Các tiêu chí đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh trong tập trung kinh tế

Một số góp ý hoàn thiện Dự thảo Thứ nhất, mục tiêu của Luật Cạnh tranh Có thể nói mục tiêu của Luật Cạnh tranh sẽ là kim chỉ nam cho việc kiểm soát các giao dịch, hành vi TTKT. Chỉ khi nhà làm luật xác định được đầy đủ và nghiêm túc mục tiêu này, các tiêu chí đánh giá mới phát huy tính hiệu quả của nó xét cả từ khía cạnh lý luận lẫn khả năng thực thi. Đặt trong bối cảnh Dự thảo được xây dựng trên cơ sở chỉ quy định các nguyên tắc chung, thì mục tiêu của Luật Cạnh tranh càng trở nên cần thiết hơn. Bởi chính mục tiêu của Luật sẽ trở thành tiêu chí để cơ quan cạnh tranh có thể áp dụng các phân tích kinh tế trong việc đánh giá các cơ sở cho doanh nghiệp được hưởng miễn trừ. Một khi mục tiêu của Luật không rõ ràng thì sẽ làm cho việc thực thi khó dự đoán và nguy hiểm hơn là có thể mang tính tùy tiện. Có thể cân nhắc các mục tiêu của Luật Cạnh tranh Việt Nam trong giai đoạn tới: Một là: Bảo đảm cạnh tranh tự do và công bằng trên thị trường; Hai là: Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; Ba là: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới. Trong đó, tiêu chí thứ ba có thể coi là một tiêu chí mang tính đặc thù của Việt Nam. Cần phải thấy rằng, Luật Cạnh tranh là một trong những công cụ hữu hiệu của chính sách cạnh tranh. Kết hợp cùng với việc nhấn mạnh vai trò của tư duy kinh tế trong quá trình thực thi, tiêu chí nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới sẽ và nên là một thành tố trong tiêu chí lớn là tác động tích cực của việc TTKT đối với nền kinh tế

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 128 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tiêu chí đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh trong tập trung kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường, sức ép cạnh tranh làm cho các hành vi tập trung kinh tế ngày càng phổ biến, gây những tác động khác nhau đến cạnh tranh và người tiêu dùng. Nhằm kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế một cách hiệu quả, Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi)1 đã có các quy định mới, đặc biệt là các tiêu chí đánh giá tác động của hành vi tập trung kinh tế đối với thị trường. Bài viết bàn về các tiêu chí đánh giá trong Dự thảo dựa trên các phân tích kinh tế và kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài. Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) đã có một quy định riêng để xác định các tiêu chí đánh giá trong quá trình thẩm định hồ sơ tập trung kinh tế (TTKT)2. Nhằm đánh giá tính phù hợp của các tiêu chí thẩm định được quy định tại Điều 29 của Dự thảo, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề dựa trên bốn khía cạnh: (i) Bản chất kinh tế của các tác động hạn chế cạnh tranh (HCCT) của TTKT; 1 Xem Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi) trên https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Doanh-nghiep/Luat-canh- tranh-2017-345182.aspx. 2 Sau đây gọi tắt là tiêu chí thẩm định. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG Phạm Hoài Huấn* Abstract: Along with the development of the market economy in Vietnam, its competitive pressure have made the prevailing economic concentration more popular, which generates different impacts to both the competition and consumers. For the best effective control of the economic concentration, the Bill on Competition has been formulated with new provisions, particularly the criteria for assessment of the impacts of the economic concentration on markets. This article provides the discussion on the criteria in the Bill on Competition, based on the economic analysis and experience of foreign laws. Thông tin bài viết: Từ khóa: Dự thảo Luật Cạnh tranh, tác động hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 28/05/2017 Biên tập: 21/07/2017 Duyệt bài: 28/07/2017 Article Infomation: Keywords: Bill on competition, competition restricting impacts; economic concentration Article History: Received: 28 May 2017 Edited: 21 Jul. 2017 Appproved: 28 Jul. 2017 * ThS, GV Khoa Luật Thương mại - Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG TẬP TRUNG KINH TẾ (ii) Khía cạnh tích cực của TTKT; (iii) Đánh giá chi tiết Điều 29; (iv) Góp ý hoàn thiện Dự thảo. 1. Khía cạnh tác động hạn chế cạnh tranh Nhìn từ góc độ chuỗi sản xuất, các hành vi TTKT có thể diễn ra ở các hình thức tập trung theo chiều ngang, tập trung theo chiều dọc và TTKT hỗn hợp. Trong đó, dạng BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 37Số 15(343) T8/2017 TTKT theo chiều ngang luôn được xác định là dạng TTKT có khả năng tác động HCCT cao nhất3, bên cạnh những dạng TTKT theo chiều dọc hoặc hỗn hợp. So với Luật Cạnh tranh hiện hành chỉ kiểm soát các hành vi TTKT theo chiều ngang, sự thay đổi về phương thức tiếp cận như cách Dự thảo đang xây dựng là phù hợp. Doanh nghiệp sau TTKT chỉ có thể gây tổn hại cho người tiêu dùng thông qua việc tăng, duy trì giá bán trên mức giá cạnh tranh hoặc giảm chất lượng, sản lượng dưới mức cạnh tranh mà vẫn thu được lợi nhuận khi nó có được một sức mạnh thị trường đáng kể. Nhưng doanh nghiệp chỉ có thể đạt được điều đó khi nó là doanh nghiệp duy nhất hoặc là một doanh nghiệp có sức mạnh đáng kể nằm trong một cấu trúc thị trường độc quyền nhóm và tồn tại nhiều rào cản gia nhập thị trường. 1.1 Mức độ tập trung của thị trường Bản chất của các hành vi TTKT là nhằm tạo lập nên sức mạnh thị trường lớn hơn cho doanh nghiệp sau TTKT. Cùng với việc TTKT, cấu trúc thị trường cũng sẽ thay đổi theo hướng số lượng doanh nghiệp giảm đi và tương quan về quy mô và sức mạnh của các doanh nghiệp trên thị trường cũng khác đi. Để đo lường cho sự thay đổi đó, kinh tế học sử dụng chỉ số HHI để đánh giá. Chỉ số HHI (Herfindahl-Hirschman Index) có nghĩa là thước đo được chấp nhận một cách rộng rãi khi xác định mức độ tập trung của thị trường. HHI được tính bằng tổng bình phương thị phần của mỗi công ty cạnh tranh trên thị trường. Chỉ số HHI dùng để đo quy mô của doanh nghiệp trong một thị trường. Cách tiếp cận là HHI bằng 0 điểm khi một thị 3 Paul Craig & Gráinne de Búrca (2011), EU Law: Text, Cases & Materials, 5th Edition, Oxford University Press, p. 1047. 4 5 Herbert Hovenkamp (1993), Antitrust, 2nd edition, West Publishing Co, p. 71: Các thỏa thuận ấn định giá hoạt động tốt trong một số mô hình thị trường so với các mô hình thị trường khác, đôi khi có những thị trường không thể tiến hành được... Một thị trường với số lượng càng ít doanh nghiệp thì càng dễ tiến hành các thỏa thuận HCCT. 6 U.S. Department of Justiceand theFederal Trade Commission, HorizontalMergerGuidelines, 5.3 Market Concentration. trường tồn tại một số lượng lớn các doanh nghiệp có quy mô tương đối bằng nhau và đạt tối đa là 10.000 điểm khi thị trường bị kiểm soát bởi một công ty duy nhất. Chỉ số HHI tăng cả khi số lượng doanh nghiệp trên thị trường giảm và cũng như sự chênh lệch về kích thước giữa các doanh nghiệp này tăng lên4. Một thị trường có hệ số tập trung cao cũng đồng nghĩa với việc thị trường tồn tại một số lượng ít các doanh nghiệp. Điều đó chứng tỏ rằng doanh nghiệp trong thị trường có sức mạnh thị trường. Tuy nhiên, nếu không có những chế tài nghiêm khắc từ Nhà nước, đó sẽ là yếu tố thuận lợi cho các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường. Ở một khía cạnh khác, thị trường có mức độ tập trung cao cũng là một cấu trúc thị trường lý tưởng để tiến hành các thỏa thuận HCCT5. Như trên đã đề cập, bản thân hành vi TTKT chưa gây ra thiệt hại cho cạnh tranh. Nhưng chính hành vi này có khả năng tạo ra nguy cơ HCCT. Dù là nguy cơ dẫn đến các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường hay các thỏa thuận HCCT đều là những thiệt hại phải ngăn ngừa. Chính vì vậy mà nhìn từ góc độ của hệ số tập trung của thị trường, theo pháp luật cạnh tranh Hoa Kỳ, cơ quan cạnh tranh thường xem xét thị trường mà chỉ số HHI dao động giữa 1.500 và 2.500 điểm, khi đó, thị trường tập trung vừa phải và khi HHI vượt quá 2.500 điểm, thì thị trường tập trung cao độ6. Ủy ban Châu Âu cũng coi HHI là một trong những chỉ số cần phải xác định đầu tiên trong quá trình xử lý một vụ TTKT. Theo đó, trong trường hợp nếu HHI dưới 1000 điểm thì đây là một thị trường có mức độ tập trung thấp, có nghĩa mức độ HCCT của hành vi hầu như là không có, không cần BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 38 Số 15(343) T8/2017 phải tiến hành các phân tích tiếp theo7. 1.2 Thị trường độc quyền nhóm và hành động song song của các doanh nghiệp Thị trường độc quyền nhóm được kinh tế học định nghĩa là thị trường chỉ tồn tại một số lượng nhỏ các doanh nghiệp. Vì chỉ tồn tại một số lượng nhỏ các doanh nghiệp nên mỗi hành vi tăng hoặc giảm giá của doanh nghiệp đều có khả năng tác động đến các doanh nghiệp còn lại trong thị trường8. Cho nên, khi doanh nghiệp sau TTKT, tạm gọi là A tăng giá bán, các doanh nghiệp còn lại trong thị trường sẽ có một trong hai lựa chọn: (i) Tăng giá bán cùng với A; (ii) Giữ nguyên giá hoặc giảm giá. Trong trường hợp, nếu các doanh nghiệp còn lại không tăng giá, A buộc phải giảm giá hoặc chấp nhận bị mất khách hàng. Điều đó cũng có nghĩa là cạnh tranh vẫn được duy trì. Nhưng ở khía cạnh ngược lại, phản ứng của các doanh nghiệp đối thủ là cùng tăng giá với A, có nghĩa người dùng phải trả giá cao hơn cho trường hợp này. Cho nên, khả năng hành động song song của doanh nghiệp trong thị trường là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ tác động HCCT9. Theo khuyến nghị của International Competition Network, cùng với các đánh giá về thị trường và mức độ tập trung của thị trường, thì đánh giá về ảnh hưởng từ hoạt động cộng hưởng của các doanh nghiệp sau TTKT giữ một vai trò rất 7 Guidelines on the assessment of horizontal mergers under the Council Regulation on the control of concentrations between undertakings, para 19. 8 N. Gregory Mankiw (2011), Principles of Economics, 6th Edition, Cengage Learning, p. 330. 9 Cần lưu ý rằng, hành động song song của doanh nghiệp trong thị trường độc quyền nhóm là hoàn toàn khác và không cấu thành nên hành vi thỏa thuận HCCT. Bản chất của thỏa thuận HCCT đó là phải có thỏa thuận thống nhất hành động giữa các bên, nhưng hành động song song chỉ đơn thuần là phản ứng của doanh nghiệp trong thị trường trước sự thay đổi về chiến lược kinh doanh của đối thủ. Xem thêm Albertina Albors-LLorens (2006), Horizontal agreements and concerted practices in EC competition law: Unlawful and legitimate contacts between competitors, 51 Ant Bull 837. 10 ICN (2006), ICN Merger Guidelines Workbook, 4D. 11 UNCTAD (2010), Model law on competition, p. 38, trên Model-Law-on-Competition.aspx , truy cập ngày 26/11/2016. 12 Guidelines on the assessment of horizontal mergers under the Council Regulation on the control of concentrations between undertakings, para 70. quan trọng trong việc xác định khả năng gây HCCT10. 1.3 Rào cản gia nhập thị trường Rảo cản gia nhập thị trường đề cập đến một số yếu tố có thể cản trở hoặc ngăn cản việc gia nhập của các doanh nghiệp mới vào ngành ngay cả khi các doanh nghiệp đang hoạt động trong thị trường đó đang thu được lợi nhuận quá mức. Có hai loại rào cản gia nhập thị trường: rào cản cấu trúc (hoặc kinh tế) và rào cản chiến lược (hoặc hành vi)11. Có thể nói rào cản gia nhập thị trường là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tác động HCCT của việc TTKT. Bởi yếu tố được quan ngại trong vụ TTKT đó là liệu rằng sau khi TTKT, doanh nghiệp có lạm dụng sức mạnh vừa đạt được đó để bóc lột khách hàng hay không? Trong một thị trường tồn tại nhiều rào cản gia nhập thị trường thì doanh nghiệp có thể làm được việc này. Bởi các đối thủ tiềm năng có thể gặp trở ngại khi gia nhập thị trường bởi các rủi ro và chi phí; do đó có tác động đến khả năng sinh lời. Rào cản gia nhập là đặc điểm của thị trường, nó cho phép các doanh nghiệp đang hoạt động có được lợi thế hơn các đối thủ tiềm năng12. Nhưng nếu như thị trường không có hoặc mức độ cản trở việc gia nhập thị trường là thấp, việc tăng giá bán của doanh nghiệp sẽ là nguyên nhân thôi thúc các doanh nghiệp khác gia nhập vào thị trường và tạo nên thế cạnh tranh mới. Nhìn chung, một vụ TTKT sẽ mang lại cho các doanh nghiệp tham gia sức mạnh thị BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 39Số 15(343) T8/2017 trường lớn hơn. Chính điều đó làm cho cấu trúc thị trường thay đổi theo hướng mức độ thị trường được tập trung cao độ hơn. Nhưng nếu chỉ riêng mức độ tập trung thị trường cao thì chưa đánh giá được khả năng HCCT, mà còn cần phải đánh giá một cách toàn diện các yếu tố như tương quan giữa doanh nghiệp sau TTKT và các doanh nghiệp còn lại trên thị trường, khả năng hành động song song và liệu rằng khi tăng giá bán thì có gặp trở ngại bị mất thị phần bởi sự gia nhập của các đối thủ mới. 2. Khía cạnh tích cực của tập trung kinh tế TTKT dưới những điều kiện nhất định cũng mang lại những giá trị tích cực. Nhìn từ góc độ kinh tế học, các giá trị này có thể xem xét từ khía cạnh tính kinh tế của quy mô, hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực hoặc thậm chí là nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành sản xuất trong nước trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. 2.1 Tính kinh tế của quy mô (economics of scale) Tính kinh tế của quy mô được hiểu là chi phí sản xuất trung bình trong dài hạn của doanh nghiệp sẽ giảm khi quy mô sản xuất gia tăng13. Tính kinh tế của quy mô được nhìn nhận thông qua ba khía cạnh sau: Thứ nhất, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp phải chịu chi phí cố định14. Chi phí này là không thay đổi theo sản lượng. Khi sản xuất hay không sản xuất, sản lượng nhiều hay ít, thì doanh nghiệp vẫn phải chi trả. Cho nên, khi doanh nghiệp sản xuất nhiều, đồng nghĩa chi phí sẽ giảm. Thứ hai, tính chuyên nghiệp hóa: bằng việc phối hợp hành động, doanh nghiệp có thể trao đổi thông tin, bí quyết sản xuất, hoặc phân chia phối hợp thực hiện chuỗi sản xuất. Điều này cũng góp phần làm cho hiệu quả 13 David Begg, Gianluigi Vernasca, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch (2011), Economics 10th Edition, McGraw-Hill Education, p. 160. 14 Robert S. Pindyck, Daniel L. Rubinfeld (2013), Microeconomics, 8th Edition, Pearson, p. 233. Chi phí cố định là chi phí không thay đổi theo sản lượng đầu ra và chi phí này chỉ có thể được loại trừ khi doanh nghiệp không còn kinh doanh nữa. 15 David Begg, tlđd, tr. 160. sản xuất nâng cao, chi phí sản xuất giảm. Thứ ba, tính liên quan trong quá trình sản xuất. Hiệu quả về quy mô nhìn nhận ở góc độ các doanh nghiệp sản xuất ở quy mô lớn, sẽ tận dụng tốt hơn sức mạnh về công nghệ và máy móc, điều mà nếu doanh nghiệp sản xuất đơn lẻ ở quy mô nhỏ sẽ không đầu tư15. 2.2 Hoàn thiện chuỗi sản xuất Các hành vi TTKT, đặc biệt là TTKT theo chiều dọc trong nhiều trường hợp sẽ giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện được chuỗi sản xuất của mình. Việc sở hữu một chuỗi sản xuất khép kín từ sản xuất, đóng gói đến phân phối sẽ giúp cho hoạt động của doanh nghiệp được nhịp nhàng và tiết kiệm chi phí. Đặt trong bối cảnh của hội nhập kinh tế thế giới, cạnh tranh không chỉ xảy ra trong phạm các doanh nghiệp quốc nội. Quan trọng hơn, cùng với việc hội nhập kinh tế thế giới, các doanh nghiệp sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Việc TTKT sẽ giúp cho các doanh nghiệp có được sức mạnh thị trường một cách nhanh chóng và trở thành “nhà vô địch quốc gia” trong ngành đó. Giá trị tích cực được nhìn nhận ở chỗ chính các “nhà vô địch” này sẽ là đại diện của nền sản xuất trong nước và sẽ là thế lực giúp cân bằng thị trường, đón đầu trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và đưa cạnh tranh lên tầm cao hơn. 3. Quy định của Dự thảo Luật Cạnh tranh Theo quy định tại Điều 29 của Dự thảo, khi tiến hành thẩm định một vụ TTKT, Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (Ủy ban) sẽ đánh giá thông qua ba tiêu chí: a) Cấu trúc thị trường và mức độ tập trung trên thị trường; BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 40 Số 15(343) T8/2017 b) Khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường; c) Tác động tích cực của việc TTKT đối với nền kinh tế. Như vậy, phương pháp kiểm soát TTKT đang được sử dụng trong Dự thảo vẫn là đánh giá dựa trên việc so sánh hai khía cạnh tác động tiêu cực và giá trị tích cực mà hành vi TTKT mang lại. 3.1 Tác động tiêu cực của hành vi TTKT Cụm từ “tác động HCCT một cách đáng kể” là cụm từ được sử dụng xuyên suốt trong Dự thảo. Đối với vấn đề kiểm soát các hành vi TTKT, nó là tiêu chuẩn cơ bản để Ủy ban xác định một giao dịch TTKT là được phép tiến hành hay bị cấm16. Đồng thời, theo khoản 2 Điều 31 của Dự thảo: 2. Trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 28 Luật này, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ: a) TTKT không thuộc trường hợp bị cấm; b) TTKT được thực hiện kèm theo điều kiện hoặc một hay một số biện pháp khắc phục quy định tại Điều 32 Luật này; c) TTKT thuộc trường hợp bị cấm. Có thể hình dung, ngay cả việc áp dụng kèm các biện pháp khắc phục cũng nhằm mục đích giảm thiểu hoặc loại bỏ các tác hại của hành vi TTKT. Cụm từ “tác động HCCT một cách đáng kể” có tính khái quát rất cao. Trong một chừng mực nào đó, nó giống như cách khái quát mà pháp luật cạnh tranh của EU và Hoa Kỳ đang tiến hành. Tuy vậy, xoay quanh việc đánh giá khía cạnh tiêu cực của vụ TTKT thì Điều 29 Dự thảo vẫn chưa thật hoàn hảo. Vì xét về mặt định tính, thì như trên đã phân tích, tiêu 16 Điều 24 Dự thảo quy định: Cấm tập trung kinh tế có tác động hoặc có khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam. chí “cấu trúc thị trường và mức độ tập trung trên thị trường” là một trong những tiêu chí để đánh giá mức độ nguy hại của hành vi. Cho nên, khi đã đánh giá “khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường” có nghĩa xét về khía cạnh kinh tế, Ủy ban bắt buộc phải đánh giá mức độ tập trung và cấu trúc thị trường. Nói cách khác, nếu nhìn ở góc độ khái quát, đã đưa ra tiêu chí là “khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường” mà lại còn liệt kê “cấu trúc thị trường và mức độ tập trung trên thị trường” thì là thừa. Nhưng nếu như nhìn nhận ở góc độ liệt kê, thì việc đánh giá các mức độ tác động nguy hại nó không chỉ bao gồm “cấu trúc thị trường và mức độ tập trung trên thị trường” mà còn những thứ khác như đã phân tích. Nhìn từ khía cạnh này thì quy định này lại không đủ. 3.2 Tác động tích cực của hành vi TTKT đối với nền kinh tế Như đã phân tích, các hành vi TTKT có những giá trị tích cực nhất định. Đặc biệt là các hành vi TTKT theo chiều dọc, có thể tạo ra được những chuỗi sản xuất hoàn thiện, giúp doanh nghiệp tối ưu hóa được chi phí sản xuất, tìm được lợi thế trong tính kinh tế của quy mô hoặc thúc đẩy sự phát triển sản xuất thông qua các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D). Một trong những khía cạnh quan trọng trong giai đoạn này chúng ta nhất thiết phải tính đến đó là khía cạnh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. Để doanh nghiệp Việt Nam có thể trụ được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp ấy nhất thiết phải có sức mạnh thực sự. Vấn đề đặt ra là làm sao để doanh nghiệp Việt Nam có thể lớn mạnh trong một khoảng thời gian ngắn? Vấn đề này chỉ có thể giải quyết thông qua việc TTKT. Cho nên, TTKT còn phải được nhìn BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 41Số 15(343) T8/2017 nhận ở góc độ tích cực này. Trở lại với cụm từ “khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường”. Nội dung của cụm từ này đang mang tính định tính. Vấn đề là cần phải lượng hóa khả năng tác động. Giả định rằng, một giao dịch gây tác động xấu về cạnh tranh, hệ số tập trung cao nhưng đồng thời nó cũng mang lại những giá trị tích cực. Vấn đề mà Ủy ban phải giải quyết là nếu một hành vi TTKT có cả 3 yếu tố được quy định trong Điều 29, thì dựa trên cơ sở nào để Ủy ban xác định ranh giới của phần tiêu cực hay tích cực là nhiều hơn? 4. Một số góp ý hoàn thiện Dự thảo Thứ nhất, mục tiêu của Luật Cạnh tranh Có thể nói mục tiêu của Luật Cạnh tranh sẽ là kim chỉ nam cho việc kiểm soát các giao dịch, hành vi TTKT. Chỉ khi nhà làm luật xác định được đầy đủ và nghiêm túc mục tiêu này, các tiêu chí đánh giá mới phát huy tính hiệu quả của nó xét cả từ khía cạnh lý luận lẫn khả năng thực thi. Đặt trong bối cảnh Dự thảo được xây dựng trên cơ sở chỉ quy định các nguyên tắc chung, thì mục tiêu của Luật Cạnh tranh càng trở nên cần thiết hơn. Bởi chính mục tiêu của Luật sẽ trở thành tiêu chí để cơ quan cạnh tranh có thể áp dụng các phân tích kinh tế trong việc đánh giá các cơ sở cho doanh nghiệp được hưởng miễn trừ. Một khi mục tiêu của Luật không rõ ràng thì sẽ làm cho việc thực thi khó dự đoán và nguy hiểm hơn là có thể mang tính tùy tiện. Có thể cân nhắc các mục tiêu của Luật Cạnh tranh Việt Nam trong giai đoạn tới: Một là: Bảo đảm cạnh tranh tự do và công bằng trên thị trường; Hai là: Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; Ba là: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới. 17 Điểm c khoản 1 Điều 29 Dự thảo. Trong đó, tiêu chí thứ ba có thể coi là một tiêu chí mang tính đặc thù của Việt Nam. Cần phải thấy rằng, Luật Cạnh tranh là một trong những công cụ hữu hiệu của chính sách cạnh tranh. Kết hợp cùng với việc nhấn mạnh vai trò của tư duy kinh tế trong quá trình thực thi, tiêu chí nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập kinh tế thế giới sẽ và nên là một thành tố trong tiêu chí lớn là tác động tích cực của việc TTKT đối với nền kinh tế17. Thứ hai, kỹ thuật quy định ba tiêu chí kiểm soát TTKT Có hai vấn đề liên quan đến kỹ thuật quy định ba tiêu chí thẩm định được quy định tại khoản 1 Điều 29 Dự thảo. Cụ thể: 1. Cấu trúc thị trường và mức độ tập trung trên thị trường; 2. Khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường; 3. Tác động tích cực của việc TTKT đối với nền kinh tế. Như trên đã trình bày, tiêu chí thứ (1) là một quy định thừa. Mặc dù nó chỉ là kỹ thuật diễn đạt, nhưng sẽ hay hơn khi ngay từ đầu, Dự thảo có sự chỉn chu về kỹ thuật lập pháp. Khuyến nghị của chúng tôi là nên bỏ tiêu chí (1), chỉ giữ lại hai tiêu chí (2) và (3). Tiêu chí (1) sẽ chỉ là một trong những tiêu chí được Chính phủ sử dụng để xác định khả năng gây tác động HCCT một cách đáng kể trên thị trường trong các hướng dẫn dưới luật. Ngoài ra, cần phải có nguyên tắc để xác định hoặc định hướng lượng hóa tiêu chí, đặc biệt là trong các vụ TTKT vừa gây hại nhưng vừa có khía cạnh tác động tích cực của việc TTKT đối với nền kinh tế. Khi một vụ TTKT vừa có hại vừa có lợi, thì cơ quan cạnh tranh sẽ dựa trên các phân tích hoặc nguyên tắc nào để xác định cấm hay cho phép thực hiện. Thoạt nhìn, có vẻ sẽ rất dễ để trả lời nhưng đi vào thực tế, nếu không xác định rõ mối quan hệ này và đặt trong bối cảnh mục tiêu của Luật Cạnh tranh là không (Xem tiếp trang 56) THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 42 Số 15(343) T8/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_tieu_chi_danh_gia_tac_dong_han_che_canh_tranh_trong_tap.pdf