Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sựu quy định tại điều 51 bộ luật hình sự năm 2015

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS: a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; ă) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; â) Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; b) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; ê) Người bị hại cũng có lỗi; g) Thiệt hại do lỗi của người thứ ba; h) Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; i) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; m) Phạm tội do lạc hậu; n) Người phạm tội là phụ nữ có thai; o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; ơ) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; p) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; q) Người phạm tội tự thú hoặc đầu thú; r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội; 2. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”. Bốn là, để thực hiện tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” và tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”, đề xuất cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện, theo đó trường hợp bị cáo hoặc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả nhưng bị hại không chấp nhận thì vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Về mặt pháp luật TTHS, cần đưa ra cách thức để cho phía bị cáo nộp tiền, tài sản bồi thường tại cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử trong trường hợp đã đặt ra

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 143 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sựu quy định tại điều 51 bộ luật hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam 1.1 Ý nghĩa xã hội: Trong việc cụ thể hóa chính sách hình sự1 của Nhà nước ta, xác định các nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chế định các tình tiết giảm nhẹ TNHS “có ý nghĩa lớn cả về mặt xã hội cũng như pháp lý, nên thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao hiệu quả vận dụng chế định các tình tiết giảm nhẹ TNHS”2. Chính các tình tiết giảm nhẹ được quy định giúp Nhà nước xác định một cách khách quan, công bằng hơn hành vi phạm tội, nhân thân, hoàn cảnh và thái độ của người phạm tội, kiểm chứng việc thực hiện nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự, để thực hiện đúng đắn mục đích của hình phạt là không chỉ trừng trị người phạm tội CAÁC TÒNH TIÏËT GIAÃM NHEÅ TRAÁCH NHIÏÅM HÒNH SÛÅ QUY ÀÕNH TAÅI ÀIÏÌU 51 BÖÅ LUÊÅT HÒNH SÛÅ NÙM 2015 Nguyễn Ngọc Kiện* * TS. Phó Trưởng khoa, Khoa Luật hình sự, Trường Đại học Luật Huế. Thông tin bài viết: Từ khoá: tình tiết giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự Lịch sử bài viết: Nhận bài: 15/12/2016 Biên tập: 13/01/2017 Duyệt bài: 06/02/2017 Article Infomation: Keywords: Extenuating circumstances, criminal liability. Article History: Received: 15 Dec. 2016 Edited: 13 Jan. 2017 Approved: 02 Feb. 2017 Tóm tắt: Hiện nay, Quốc hội nước ta đang xem xét sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS). Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS) trong BLHS để thấy được ý nghĩa quan trọng của nó về mặt xã hội và pháp lý, đồng thời làm rõ những bất cập và đưa ra một số đề xuất để hoàn thiện, góp phần phục vụ thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Abstract: Currently, the National Assembly of Vietnam is reviewing the Penal Code of 2015 for its amendments and supplements. Under this article, the author provides the analysis of the extenuating circumstances for criminal liability under the Penal Code of 2015 to understand its significance in terms of social and legal aspects, as well as addresses the shortcomings and proposes some suggestions for improvements to solve the criminal cases in practices. 31 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 1 Không nên nhầm lẫn giữa chính sách hình sự với chính sách pháp luật hình sự. Vì chính sách pháp luật hình sự là một bộ phận cấu thành của chính sách hình sự... Về vấn đề này, xem thêm: Phạm Văn Lợi (chủ biên), (2007), Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội. 2 Trần Thị Quang Vinh (2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 57. mà còn giáo dục họ hướng thiện và có tác dụng phòng ngừa tội phạm trong cộng đồng dân cư. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS hướng đến sự khoan hồng của Nhà nước; hướng đến sự công bằng căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội để truy cứu hoặc miễn TNHS cho hợp lý. Chính các tình tiết giảm nhẹ sẽ cân bằng được giữa một bên là thái độ của Nhà nước (nói riêng về biện pháp cưỡng chế hình sự) đối với tội phạm (thường là rất nghiêm khắc), một bên là quyền và lợi ích của công dân và xã hội. Ở đây muốn nói đến sự điều tiết của các tình tiết giảm nhẹ TNHS là làm giảm nhẹ sự nghiêm khắc của hình phạt nói riêng, TNHS nói chung và cân bằng giữa mục đích trừng trị tội phạm với mục đích giáo dục người phạm tội. Nó còn giảm thiểu hoặc tránh được sự lạm quyền của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện quyền lực công khi tiến hành tố tụng hình sự (TTHS). 1.2 Ý nghĩa pháp lý: Các tình tiết giảm nhẹ TNHS tác động đến việc cân nhắc quyết định hình phạt của Tòa án. Tác dụng phân hóa TNHS của các tình tiết giảm nhẹ TNHS làm cho nó trở thành một công cụ đắc lực để Tòa án coi là cơ sở của quyết định hình phạt. Đó là mức độ nặng hay nhẹ của hình phạt được vận dụng theo tình tiết giảm nhẹ TNHS nào sau khi đã đối trừ với các tình tiết tăng nặng TNHS, cũng như phải xem xét áp dụng hình phạt chính hay hình phạt bổ sung. Với đặc thù của quan hệ pháp luật TTHS đa số phải dựa vào quan hệ pháp luật hình sự, nên việc thiết lập các tình tiết giảm nhẹ đồng nghĩa với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh các tình tiết giảm nhẹ trong khi giải quyết vụ án hình sự. Hay nói cách khác, tình tiết giảm nhẹ là một trong những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng đảm trách. Xây dựng và vận dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS còn chi phối đến một số thủ tục TTHS, cụ thể: (1) Áp dụng biện pháp cưỡng chế TTHS: Đó là biện pháp ngăn chặn tạm giam quy định tại Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015. Theo đó, không áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người bị bệnh nặng, trừ trường hợp đặc biệt. Quy định này phù hợp với các tình tiết giảm nhẹ ở trường hợp người phạm tội là phụ nữ có thai, hoặc người mắc bệnh nặng bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. (2) Xem xét quyết định các loại hình phạt trong khi hội đồng xét xử nghị án, đó là ngoài các yếu tố khác phải xem xét, hội đồng xét xử phải cân nhắc đến tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS để áp đặt mức độ, tần suất của hình phạt chính và hình phạt bổ sung - nếu có -trọng tâm nhất là: + Vận dụng chế định án treo: Đó là khi xử phạt tù không quá 3 năm, Tòa án căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, Tòa án cho hưởng án treo. Trong các điều kiện cần và đủ vừa nêu để bị cáo được hưởng án treo thì điều kiện về các tình tiết giảm nhẹ (phải có 2 tình tiết trở lên) có tính tiên quyết; + Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (còn được gọi là hạ khung hình phạt): Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS. Trong trường hợp hội đủ các điều kiện quy định tại Điều 51 BLHS nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn và ghi rõ lý do của việc giảm nhẹ trong bản án. + Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm: Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng 32 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT người đồng phạm. Trong đó, Tòa án phải xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó. (3) Hội đồng xét xử xem xét miễn hình phạt: Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp được hạ khung hình phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS. Như vậy, miễn hình phạt là trường hợp đặc biệt áp dụng cho người phạm tội và người này phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS là điều kiện cần; điều kiện đủ là họ thuộc trường hợp đáng được khoan hồng đặc biệt. Điều kiện đủ này cũng là tiêu chí mà tình tiết giảm nhẹ TNHS được xác lập để hướng tới. (4) Hội đồng xét xử xem xét miễn TNHS cho người phạm tội là người dưới 18 tuổi: Người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 BLHS, thì có thể được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật. Như vậy, khi xem xét miễn TNHS cho người phạm tội dưới 18 tuổi thì tùy tội phạm cụ thể, họ có thể được miễn TNHS, nhưng họ phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 BLHS, trong đó tình tiết giảm nhẹ bắt buộc là tự nguyện khắc phục hậu quả (khắc phục phần lớn) - đó là điều kiện tiên quyết. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ có khả năng biểu đạt rất cụ thể cấu thành tội phạm trên cơ sở hành vi phạm tội của cá nhân hoặc pháp nhân. Sự biểu đạt ấy diễn ra trong các tội phạm cụ thể, trong từng trường hợp cụ thể của từng vụ án hình sự, cho thấy ý nghĩa lớn lao về mặt thực tiễn cũng như pháp lý. Tuy nhiên, không phải nó luôn phụ thuộc vào hành vi phạm tội cho dù hành vi phạm tội chi phối đến nó, và không phải lúc nào nó cũng chỉ có mục đích, ý nghĩa để định tội và định khung hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS không chỉ biện chứng với hoạt động tiến hành TTHS, mà nó còn mở ra ý nghĩa to lớn về việc thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta, cũng như chính sách phòng ngừa, xử lý tội phạm trong thời kỳ đổi mới đất nước; trong việc tiết giảm sự nghiêm khắc của hình phạt; và tạo ra sự bình đẳng, công bằng đáng kể cho người tham gia tố tụng nói chung và cho xã hội; góp phần khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và xã hội. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS chi phối đến các quan hệ pháp luật TTHS đã dẫn chứng ở trên yêu cầu phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, chính vì vậy, việc xác lập tình tiết giảm nhẹ phải tránh dễ dãi, tùy nghi và bảo đảm sự hợp lý. Trên thực tế, còn có trường hợp Tòa án tùy nghi, dễ dãi trong việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, trong việc quyết định mức án nặng, nhẹ không công bằng, thiếu nhất quán. Nguyên nhân đó là do BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ chưa hợp lý, cũng như cho phép Tòa án tùy nghi lựa chọn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quá mức cần thiết. Những bất cập về mặt quy phạm đó vẫn chưa được BLHS năm 2015 khắc phục. 2. Bất cập cụ thể tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 2.1 BLHS năm 2015 có 22 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51, ngoài ra khoản 2 Điều luật này còn quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú và các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ vào bản án. Vấn đề đặt ra là, Tòa án có quyền tùy nghi lựa chọn các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ và có thể coi hoặc không coi tình tiết nào đó là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo hay không? Tòa án có thể thiên vị khi quyết định hình phạt, đặc biệt là chấp nhận tình tiết giảm nhẹ để cho bị cáo hưởng án treo, giảm nhẹ hình phạt hay không? Về vấn đề này, Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã 33 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT liệt kê các tình tiết khác được coi là tình tiết giảm nhẹ (các tình tiết này đã được BLHS năm 2015 pháp điển hóa). Tuy nhiên, điều đáng quan tâm là Nghị quyết số 01 nêu trên dù đã liệt kê các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng lại hướng dẫn thêm là: ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Như vậy, BLHS năm 1999 đã có quy định tùy nghi cho Tòa án áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, thì Nghị quyết số 01 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao làm tăng khả năng tùy nghi trong việc áp dụng pháp luật. Vì thế, trên thực tế có rất nhiều tình tiết khác không nằm trong số đã liệt kê của Nghị quyết số 01 vẫn được Tòa án áp dụng. Ví dụ, các tình tiết như gia đình nghèo (có sổ hộ nghèo hoặc gia đình hoàn cảnh khó khăn bị cáo làm đơn được chính quyền địa phương xác nhận); ông bà nội, ngoại, người thân thích khác của bị cáo được tặng thưởng huân, huy chương, bằng khen, v.v.. 2.2 BLHS năm 2015 quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ không bảo đảm cơ sở lý luận và thực tiễn; cũng như vẫn tạo khả năng cho Tòa án duy trì sự tùy nghi, thậm chí là tùy tiện trong việc coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong việc quyết định hình phạt. Điều này dẫn đến hệ quả là bản án được tuyên thiếu nghiêm minh, thiếu công bằng do lỗi khách quan hoặc phần lớn là do lỗi chủ quan của Thẩm phán, trong đó không loại trừ khả năng nảy sinh yếu tố tiêu cực, tạo khe hở cho việc “chạy án”. Ví dụ: 2.2.1 Về tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS: Thực tế cho thấy, án thụ lý điều tra ở cấp huyện đa số là án phạm tội quả tang. Các vụ phạm tội quả tang hoặc các vụ hình sự khác người phạm tội hầu hết nhận tội, khai báo rõ ràng, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ này chiếm đa số. Chỉ một số ít vụ án phức tạp thì bị can, bị cáo không nhận tội, quanh co đối phó với cơ quan tiến hành tố tụng, mà trong những vụ này, dù có khuyến khích họ khai báo thành khẩn thì cũng rất khó vì với thái độ chống đối của họ, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh để buộc tội. Mục đích cơ bản của quy định tình tiết giảm nhẹ này là để khuyến khích bị cáo thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải. Tuy nhiên, với đa số các vụ án bị can, bị cáo đã thành khẩn khai báo thì không cần thiết phải quy định để đạt mục đích như đã nêu. Mặt khác, người phạm tội dù có khai báo hay không là quyền của họ, trách nhiệm chứng minh sự thật vụ án thuộc về Nhà nước. Ở đây muốn hướng đến sự bảo đảm quyền được im lặng của bị can, bị cáo. 2.2.2 Về tình tiết “Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm” quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS và tình tiết “Người phạm tội đã lập công chuộc tội” quy định tại điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS: Trong hai tình tiết giảm nhẹ này thì thừa một. Vì tình tiết giảm nhẹ “Đã lập công chuộc tội” là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử, người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt người phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của người khác... Như vậy, chỉ cần quy định tình tiết giảm nhẹ “Đã lập công chuộc tội” là đủ. 2.2.3 Tình tiết “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS: Có thể nói, tình tiết giảm nhẹ này được áp dụng chủ yếu cho đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Xác định tình tiết người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là tình tiết giảm nhẹ sẽ không bảo đảm tính công bằng. Bởi vì, với chế độ khen 34 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT thưởng hiện nay, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước hầu như ai cũng được khen thưởng hoặc luân phiên được khen thưởng với các hình thức khen thưởng như chiến sĩ thi đua, bằng khen, huân, huy chương v.v.., Thậm chí là chỉ được giấy khen thì Tòa án cũng coi là tình tiết giảm nhẹ. Cán bộ, công chức nhà nước (đây là các chủ thể giữ chức vụ, quyền hạn) được khen thưởng trong thời gian công tác, học tập, sản xuất được tặng thưởng, nhưng sau này bị phát hiện có các hành vi tham nhũng (tội phạm tham nhũng) hoặc tội phạm khác lại được giảm nhẹ TNHS là mâu thuẫn với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là luôn quy TNHS nghiêm khắc hơn đối với người có chức vụ, quyền hạn, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, và đối với người lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội. Mặt khác, đối tượng được hưởng tình tiết giảm nhẹ này, nếu họ khi trong thời gian công tác, học tập, sản xuất, chiến đấu đã có thành tích xuất sắc thì họ đã được Nhà nước ưu ái, như nâng lương, nâng bậc, nâng ngạch trước thời hạn, được bổ nhiệm, quy hoạch... rồi; các đối tượng này còn là người hiểu biết pháp luật, có trình độ văn hóa cao, đáng lẽ phải nêu gương cho người khác, nếu phạm tội thì phải trừng trị nghiêm khắc hơn người khác chứ không phải tìm cách giảm nhẹ tội cho họ. Đặc biệt là loại tội phạm lợi dụng chức vụ để tham nhũng, nếu áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ cho họ dẫn đến hình phạt sẽ nhẹ, thì hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm tham nhũng bị giảm sút. 2.2.4 Tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS: Tình tiết giảm nhẹ này được quy định với mục đích khoan hồng đối với người lần đầu thực hiện một tội phạm và tội phạm đó thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Có thể thấy, theo quy định này thì bất cứ tội phạm nào thuộc trường hợp nêu trên đương nhiên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ TNHS. Quy định này cho thấy BLHS phân biệt phạm tội lần đầu với các trường hợp phạm tội khác. Tuy nhiên, quy định này sẽ không đạt được mục đích phòng ngừa và xử lý tội phạm, bởi vì ngay bản thân người phạm tội trong trường hợp như đã đề cập, khung trách nhiệm pháp lý của họ đã nhẹ hơn các trường hợp phạm tội khác, nếu tiếp tục giảm nhẹ nữa thì hiệu quả công bằng của hình phạt sẽ không đạt được. Việc thiết lập các tình tiết giảm nhẹ phải thực sự đạt được tiêu chí về chính sách pháp luật hình sự, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ pháp luật TTHS; khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, ăn năn hối cải và có tác dụng phòng ngừa, xử lý tội phạm. 2.2.5 Tình tiết “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 BLHS: Tình tiết giảm nhẹ này rất khó xác định. Bởi vì, bị hạn chế khả năng nhận thức xảy ra đối với người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác, người phạm tội trong hoàn cảnh lạc hậu hoặc bị đe dọa, cưỡng bức, hoặc do bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị hại hoặc của người khác gây ra. Còn người bình thường, không phải các trường hợp như đã nêu thì rất khó xác định trường hợp nào bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của họ. Đã là tội phạm thì phải xác định được lỗi của người phạm tội, nếu không có lỗi thì không thể cấu thành tội phạm cụ thể và không phải chịu TNHS, kể cả vai trò của người phạm tội ở dạng đồng phạm. 2.2.6 Tình tiết “Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng” quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS: Quy định này không bảo đảm nguyên tắc công bằng và nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa - đây là một trong những nguyên tắc được hầu hết các ngành luật đặt lên hàng đầu. Theo đó, yêu cầu phải tuân thủ, chấp hành pháp luật triệt để và việc xử lý tội phạm phải công bằng. Trên thực tế, quy định tình tiết giảm nhẹ này ảnh hưởng đến chính sách phòng ngừa tội phạm trong xã hội, đặc biệt là việc xử lý tội phạm tham nhũng sẽ không nghiêm minh. Trong những năm qua, đối với 35 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT người thân thích của người có công với cách mạng phạm tội, họ thường được tuyên án ở mức nhẹ, như được hưởng án treo. 2.2.7 Ngoài ra: (i) Khoản 1 Điều 51 BLHS chưa pháp điển hóa các tình tiết giảm nhẹ được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01 nêu trên, đó là tình tiết “Người bị hại cũng có lỗi”, tình tiết “Thiệt hại do lỗi của người thứ ba”, tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”, tình tiết “Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”. Các tình tiết này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó xác định được tính chất của vụ phạm tội, lỗi, nguyên nhân và hậu quả, ý chí và thái độ của nạn nhân trong vụ án hình sự. Trong đó tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo” cũng là một hình thức khắc phục hậu quả mang tính chất phổ biến, bù đắp kịp thời thiệt hại cho phía bị hại. Vì trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam (ở nước ta có khoảng 80% bị can, bị cáo bị tạm giam trước khi xét xử) thì không có điều kiện để sửa chữa, bồi thường, khắc phục hậu quả để được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Trên thực tế, do không thỏa thuận được mức bồi thường trách nhiệm dân sự giữa bị can, bị cáo hoặc gia đình của họ đối với bị hại, nguyên nhân là do lỗi của bị hại không chấp nhận vì cho rằng không thỏa đáng hoặc chính phía bị hại không có thiện chí. Trong khi đó phía bị cáo rất mong muốn được hưởng tình tiết giảm nhẹ như vừa nêu. Thế nhưng BLHS năm 1999 cũng như Bộ luật TTHS hiện hành chưa quy định cách thức để phía bị cáo thực hiện trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả. Bên cạnh đó, có nhiều vụ án hình sự mà nguyên nhân là do bị hại có lỗi trước; hoặc có trường hợp thiệt hại do lỗi của người thứ ba. Để bảo đảm công bằng và phòng ngừa tội phạm thì cần thiết phải quy định các trường hợp này là tình tiết giảm nhẹ. (ii) Khoản 2 Điều 51 BLHS quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án” là không bảo đảm kỹ thuật lập pháp và chưa dựa vào cơ sở thực tiễn. Bởi vì, quy định này sẽ tạo ra sự tùy nghi trong việc áp dụng khi Tòa án có thể coi hoặc không coi “đầu thú” là tình tiết giảm nhẹ. Đầu thú cần phải được khẳng định là một tình tiết giảm nhẹ chính thức, cho dù tính chất của tình tiết “đầu thú” khác với tính chất của tình tiết “tự thú” nhưng không vì thế mà không coi tình tiết đầu thú là tình tiết giảm nhẹ. Không nên máy móc chỉ coi người phạm tội “tự thú” mới được hưởng tình tiết giảm nhẹ do thái độ tự nguyện của người phạm tội, mà cần phải dựa vào hiệu quả trong công tác phòng ngừa, xử lý tội phạm. Ở tình tiết đầu thú là trường hợp người phạm tội đã bị phát hiện, bị truy nã nhưng sau đó tự mình hoặc được người khác vận động đã ra đầu thú. Để bắt giữ một người phạm tội bị truy nã là vô cùng khó khăn, phức tạp, nguy hiểm, có thể kéo dài đến nhiều năm. Đối tượng bị truy nã thường là người phạm tội gây nguy hại rất lớn, đặc biệt lớn cho xã hội; để họ ra đầu thú, cơ quan có trách nhiệm phải thực hiện rất nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau, cần đến sự phối hợp của gia đình, cơ quan, tổ chức vận động thuyết phục họ. Do vậy, cần phải khuyến khích người phạm tội ra đầu thú và khuyến khích gia đình, cộng đồng xã hội phối hợp để người phạm tội ra đầu thú, làm giảm bớt gánh nặng trong việc truy bắt tội phạm truy nã. 3. Đề xuất một số quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Một là, bỏ đi những tình tiết giảm nhẹ không cần thiết tại khoản 1 Điều 51 BLHS, cụ thể là các tình tiết: “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải”, tình tiết “Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm”, tình tiết “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác”, tình tiết “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, tình tiết “Phạm tội trong 36 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra”, và tình tiết “Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng”. Hai là, bỏ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS - vốn được duy trì từ BLHS năm 1985 đến nay - Tòa án được lựa chọn các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ. Ba là, bổ sung một số tình tiết giảm nhẹ bằng việc quy định chính thức tình tiết giảm nhẹ “đầu thú”, tình tiết “Người bị hại cũng có lỗi”, tình tiết “Thiệt hại do lỗi của người thứ ba”, tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”, tình tiết “Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”. Cụ thể, Điều 51 BLHS được thiết kế như sau: “Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS 1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS: a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; ă) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; â) Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; b) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; ê) Người bị hại cũng có lỗi; g) Thiệt hại do lỗi của người thứ ba; h) Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; i) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức; l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; m) Phạm tội do lạc hậu; n) Người phạm tội là phụ nữ có thai; o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên; ơ) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; p) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; q) Người phạm tội tự thú hoặc đầu thú; r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội; 2. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”. Bốn là, để thực hiện tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” và tình tiết “Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo”, đề xuất cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thực hiện, theo đó trường hợp bị cáo hoặc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả nhưng bị hại không chấp nhận thì vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Về mặt pháp luật TTHS, cần đưa ra cách thức để cho phía bị cáo nộp tiền, tài sản bồi thường tại cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử trong trường hợp đã đặt ra n 37 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 04(332) T2/2017 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT TÀI LIỆU THAM KHẢO: - Phạm Văn Lợi (chủ biên), (2007), Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội. - Trần Thị Quang Vinh (2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_tinh_tiet_giam_nhe_trach_nhiem_hinh_suu_quy_dinh_tai_die.pdf
Tài liệu liên quan