
tại bang đó.
Tống đạt đơn khởi kiện
Tòa án chỉ có thể thực thi quyền xét xử của
mình đối với bị đơn nếu theo luật, tòa án có
thẩm quyền đối nhân đối với bị đơn và đơn
khởi kiện phải được tống đạt hợp lệ nhằm thông
báo cho bị đơn về quá trình tố tụng sắp diễn ra
có ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của họ. Tống
đạt trực tiếp đến tay người nhận là phương
thức bảo đảm chắc chắn nhất rằng bị đơn nhận
được thông báo. Tuy nhiên, theo thời gian, các
phương thức tống đạt khác ít khắt khe hơn cũng
đã được chấp nhận như tống đạt qua đường bưu
điện, tống đạt bằng phương thức xuất bản (công
bố trên phương tiện thông tin đại chúng).
Phiên tòa sơ thẩm
Trong tố tụng dân sự Hoa Kì, xét xử có bồi
thẩm đoàn không phải là yêu cầu bắt buộc để
đảm bảo trình tự công bằng (dịch) (khác với tố
tụng hình sự). Phiên tòa sơ thẩm trong tố tụng
dân sự Hoa Kì là một phiên họp tập trung, trực
tiếp và liên tục, trong đó lần đầu tiên các bên
đương sự xuất trình toàn bộ chứng cứ của vụ án
trước chủ thể có thẩm quyền xác định các tình
tiết của vụ án (bồi thẩm đoàn hoặc thẩm phán
trong trường hợp các bên lựa chọn không có bồi
thẩm đoàn). Chủ thể này hoàn toàn không biết
trước về vụ án để đảm bảo tính trung lập, khách
quan; đối với bồi thẩm đoàn, phiên tòa sơ thẩm
là lần đầu tiên họ được tiếp cận với vụ án. Tại
phiên tòa, thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn lắng
nghe các bên đương sự trình bày tất cả các
chứng cứ và các lập luận pháp lí mà không phát
biểu hay đặt bất kì câu hỏi nào. Các nhân chứng
khai báo trực tiếp và được thẩm tra trực tiếp tại
phiên tòa bởi luật sư của các bên, trước sự
chứng kiến và đánh giá của bồi thẩm đoàn hoặc
thẩm phán.
Trường hợp xét xử có bồi thẩm đoàn, cũng
không yêu cầu bồi thẩm đoàn phải ra phán
quyết dựa trên nguyên tắc nhất trí như trong tố
tụng hình sự, mà có thể chỉ cần 10/12 bồi thẩm
viên biểu quyết tán thành.
Phúc thẩm
Trình tự pháp luật công bằng trong tố tụng
dân sự Hoa Kì cũng không đòi hỏi các bang
phải quy định về thủ tục phúc thẩm bắt buộc
trong trường hợp có kháng cáo. Nói cách khác,
không phải mọi kháng cáo đều được tòa án cấp
trên xem xét và mở thủ tục phúc thẩm. Tòa án
cấp phúc thẩm có thẩm quyền hạn chế, không
xử lại vụ án, không thẩm tra lại các chứng cứ
mà chủ yếu xem xét về áp dụng pháp luật của
tòa án cấp dưới. Không phải vụ án nào có
kháng cáo cũng được tòa án tối cao xem xét, mà
tòa án tối cao chỉ lựa chọn xem xét những vụ án
có vấn đề pháp lí quan trọng, được xã hội quan
tâm và đang có quan điểm không thống nhất
giữa các tòa án cấp dưới. Tòa án cấp phúc thẩm
không xét xử lại vụ án hoặc xem xét thêm
chứng cứ. Vai trò của tòa án phúc thẩm là xem
xét việc áp dụng pháp luật của tòa án cấp dưới
có đúng hay không. Về cơ bản, phán quyết của
tòa án sơ thẩm được tòa án phúc thẩm tôn
trọng, do tòa án cấp sơ thẩm là tòa án được tiếp
cận gần nhất với chứng cứ của vụ án. Tòa án
cấp phúc thẩm thường không xác định lại các
tình tiết của vụ án [3].
2. Các quyền thủ tục công bằng trong tố tụng
dân sự ở châu Âu
Ở châu Âu, thuật ngữ “trình tự công bằng -
due process” không được sử dụng trong các văn
kiện châu Âu về nhân quyền và các Bộ luật Tố
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
56
tụng Dân sự (BLTTDS), mà thay vào đó là
thuật ngữ “quyền được xét xử công bằng” (right
to a fair trial trong bản tiếng Anh hoặc droit à
un procès equitable trong bản tiếng Pháp), đây
được coi là yếu tố cốt lõi của nhà nước pháp
quyền. Quyền được xét xử công bằng trong tố
tụng dân sự được ghi nhận trong hai văn kiện
chính là Điều 6 (1) Công ước châu Âu về nhân
quyền và Điều 47 Hiến chương châu Âu về các
quyền cơ bản. Quyền được xét xử công bằng
được giải thích bởi một hệ thống án lệ đồ sộ của
Tòa án nhân quyền châu Âu và Tòa án Công lí
của Liên minh châu Âu.
Điều 6 (1) Công ước nhân quyền châu Âu
quy định:
Trong việc quyết định về các quyền và
nghĩa vụ dân sự của một người hoặc về một cáo
buộc hình sự chống lại người đó, mọi người có
quyền được xét xử công bằng và công khai
trong một thời gian hợp lí bởi một tòa án độc
lập và vô tư được thành lập trên cơ sở pháp
luật. Bản án phải được công bố công khai
nhưng báo chí và công chúng có thể không
được tham dự toàn bộ hoặc một phần phiên
tòa vì lí do đạo đức, trật tự công hoặc an ninh
quốc gia trong một xã hội dân chủ, trong
trường hợp cần thiết bảo vệ lợi ích của người
chưa thành niên hoặc đời sống riêng tư của
các bên, hoặc trong phạm vi thật cần thiết do
tòa án quyết định trong những hoàn cảnh đặc
biệt mà việc xét xử công khai sẽ gây ảnh
hưởng đến công lí [4].
Điều 47 Hiến chương châu Âu về các quyền
cơ bản cũng có quy định gần như tương tự.
Theo án lệ của Tòa án nhân quyền châu Âu
và Tòa án Công lí Liên minh châu Âu, quyền
được xét xử công bằng bao gồm các quyền cụ
thể sau đây:
Thứ nhất: Quyền tiếp cận tòa án
Mặc dù quyền này không được quy định
một cách minh thị trong Điều 6 (1) Công ước
nhân quyền châu Âu, Tòa án nhân quyền châu
Âu đã thừa nhận rằng quyền tiếp cận tòa án là
yếu tố tiên quyết không thể thiếu để đảm bảo
quyền được xét xử công bằng. Nói cách khác,
quyền được xét xử công bằng đòi hỏi một cơ
chế tư pháp hiệu quả để các đương sự có thể
thực thi các quyền dân sự của họ. Quyền tiếp
cận tòa án trước hết thể hiện ở quyền khởi
xướng quy trình tố tụng dân sự (tức là quyền
khởi kiện vụ án dân sự). Quyền này phải được
bảo đảm một cách thực tế và hữu hiệu, tức là
mỗi cá nhân phải có cơ hội rõ ràng và thực tế để
chống lại một hành vi can thiệp vào quyền dân
sự của mình.
Quyền tiếp cận tòa án không chỉ bao gồm
quyền khởi kiện của nguyên đơn mà còn bao
hàm quyền tham gia tố tụng của bị đơn. Để bảo
đảm quyền tiếp cận tòa án, chi phí tố tụng
không thể cao một cách thái quá (bất cân xứng
với lợi ích cần bảo vệ), và tòa án cần chấp
nhận cho các đương sự nộp đơn từ, tài liệu
bằng các phương thức đa dạng, không chỉ
dưới dạng bản in mà cả bản điện tử hoặc các
hình thức khác thuận tiện và hiệu quả, nhất là
trong những vụ án có số lượng tài liệu phải
nộp cho tòa án rất lớn.
Thứ hai: Quyền được hưởng quy trình tố
tụng tranh tụng
Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu, quyền
được xét xử công bằng bao gồm quyền được
hưởng quy trình tố tụng tranh tụng, nghĩa là các
bên có cơ hội được biết và nêu ý kiến về tất cả
các tài liệu, chứng cứ do bên kia giao nộp cho
tòa án, nhằm tác động đến quyết định của tòa
án. Để thực hiện quyền này, mỗi bên đều phải
có cơ hội thực chất trong việc tiếp cận các
chứng cứ được trình bày trước tòa án, có khả
năng nêu ý kiến về sự tồn tại, nội dung và tính
xác thực của chứng cứ trong thời gian thích
hợp. Các bên phải có quyền tự quyết định họ sẽ
nêu ý kiến về chứng cứ nào được cung cấp hoặc
lời khai nào của người làm chứng. Các bên
cũng phải được phép xuất trình bất kì chứng cứ
nào mà họ cho là cần thiết để chứng minh cho
yêu cầu của mình. Tòa án phải thông báo cho
các bên mọi thông tin mình nắm giữ, bất kể
thông tin đó có ảnh hưởng đến quyết định của
tòa án hay không.
Thứ ba: Quyền bình đẳng giữa các đương sự
Nguyên tắc bình đẳng có mối liên hệ chặt
chẽ với quyền được hưởng quy trình tố tụng
tranh tụng. Sự khác biệt là ở chỗ nguyên tắc
bình đẳng đòi hỏi các bên phải được đối xử
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62 57
ngang bằng với nhau, còn quyền tranh tụng đòi
hỏi các bên phải được tiếp cận mọi thông tin có
liên quan. Nguyên tắc bình đẳng hàm ý rằng
mỗi bên phải có cơ hội hợp lí trong việc trình
bày chứng cứ, lập luận của mình trong những
điều kiện không bất lợi hơn một cách đáng kể
so với bên đối phương.
Thứ tư: Quyền tham dự phiên tòa/Quyền
được xét xử bằng lời
Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu, phiên
tòa xét xử bằng lời nói và công khai là một yếu
tố cơ bản của Điều 6 (1) Công ước nhân quyền
châu Âu. Tuy nhiên, nghĩa vụ tổ chức phiên tòa
không phải là tuyệt đối. Trong án lệ Jussila v.
Phần Lan, Tòa án nhân quyền châu Âu tuyên
bố rằng: có thể có những vụ án không cần thiết
phải mở phiên tòa: chẳng hạn như khi các bên
không có tranh cãi về tình tiết hay về độ tin cậy
của chứng cứ, khi đó tòa án có thể ra quyết định
về vụ án dựa trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu
do các bên giao nộp và các tài liệu khác, hoặc
có những vụ án mang tính đặc thù nên sẽ phù
hợp hơn nếu xét xử dựa trên tài liệu viết hơn là
xét xử bằng lời nói, ví dụ các vụ tranh chấp về
an sinh xã hội mang nhiều yếu tố kỹ thuật, hoặc
vụ án về y tế đòi hỏi bảo vệ quyền riêng tư về
thông tin y tế của đương sự. Để bảo đảm quyền
được xét xử công bằng, không nhất thiết đương
sự phải có mặt tại phiên tòa trong tất cả các vụ
án dân sự. Theo Tòa án Nhân quyền châu Âu,
đương sự chỉ cần thiết có mặt khi quyết định
của tòa án trong vụ việc cần xem xét đến tính
cách, thái độ, lối sống của đương sự đó.
Đương sự có thể từ bỏ quyền có mặt tại
phiên tòa và quyền được xét xử bằng lời nói với
điều kiện đương sự thể hiện ý chí từ bỏ quyền
một cách hoàn toàn tự nguyện và không trái với
lợi ích công. Do vậy, quyền có mặt tại phiên tòa
và quyền được xét xử bằng lời nói không loại
trừ khả năng tòa án có thể xét xử vắng mặt
đương sự. Trong những trường hợp đó, phải
bảo đảm rằng đương sự vắng mặt đã được triệu
tập hợp lệ.
Thứ năm: Quyền được luật sư bảo vệ
Tòa án Nhân quyền châu Âu khẳng định
rằng quyền được luật sư bảo vệ là yếu tố cơ
bản, cốt lõi để đảm bảo xét xử công bằng. Do
đó, việc tước đoạt cơ hội được bảo vệ bởi luật
sư tại phiên tòa của đương sự là hành vi vi
phạm quyền được xét xử công bằng.
Thứ sáu: Quyền được tống đạt một cách
hữu hiệu
Quyền được xét xử công bằng bao gồm cả
quyền được tống đạt một cách hữu hiệu. Nếu
đương sự không được tống đạt hợp lệ, họ sẽ bị
tước cơ hội được thông báo và phản hồi đối với
các ý kiến, lập luận, tài liệu, chứng cứ của bên
kia. Điều 6 (1) Công ước Nhân quyền châu Âu
không quy định cụ thể phương thức tống đạt
nào là hợp lệ, nhưng theo án lệ của Tòa án
Nhân quyền châu Âu, cơ quan có thẩm quyền
phải chứng minh họ đã thực hiện tất cả nỗ lực
cần thiết để bảo đảm rằng đương sự được thông
báo về bất kì quy trình tố tụng nào chống lại họ
và bảo đảm các văn bản tố tụng cần tống đạt
đến được với người cần thông báo. Các văn bản
cần tống đạt cũng phải được gửi đi trong thời
hạn hợp lí để đương sự có đủ thời gian chuẩn bị
đến tham dự phiên tòa, phiên họp.
Thứ bảy: Quyền được cung cấp lí do đầy đủ
cho phán quyết của tòa án
Mặc dù quyền được cung cấp lí do đầy đủ
cho phán quyết của tòa án không được quy định
minh thị trong Điều 6 (1) Công ước nhân quyền
châu Âu, nhưng Tòa án Nhân quyền châu Âu đã
giải thích rằng quyền được xét xử công bằng
bao hàm cả nghĩa vụ của tòa án phải giải thích,
lập luận đầy đủ về phán quyết của mình và phải
chỉ ra rõ ràng các căn cứ để ra phán quyết, bởi
điều đó sẽ giúp các đương sự biết liệu họ có
thực sự đã được xét xử công bằng hay không,
các chứng cứ, lập luận của họ có được tòa án
cân nhắc khi ra phán quyết hay không, từ đó họ
có cơ sở để thực hiện quyền kháng cáo.
Thứ tám: Quyền được thi hành án một cách
nhanh chóng
Quyền được thi hành nhanh chóng các bản
án, quyết định chung thẩm, có hiệu lực pháp
luật của tòa án được coi là một thành tố cơ bản
của quyền tiếp cận tòa án, quyền tiếp cận công
lí. Tòa án Nhân quyền châu Âu Tòa án này
khẳng định rằng quyền tiếp cận công lí sẽ trở
nên vô nghĩa, không thực chất nếu phán quyết
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
58
của tòa án không thể thi hành, gây thiệt hại đến
quyền lợi của bên được thi hành án.
Thứ chín: Quyền không bị xem xét lại bản
án chung thẩm đã có hiệu lực pháp luật
Tòa án nhân quyền châu Âu khẳng định
quyền được xét xử công bằng cần được giải
thích dựa trên tinh thần nhà nước pháp quyền.
Một trong những yếu tố cơ bản của nền pháp
quyền là nguyên tắc bảo đảm tính chắc chắn về
mặt pháp lí, tức là bản án, quyết định chung
thẩm của tòa án không bị xem xét lại, trừ một
số trường hợp đặc biệt như nhằm khắc phục sai
lầm của tòa án. Không đương sự nào có quyền
yêu cầu xem xét lại một bản án chung thẩm và
có hiệu lực pháp lí ràng buộc chỉ vì mục đích
được xét xử lại vụ án từ đầu nhằm tìm kiếm cơ
hội cầu may.
Như vậy, nội hàm của quyền được xét xử
công bằng có rất nhiều điểm tương đồng với
khái niệm trình tự công bằng thủ tục ở Hoa
Kì, bởi nó đều phản ánh những giá trị cốt lõi
của hệ thống tư pháp dân sự trong nhà nước
pháp quyền.
3. Các quyền thủ tục công bằng trong tố tụng
dân sự Việt Nam
Ở Việt Nam, mặc dù gần đây các luật gia
mới bắt đầu nghiên cứu về các khái niệm “trình
tự pháp luật công bằng” và “quyền được xét xử
công bằng”, nhưng các nguyên tắc cơ bản được
ghi nhận trong Hiến pháp và BLTTDS Việt
Nam nhìn chung cũng khá tương đồng với các
giá trị phổ biến của nhân loại nói trên, chẳng
hạn như: nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, nguyên tắc quyền yêu cầu tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, nguyên tắc xét xử
kịp thời, công bằng, công khai, nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử, nguyên tắc bảo
đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật và trước tòa án Trên cơ sở các quy định
về những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015, có thể thấy pháp luật
Việt Nam đã ghi nhận các quyền thủ tục công
bằng cơ bản trong tố tụng dân sự sau đây:
Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp (quyền tiếp cận tòa án)
Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp được ghi nhận tại
Điều 4 BLTTDS năm 2015, thể hiện một khía
cạnh quan trọng của quyền được xét xử công
bằng, đó là quyền tiếp cận tòa án - quyền của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân được viện cầu
đến Tòa án (hay còn gọi là tố quyền) để yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khi có
tranh chấp về dân sự hoặc cần yêu cầu Tòa án
giải quyết việc dân sự. Nguyên tắc này là một
bảo đảm quan trọng cho việc thực thi các quyền
dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong các
quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động. Các quyền
dân sự sẽ trở nên vô nghĩa nếu như các chủ thể
nói trên không được tiếp cận Tòa án, yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
khi có tranh chấp hoặc yêu cầu. Nguyên tắc này
có hai nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các cơ quan, tổ chức, cá nhân do
BLTTDS quy định có quyền khởi kiện vụ án
dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa
án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ
công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Thứ hai, Tòa án không được từ chối giải
quyết vụ việc dân sự vì lí do chưa có điều luật
để áp dụng. Đây là một nội dung mới được bổ
sung vào BLTTDS năm 2015 nhằm bảo đảm tối
đa quyền tiếp cận công lí của người dân. Khi
người dân có tranh chấp, yêu cầu về dân sự và
họ viện cầu đến Tòa án để giải quyết, Tòa án
không được phép từ chối giải quyết chỉ vì lí do
vụ việc dân sự đó chưa có điều luật để áp dụng,
mà Tòa án phải thụ lí và áp dụng các nguồn
khác của luật dân sự để giải quyết vụ việc đó,
như áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp
luật, áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng, nhằm bảo vệ
đến cùng quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ
thể quan hệ pháp luật dân sự.
Quyền được xét xử bởi tòa án độc lập, vô
tư, không thiên vị
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62 59
Pháp luật Việt Nam ghi nhận nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và nguyên tắc bảo
đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự.
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật được ghi nhận tại
Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 9 Luật tổ
chức Tòa án Nhân dân năm 2014 và Điều 12
BLTTDS năm 2015. Độc lập vừa là đặc trưng
vừa là yêu cầu của hoạt động xét xử, là bảo đảm
thiết yếu để vụ việc dân sự được giải quyết một
cách đúng đắn, khách quan, công bằng, bảo vệ
được quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự,
bảo vệ công lí. Nguyên tắc này có ba nội dung
cơ bản:
Thứ nhất, khi xét xử các vụ án dân sự và
giải quyết việc dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập, không bị lệ thuộc vào ý kiến,
không chịu sự can thiệp của bất kì cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào, kể cả các cá nhân, cơ quan,
tổ chức bên ngoài Toà án và cá nhân, tổ chức
trong nội bộ Toà án (chẳng hạn như lãnh đạo
Tòa án, Tòa án cấp trên, các thành viên khác
trong cùng Hội đồng xét xử).
Thứ hai, mặc dù Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập nhưng không tuỳ tiện, mà là độc
lập trong khuôn khổ của pháp luật, độc lập
nhưng phải tuân theo pháp luật. “Chỉ tuân theo
pháp luật” chính là giới hạn, khuôn khổ của sự
độc lập. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải
tuân thủ và áp dụng đúng các quy định của
pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng để giải
quyết vụ việc dân sự.
Thứ ba, pháp luật nghiêm cấm các cơ quan,
tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân dưới bất kì hình
thức nào. Người nào có hành vi can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhằm làm
cho việc giải quyết vụ việc dân sự không khách
quan, không đúng pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lí kỷ luật, xử
phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự (Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân
năm 2014, Điều 496 BLTTDS).
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan
trong tố tụng dân sự được ghi nhận tại Điều
16 BLTTDS. Nguyên tắc này là bảo đảm
quan trọng cho việc giải quyết các vụ án dân
sự được đúng đắn, không thiên vị hoặc có
định kiến với một trong các bên đương sự,
nhằm bảo vệ công lí, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố
tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
trong tố tụng dân sự được ghi nhận tại Điều 16
Hiến pháp năm 2013, Điều 12 Luật Ttổ chức
Tòa án Nhân dân năm 2014. Bình đẳng trước
Tòa án có nghĩa là các bên trong vụ án dân sự
được Tòa án đối xử bình đẳng trong suốt quá
trình tố tụng và được đặt ở vị trí ngang bằng
nhau trong việc đưa ra các yêu cầu, trình bày
các chứng cứ, lập luận.
Quyền được xét xử kịp thời, công bằng,
công khai
Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công
bằng, công khai được ghi nhận tại Điều 103
Hiến pháp năm 2013, Điều 11 Luật tổ chức Tòa
án Nhân dân năm 2014 và Điều 15 BLTTDS
năm 2015. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ quyền con người trong
hoạt động xét xử, đặt ra yêu cầu việc xét xử
không những phải đúng đắn, khách quan, công
bằng mà còn phải kịp thời, nhanh chóng, không
chậm trễ, tạo điều kiện cho công chúng có thể
giám sát hoạt động xét xử. Nguyên tắc này có
ba nội dung cơ bản: (1) Tòa án phải xét xử kịp
thời trong thời hạn do BLTTDS quy định; (2)
Tòa án phải xét xử công bằng cả về kết quả giải
quyết vụ án và công bằng về thủ tục tố tụng,
bảo đảm cho đương sự được thực hiện tất cả
các quyền tố tụng của mình; (3) Tòa án phải xét
xử công khai, mọi người đều có quyền tham
dự phiên tòa. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí
mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục
của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên
hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh
doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của
đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì
Tòa án có thể xét xử kín.
Quyền được bảo đảm tranh tụng
Quyền được bảo đảm tranh tụng thể hiện ở
hai nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự Việt
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
60
Nam: nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét
xử và nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử
lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại Điều
103 Hiến pháp năm 2013, Điều 13 Luật tổ chức
Tòa án Nhân dân năm 2014 và Điều 24
BLTTDS năm 2015 (trước đây, BLTTDS năm
2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) chỉ ghi nhận
nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong tố
tụng dân sự với nội dung hẹp hơn nhiều so với
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử).
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án được đúng đắn, khách quan, phát
huy vai trò chủ động của các đương sự và tính
dân chủ trong hoạt động xét xử, hạn chế việc
Tòa án có định kiến trước về việc giải quyết vụ
án, đồng thời tạo điều kiện cho Tòa án được
tiếp cận các chứng cứ, lí lẽ, lập luận đa chiều
của các bên trước khi ra quyết định thay vì Tòa
án tự mình điều tra, thu thập chứng cứ từ đầu và
hình thành đường lối giải quyết một chiều theo
quan điểm riêng của Tòa án. Do đó, trong tiến
trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong xét xử đã từng bước
được nhận thức đầy đủ hơn và cuối cùng được
ghi nhận chính thức trong Hiến pháp năm 2013,
Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2014 và
BLTTDS năm 2015 với các nội dung chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm
cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh
tụng trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, từ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm đến giám
đốc thẩm, tái thẩm.
Thứ hai, đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu
thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa
án thụ lí vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo
cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp;
trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập
luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng
để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Để
tranh tụng được thực hiện một cách hiệu quả thì
các bên đương sự phải được tiếp cận đầy đủ tài
liệu, chứng cứ của nhau để chuẩn bị các lí lẽ,
lập luận phản bác lại phía bên kia, do đó trao
đổi tài liệu, chứng cứ là một nội dung quan
trọng của bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Thứ ba, trong quá trình xét xử, mọi tài liệu,
chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách
quan, toàn diện, công khai. Tòa án điều hành
việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và
căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án,
quyết định. Tranh tụng sẽ trở nên vô nghĩa nếu
sau khi các đương sự thực hiện quyền tranh
tụng, Tòa án ra quyết định hoàn toàn khác,
không căn cứ vào kết quả tranh tụng, không
xem xét đến các lí lẽ, lập luận của các bên đưa
ra. Vì vậy, việc Tòa án căn cứ vào kết quả tranh
tụng để ra bản án, quyết định cũng là một nội
dung quan trọng của bảo đảm tranh tụng trong
xét xử.
Quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ
Điều 14 Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân
năm 2014 và Điều 9 BLTTDS năm 2015 ghi
nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự. Quyền bảo
vệ có nghĩa là quyền đưa ra các chứng cứ, lí lẽ,
lập luận để thuyết phục Tòa án bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Quyền bảo vệ có thể
được thực hiện bởi chính đương sự hoặc bởi
luật sư hay người khác do đương sự nhờ. Việc
thực hiện được quyền bảo vệ giúp đương sự có
cơ hội trình bày, có tiếng nói trong quá trình tố
tụng và được Tòa án lắng nghe trước khi ra
phán quyết ảnh hưởng đến tài sản, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của đương sự. Trong nhiều
trường hợp, các đương sự đứng trước Tòa án
thường có tâm lí e ngại, lo sợ, mất bình tĩnh,
thiếu tự tin, nhất là các đương sự chưa hoặc ít
có kinh nghiệm tham gia tố tụng, nên họ khó
có thể thực hiện có hiệu quả quyền tự bảo vệ
cho mình, vì vậy việc bảo đảm cho đương sự
thực hiện quyền bảo vệ, tạo điều kiện cho họ
có luật sư hoặc trợ giúp viên pháp lí bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ là điều có ý
nghĩa rất quan trọng.
Quyền được thi hành án
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án,
quyết định của Tòa án được ghi nhận tại Điều
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62 61
106 Hiến pháp năm 2013 và Điều 19 BLTTDS
năm 2015. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc bảo đảm sự tôn nghiêm và hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án, xây dựng
niềm tin của người dân vào Tòa án và hệ thống
tư pháp nói chung, cũng như bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các đương sự, bảo vệ quyền
con người, đặc biệt là quyền tiếp cận công lí và
quyền được xét xử công bằng. Toàn bộ quá
trình giải quyết vụ việc dân sự sẽ trở nên vô
nghĩa nếu như bản án, quyết định của Tòa án
không được thi hành trên thực tế. Việc thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật nhằm hiện thực hóa quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự đã được xác định
trong bản án, quyết định.
Nhận xét về các quyền thủ tục công bằng
trong tố tụng dân sự Việt Nam
Có thể nói, pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam đã ghi nhận đa số các quyền thủ tục
công bằng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên,
pháp luật dân sự Việt Nam vẫn còn những bất
cập sau đây:
Một là: Cách tiếp cận của các nhà làm luật
Việt Nam chưa hoàn toàn là “tiếp cận dựa trên
quyền”, không quy định trực tiếp các quyền thủ
tục công bằng như trong lí thuyết pháp luật và
án lệ của tòa án Hoa Kì và châu Âu, do đó
chúng ta phải suy luận gián tiếp các quyền này
từ các quy định về nguyên tắc của luật tố tụng
dân sự. Trong số các nguyên tắc cơ bản được
ghi nhận trong BLTTDS Việt Nam, có rất ít
nguyên tắc thể hiện quyền của đương sự, mà đa
số là quy định về trách nhiệm, địa vị của cơ
quan tiến hành tố tụng, coi cơ quan tiến hành tố
tụng và người tiến hành tố tụng là các chủ thể
trung tâm của tố tụng dân sự. Điều đó vẫn thể
hiện tư duy “bao cấp” trong tố tụng dân sự, cho
rằng luật thủ tục là luật dành cho các cơ quan
công quyền, chưa đề cao các quyền về thủ tục
công bằng của đương sự.
Hai là: Do cách tiếp cận của nhà làm luật
xuất phát từ các cơ quan và người tiến hành tố
tụng hơn là xuất phát từ các quyền thủ tục công
bằng, một số quyền thủ tục công bằng cơ bản
chưa được ghi nhận một cách rõ ràng, minh
định trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,
mà ẩn trong các quy định khác với nội hàm hẹp
hơn nhiều so với các quyền thủ tục công bằng
trong tố tụng dân sự Hoa Kì hay châu Âu,
chẳng hạn như quyền được thông báo (ẩn trong
các quy định về tống đạt, về hoãn phiên tòa),
quyền được lắng nghe (ẩn trong các quy định về
thủ tục tiến hành phiên tòa), quyền được xét xử
chỉ trên cơ sở chứng cứ của vụ án và được giải
thích về lí do ra bản án, quyết định (ẩn trong
các quy định về thủ tục ra bản án của tòa án).
Ba là: Đối với các quyền thủ tục công bằng
đã được ghi nhận trong tố tụng dân sự Việt
Nam, việc thực thi chúng trên thực tế còn nhiều
hạn chế, ví dụ: quyền được xét xử bởi tòa án
độc lập, vô tư, không thiên vị; quyền được xét
xử kịp thời, quyền được bảo đảm tranh tụng,
quyền được lắng nghe, quyền được giải thích về
lí do ra bản án, thể hiện ở một số thực tiễn như
tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
chưa được bảo đảm; tranh tụng trong nhiều vụ
án dân sự còn rất hình thức do không có luật sư
tham gia; nhiều bản án, quyết định thiếu lập
luận, không xem xét đầy đủ mọi chứng cứ, lí lẽ,
lập luận của các bên; pháp luật vẫn còn quy
định nhiều trường hợp tòa án tự mình ra quyết
định tố tụng không cần có ý kiến của đương sự
như quyết định trả lại đơn khởi kiện, quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án,
Thẩm phán trong tố tụng dân sự Việt Nam
hiện nay đóng vai trò lớn và chủ động, được coi
là “người tiến hành tố tụng”, có thể tự mình thu
thập chứng cứ, xét hỏi tại phiên tòa, vai trò của
đương sự chỉ được coi là “người tham gia tố
tụng”, tức là ở vị thế phụ, thấp hơn, mờ nhạt
hơn nhiều so với vai trò của thẩm phán. Thẩm
phán có thể tự mình hành động và ra các quyết
định không phụ thuộc vào yêu cầu của các bên)
[5]. Viện Kiểm sát cũng đóng một vai trò đáng
kể, được thừa nhận là một trong những “cơ
quan tiến hành tố tụng”, có quyền kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Tranh tụng thường chỉ được thực hiện ở
những vụ án có luật sư tham gia, hoặc những vụ
án đương sự có trình độ pháp luật nhất định. Ở
khu vực nông thôn, miền núi, phần lớn đương
sự là người dân tộc thiểu số hoặc người dân có
trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế, điều kiện
N.V.Quan, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 51-62
62
kinh tế không cho phép để thuê luật sư, do đó
khi tham gia tố tụng tại Tòa án, các đương sự
hầu như không thực hiện quyền tranh tụng. Số
vụ việc dân sự có luật sư hoặc trợ giúp viên
pháp lí tham gia để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các đương sự là rất nhỏ.
Mặc dù BLTTDS năm 2015 đã quy định
“Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng, các
chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để phân
tích, đánh giá, nhận định về các tình tiết của vụ
án, những căn cứ pháp luật, để chấp nhận
hoặc không chấp nhận yêu cầu, đề nghị của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề
khác có liên quan” (Khoản 2.b Điều 266
BLTTDS năm 2015), nhưng trên thực tế, vẫn
còn tình trạng các bên đưa ra lập luận nhưng
bản án, quyết định không xem xét, phân tích để
chấp nhận hay bác bỏ lập luận đó, mà chỉ đưa ra
phán quyết theo quan điểm riêng của tòa án.
Trong nhiều trường hợp, tòa án không giải thích
vì sao đưa ra được phán quyết, mà chỉ viện dẫn
điều luật áp dụng, như vậy việc tranh tụng của
các bên sẽ chỉ mang tính hình thức nếu kết quả
tranh tụng không được phản ánh trong bản án,
quyết định. Nếu hiểu tranh tụng theo đúng
nghĩa thì khi mỗi bên đưa ra chứng cứ, lập luận
nào, tòa án phải xem xét và quyết định chấp
nhận hay bác bỏ chứng cứ, lập luận đó. Kể cả
đối với lập luận thiếu thuyết phục, không có căn
cứ, tòa án cũng phải chỉ ra được lập luận đó có
khiếm khuyết ở điểm nào. Tình trạng bản án,
quyết định không xem xét đầy đủ lập luận của
các bên hoặc thậm chí không có lập luận về căn
cứ ra phán quyết của tòa án còn khá phổ biến.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát
triển khoa học và công nghệ Quốc gia
(NAFOSTED) trong đề tài mã số 505.01-
2018.300.
Tài liệu tham khảo
[1] Rhonda Wasserman, Procedural Due Process: A
Reference Guide to the United States
Constitution, Greenwood Publishing Group, 2004.
[2] E. Thomas Sullivan and Toni M. Massaro, The
Arc of Due Process in American Constitutional
Law, Oxford University Press, 2013.
[3] Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình
Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[4] European Court of Human Rights (2013), Guide to
Article 6: The Right to a Fair Trial (Civil Limb),
NG.pdf.
[5] C.H. Van Rhee & Alan Uzelac (eds.), Truth and
Efficiency in Civil Litigation: Fundamental
Aspects of Fact-Finding and Evidence-Taking in a
Comparative Context, Intersentia, 2012, pp. 5-6.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_quyen_thu_tuc_cong_bang_trong_to_tung_dan_su_o_mot_so_qu.pdf