Năng suất và hiệu quả nuôi tôm của các hộ ở huyện Tuy Phước chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Thức ăn tươi, Công
lao động, Kinh nghiệm sản xuất, v.v. Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp
OLS cho thấy trong tất cả các yếu tố làm tăng năng suất tôm nuôi thì kinh nghiệm sản
xuất là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất. Riêng yếu tố Thức ăn tươi có tác động làm giảm
năng suất và hiệu quả tôm nuôi.
Như vậy, trong điều kiện thực tiễn hiện nay để nâng cao năng suất tôm nuôi và
đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, các hộ nên đầu tư nuôi tôm theo hình thức BTC, chỉ
nên tập trung nuôi ở vụ 1 và chỉ nên sử dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng thức
ăn tươi. Điều này không chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn góp
phần đảm bảo phát triển bền vững nghề nuôi tôm – một trong những nghề có vai trò đặc
biệt quan trọng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của địa phương.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
317
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72B, số 3, năm 2012
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG SUẤT TÔM NUÔI
Ở HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH
Hoàng Quang Thành, Nguyễn Đình Phúc
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế
Tóm tắt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến năng
suất tôm nuôi ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định và đề xuất các giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả nuôi tôm của các hộ trên địa bàn trong thời gian tới.
Nghiên cứu điều tra 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã trọng điểm gồm Phước Hòa, Phước Sơn,
Phước Thắng, sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến năng suất tôm nuôi theo các hình thức nuôi của các hộ điều tra. Trên cơ
sở đó, phân tích ảnh hưởng cận biên của các yếu tố đầu vào đến năng suất tôm nuôi
và xác định hiệu quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư theo hình thức nuôi tôm của
các hộ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong điều kiện hiện nay để đảm bảo đạt hiệu quả
kinh tế cao, các hộ nên đầu tư nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh, tập trung
nuôi ở thời vụ chính bắt đầu từ tháng 3 đến cuối tháng 5 trong năm (vụ 1) và chỉ sử
dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng thêm thức ăn tươi.
1. Đặt vấn đề
Vốn có nhiều tiềm năng về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, trong những năm gần
đây phong trào nuôi tôm ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định phát triển mạnh, với diện
tích nuôi tôm từ 1.000,60 ha năm 2008 tăng lên 1.030,60 ha năm 2010, nâng sản lượng
tôm nuôi từ 580 tấn lên đến 1.594,5 tấn năm 2010 với hai hình thức nuôi chủ yếu là quảng
canh cải tiến và bán thâm canh, tổng số hộ tham gia nuôi tôm lên đến 1073 hộ, năng suất
bình quân hằng năm đạt từ 3,7- 4,5 tấn/ha [1], góp phần quan trọng trong việc xóa thế độc
canh cây lúa, khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng về đất đai, vốn, lao động, gia
tăng khối lượng sản phẩm tôm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, tạo việc làm và
tăng thêm thu nhập cho người lao động, từng bước cải thiện bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên,
do phát triển còn mang tính tự phát, đầu tư thâm canh thiếu đồng bộ, các hộ nuôi tôm còn
lung túng trong tổ chức sản xuất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh v.v nên năng suất và hiệu quả nuôi tôm còn thấp, chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế và nhu cầu phát triển [3].
Chính vì vậy, nhận diện các yếu tố và xác định chính xác ảnh hưởng của chúng
đến năng suất cũng như kết quả và hiệu quả nuôi tôm, để từ đó đề xuất định hướng và các
318
giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả và phát triển nuôi tôm của các hộ trên địa bàn
trong thời gian tới là việc làm có tính cấp thiết.
2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các thông tin, số liệu thứ cấp được thu thập từ các sở, ban ngành và cơ quan
quản lý ở địa phương, nghiên cứu thực hiện điều tra khảo sát 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã: Phước
Hòa, Phước Sơn và Phước Thắng vào năm 2010. Mỗi xã chọn 30 hộ để điều tra, phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên không lặp lại, sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas phân tích
các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi theo hình thức nuôi của các hộ.
3 5 1 1 2 2 3 31 2 4α α (β D + β D + β D + )α α α
1 2 3 4 5
εY = A.X .X .X .X .X .e
Logarit hóa hai vế của phương trình trên được phương trình tuyến tính theo các
tham số α, β như sau:
1 1 2 2 3 3 4 4 5 5 1 1 2 2 3 3LnY = LnA + αLnX + α LnX + α LnX + α LnX + α LnX + β D+ β D + β D + ε
Trong đó, Y: Năng suất tôm nuôi (tấn/ha); X1: Mật độ thả giống (vạn con/ha);
X2 : Số lượng thức ăn công nghiệp (tấn/ha); X3: Số lượng thức ăn tươi (tấn/ha); X4: Số
ngày công lao động (ngày công/ha); X5: Số năm kinh nghiệm sản xuất (năm);
iα (i = 1 5): Các hệ số ảnh hưởng của các biến độc lập Xi đến năng suất tôm nuôi;
iβ (i = 1 3): Các hệ số hồi quy cần được ước lượng của mô hình; D1: Hình thức nuôi
(D1 = 1: Hình thức BTC; D1 = 0: Hình thức QCCT); D2: Kiểm dịch (D2 = 1: Giống
được kiểm dịch; D2 = 0: Giống chưa được kiểm dịch); D3: Xử lý ao nuôi (D3 = 1: Ao
nuôi được xử lý; D3 = 0: Ao nuôi chưa được xử lý); ε: Sai số ngẫu nhiên của mô hình,
đại diện cho các nhân tố không được đưa vào mô hình.
Trên cơ sở đó, phân tích ảnh hưởng cận biên của các yếu tố đầu vào đến năng
suất tôm nuôi và xác định hiệu quả kinh tế của từng yếu tố đầu tư cụ thể theo hình thức
nuôi tôm của các hộ.
3. Kết quả và thảo luận
Qua điều tra 90 hộ nuôi tôm ở 3 xã của huyện Tuy Phước, cho thấy có 49 hộ nuôi
tôm hình thức BTC, 41 hộ nuôi tôm hình thức QCCT. Bình quân diện tích nuôi tôm của 1
hộ điều tra là 1,38 ha; tương ứng đầu tư 59,04 triệu đồng cho TSCĐ; 42,35 triệu đồng vốn
XDCB và vốn vay mượn là 32,55 triệu đồng. Bình quân mỗi hộ nuôi tôm cần 4,47 nhân
khẩu; 2,73 lao động; tuổi đời bình quân của chủ hộ là 46,38 tuổi; trình độ văn hóa của chủ
hộ là trên lớp 8; số năm kinh nghiệm nuôi tôm của chủ hộ là 7,04 năm. Năng suất tôm
nuôi bình quân trong 1 vụ ở hình thức BTC đạt 3,71 (tấn/ha), QCCT đạt 1,91 (tấn/ha).
Bằng phương pháp ước lượng mô hình hồi quy OLS (Ordinary Least Square)
ở Bảng 1, cho kết quả kiểm định mô hình đối với vụ nuôi tôm 1 và 2 lần lượt với F =
64,495 và F = 56,466 tại mức ý nghĩa thống kê 99%.
319
Bảng 1. Kết quả ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi
Vụ 1 Vụ 2
Các biến và hệ số
Coefficients Sig. Coefficients Sig.
Hằng số (C) - 0,885 0,001 - 0,574 0,015
LnX1 - Ln(Mật độ giống) 0,042 0,041 0,037 0,081
LnX2 - Ln(Thức ăn CN) 0,125 0,000 0,118 0,001
LnX3 - Ln(Thức ăn tươi) - 0,088 0,000 - 0,089 0,000
LnX4 - Ln(Lao động) 0,252 0,000 0,203 0,000
LnX5 - Ln(Kinh nghiệm) 0,297 0,003 0,228 0,005
D1 - Hình thức nuôi 0,071 0,072 0,091 0,025
D2 - Kiểm dịch 0,099 0,090 0,104 0,088
D3 - Xử lý ao nuôi 0,161 0,010 0,163 0,006
F - Statistic 64,495 0,000 56,466 0,000
R2 0,864 0,848
R2 điều chỉnh 0,851 0,833
Số quan sát (N) 90 90
Kết quả kiểm định cho thấy, mô hình đưa ra là hoàn toàn phù hợp với thực tế
tại mức ý nghĩa thống kê 99%. Có tới 86,4% sự thay đổi về năng suất tôm nuôi đối
với vụ 1 và 84,80% đối với vụ 2 là do sự thay đối của các biến trong mô hình tạo ra.
Các biến độc lập trong mô hình đối với vụ 1 như: Mật độ giống, Thức ăn công
nghiệp (CN), Lao động, Kinh nghiệm, Hình thức nuôi, Kiểm dịch, Xử lý ao nuôi đều
có hệ số hồi quy dương và có mức ý nghĩa thống kê 90%, 95% và 99%. Riêng hệ số
hồi quy của biến thức ăn tươi mang dấu âm, với mức ý nghĩa thống kê 99%. Như vậy,
các biến: Mật độ giống, Thức ăn CN, Lao động, Kinh nghiệm, Hình thức nuôi, Kiểm
dịch, Xử lý ao nuôi đều có ảnh hưởng theo hướng làm tăng năng suất tôm nuôi của
các hộ, riêng biến Thức ăn tươi làm giảm năng suất tôm nuôi.
Ở vụ 2 các biến độc lập nói trên cũng đều mang dấu dương và có các mức ý
nghĩa thống kê tương ứng là 90%, 95% và 99%. Hệ số hồi quy của biến thức ăn tươi
cũng mang dấu âm với mức ý nghĩa thống kê 99%, tương tự cho phép kết luận các
biến: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Lao động, Kinh nghiệm, Hình thức nuôi,
Kiểm dịch, Xử lý ao đều có ảnh hưởng làm tăng năng suất tôm nuôi, đối với biến
Thức ăn tươi lại làm giảm năng suất tôm nuôi.
Hàm sản xuất Cobb – Douglas ứng với từng vụ nuôi và hình thức nuôi có dạng:
320
Vụ 1 với hình thức nuôi quảng canh cải tiến (QCCT):
2 3[0,099D + 0,161D ](0,042) (0,125) (- 0,088) (0,252) (0,297)
1 2 3 4 5Y = (0,413).X .X .X .X .X .e
Vụ 1 với hình thức nuôi bán thâm canh (BTC):
2 3[0,071+ 0,099D + 0,161D ](0,042) (0,125) (- 0,088) (0,252) (0,297)
1 2 3 4 5Y = (0,413).X .X .X .X .X .e
Vụ 2 với hình thức nuôi quảng canh cải tiến (QCCT):
2 3[0,104D + 0,163D ](0,037) (0,118) (- 0,089) (0,203) (0,228)
1 2 3 4 5Y = (0,563).X .X .X .X .X .e
Vụ 2 với hình thức nuôi bán thâm canh (BTC):
2 3[0,091+ 0,104D + 0,163D ](0,037) (0,118) (- 0,089) (0,203) (0,228)
1 2 3 4 5Y = (0,563).X .X .X .X .X .e
Trong các yếu tố đưa vào mô hình làm tăng năng suất tôm nuôi ở vụ 1 của cả 2
hình thức nuôi QCCT và BTC thì yếu tố Số năm kinh nghiệm sản xuất của chủ hộ có
tác động ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất tôm nuôi so với các yếu tố còn lại, khi số
năm kinh nghiệm của chủ hộ tăng thêm 1% so với mức trung bình thì năng suất tôm
nuôi của hộ sẽ tăng thêm tương ứng là 0,297%, với điều kiện cố định các yếu tố khác.
Riêng biến Thức ăn tươi có tác động làm giảm năng suất tôm nuôi đáng kể. Cụ thể là,
trong điều kiện cố định các yếu tố khác, khi lượng thức ăn tươi tăng thêm 1% so với
mức trung bình thì năng suất tôm nuôi của hộ sẽ giảm đi 0,088% ở cả 2 hình thức nuôi
đối với vụ 1. Ở vụ 2 đối với cả 2 hình thức nghiên cứu cũng cho thấy kết quả tương tự.
Trong điều kiện cố định các yếu tố khác, khi số năm kinh nghiệm của chủ hộ tăng thêm
1% so với mức trung bình thì thì năng suất tôm nuôi của hộ sẽ tăng thêm 0,228%; khi
tăng lượng thức ăn tươi thêm 1% so với mức trung bình thì năng suất giảm đi tương ứng
là 0,089%.
Bảng 2. Năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào nuôi tôm
Năng suất cận biên MPXi (tấn/ha)
Vụ 1 Vụ 2
Yếu tố đầu vào
(Xi)
ĐVT (X )i
QCCT BTC QCCT BTC
X1 - Mật độ giống
Vạn
con/ha
42,16 0,0019 0,0037 0,0017 0,0032
X2 - Thức ăn CN Tấn/ha 3,36 0,0709 0,1377 0,0668 0,1298
X3 - Thức ăn tươi Tấn/ha 0,83
-
0,2024
-0,3932 -0,2038 -0,3959
X4 - Lao động Công/ha 165,87 0,0029 0,0056 0,0023 0,0045
X5 - Kinh nghiệm Năm 7,04 0,0806 0,1566 0,0618 0,1200
321
Qua các hàm sản xuất được thiết lập ứng với từng vụ nuôi và hình thức nuôi trên
đây, chúng ta sẽ xác định được năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào tương ứng có
trong mô hình ở Bảng 2, trên cơ sở đó xác định được mức độ đầu tư các yếu tố đầu vào
nuôi tôm của các hộ điều tra để làm cơ sở xác định mức thu nhập tăng thêm (MPVXi) khi
tăng thêm các yếu tố đầu vào đó.
Kết quả tính toán ở Bảng 2 cho thấy, cả 2 vụ nuôi năng suất cận biên của các yếu
tố đầu vào như: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Lao động và Kinh nghiệm của chủ
hộ đều mang dấu dương (tức làm tăng năng suất tôm), năng suất cận biên của thức ăn tươi
là âm (làm giảm năng suất tôm nuôi).
Giả định rằng, trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào khác như: Mật độ giống
(42,16 vạn con/ha), thức ăn công nghiệp (3,36 tấn/ha), thức ăn tươi (0,83 tấn/ha), công lao
động (165,87 ngày công/ha), kinh nghiệm (7,04 năm) ở mức trung bình. Nếu tính bình
quân trong 1 vụ, các hộ nuôi tôm tăng đầu tư thêm 1 vạn con giống/ha so với mức trung
bình như hiện tại thì năng suất tôm nuôi ở vụ 1 sẽ tăng tương ứng là 0,0019 tấn/ha đối với
hình thức nuôi quảng canh cải tiến (QCCT) và 0,0037 tấn/ha đối với hình thức nuôi bán
thâm canh (BTC). Tương tự cho vụ 2, trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào khác
cũng ở mức trung bình, nếu các hộ nuôi tôm tăng đầu tư thêm 1 vạn con giống/ha thì năng
suất tôm nuôi sẽ tăng lên 0,0017 tấn/ha đối với hình thức nuôi QCCT và 0,0032 tấn/ha đối
với trường hợp nuôi BTC. Việc xác định năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào khác
như: Thức ăn công nghiệp, Công lao động, Số năm kinh nghiệm của hộ cũng cho kết quả
tương tự đều làm cho năng suất cận biên dương, thể hiện năng suất tôm nuôi tăng lên
tương ứng cho cả hai hình thức nuôi QCCT, BTC ở cả vụ 1 và 2 (Bảng 2). Nhưng đối với
thức ăn tươi thì cho kết quả ngược lại, tức là năng suất cận biên sẽ âm. Cụ thể, khi cố định
các yếu tố đầu vào khác ở mức trung bình, nếu chủ hộ nuôi tôm tăng thêm 1 tấn thức ăn
tươi/ha so với mức trung bình là 0,83 tấn/ha thì năng suất tôm nuôi ở vụ 1 giảm đi 0,2024
tấn/ha đối với hình thức nuôi QCCT và 0,3932 tấn/ha đối với nuôi BTC; năng suất tôm
nuôi ở vụ 2 cũng sẽ giảm 0,2038 tấn/ha đối với hình thức nuôi QCCT và giảm 0,3959
tấn/ha đối với nuôi BTC. Mặc dù các hộ thường cố gắng tăng lượng thức ăn tươi nhằm
tăng năng suất tôm nuôi, tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy kết quả mà các hộ thu được
thì lại ngược lại. Nguyên nhân của thực trạng này có thể được lý giải là: khác với thức ăn
công nghiệp, khi sử dụng nhiều thức ăn tươi sẽ dễ gây ô nhiễm môi trường nước, gây dịch
bệnh cho tôm nuôi trong ao [2]. Vì thế, sử dụng nhiều thức ăn tươi để nuôi tôm là không
tốt và kết quả là sẽ làm giảm năng suất tôm nuôi của hộ.
Giá trị sản phẩm cận biên (MPVXi) của từng yếu tố đầu vào được thể hiện qua số
liệu được tính toán ở Bảng 3. Đây chính là phần giá trị sản phẩm tăng thêm của hộ nuôi tôm
khi yếu tố đầu vào Xi tăng thêm 1 đơn vị.
322
Bảng 3. Giá trị sản phẩm cận biên của các yếu tố đầu vào nuôi tôm
(ĐVT:Triệu đồng/ha)
Giá trị sản phẩm cận biên (MPVXi)
Vụ 1 Vụ 2
Yếu tố đầu vào
(Xi)
QCCT BTC QCCT BTC
X1 - Mật độ giống 0,16 0,31 0,12 0,23
X2 - Thức ăn CN 5,88 11,41 4,82 9,36
X3 - Thức ăn tươi -16,77 -32,58 -14,70 -28,55
X4 - Lao động 0,24 0,47 0,17 0,33
X5 - Kinh nghiệm 6,68 12,98 4,46 8,66
Với năng suất cận biên của các yếu tố đầu vào nói trên, giá trị sản phẩm cận biên
của yếu tố Số năm kinh nghiệm đối với hình thức nuôi BTC có giá trị cao nhất ở cả 2 vụ
nuôi lần lượt là 12,98 triệu đồng/ha; 8,66 triệu đồng/ha; nghĩa là khi số năm kinh nghiệm ở
hình thức nuôi này của chủ hộ tăng thêm 1 năm thì mức thu nhập của chủ hộ tăng thêm
tương ứng là 12,98 triệu đồng/ha (vụ 1) và 8,66 triệu đồng/ha (vụ 2). Ở hình thức nuôi
QCCT khi số năm kinh nghiệm của chủ hộ tăng thêm 1 năm thì thu nhập của chủ hộ
tăng thêm tương ứng là 6,68 triệu đồng/ha (vụ 1); 4,46 triệu đồng/ha (vụ 2). Giá trị sản
phẩm cận biên của các yếu tố đầu vào khác cũng được phân tích tương tự như trên.
Riêng đối với Thức ăn tươi, do năng suất cận biên của yếu tố này là âm ở cả 2
vụ và đối với cả 2 hình thức nuôi nên nếu các hộ nuôi tôm tăng thêm lượng thức ăn tươi
1 tấn/ha thì mức thu nhập của hộ ở hình thức BTC sẽ giảm 32,58 triệu đồng/ha (vụ 1);
28,55 triệu đồng/ha (vụ 2) và hình thức QCCT sẽ giảm 16,77 triệu đồng/ha (vụ 1);
14,70 triệu đồng/ha (vụ 2).
Để có các đề xuất đúng đắn về việc sử dụng các yếu tố đầu vào, cần xác định
chênh lệch giữa giá trị sản phẩm cận biện (MPVXi) và đơn giá đầu vào của các yếu tố
tăng thêm (PXi). Kết quả tính toán đối với các hình thức nuôi ở các vụ cho thấy: với giá
tôm bình quân của các hộ điều tra 77,49 nghìn đồng/kg, ở vụ 1 nếu tăng thêm 1 vạn con
giống/ha sau khi trừ đi chi phí 0,14 triệu đồng (giá bình quân 1 vạn con giống), hộ còn
lợi được 0,04 triệu đồng/ha nếu nuôi QCCT; 0,25 triệu đồng/ha nếu nuôi BTC.
Tương tự ở vụ 2 nếu hộ tăng thêm 1 vạn con giống/ha sau khi trừ đi chi phí
giống, hộ còn lợi 0,02 triệu đồng/ha nếu nuôi QCCT; 0,06 triệu đồng/ha nếu nuôi BTC.
Phân tích hiệu quả kinh tế nếu tăng thêm đầu tư thức ăn CN, công lao động cũng hoàn
toàn tương tự. Riêng đối với thức ăn tươi, do giá trị sản phẩm cận biên của biến này là
âm ở cả hai hình thức nuôi nên nếu tăng thêm 1 tấn thức ăn tươi/ha, sau khi trừ đi chi
phí 1,05 triệu đồng/ha thì vụ 1 hộ sẽ lỗ 17,82 triệu đồng/ha nếu nuôi QCCT; 32,94 triệu
323
đồng/ha nếu nuôi BTC. Đối với vụ 2 ở các hình thức mức lỗ cũng tương ứng là 15,82
triệu đồng/ha nuôi QCCT; 25,84 triệu đồng/ha nuôi BTC.
Qua kết quả nghiên cứu còn cho thấy, trong hai hình thức nuôi tôm hiện đang
được các hộ trên địa bàn áp dụng thì hình thức BTC tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn nuôi
QCCT, nhờ tiết kiệm được diện tích nuôi trồng, dễ áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăn
nuôi tiên tiến. Đối với hình thức nuôi BTC thì năng suất tôm nuôi bình quân đạt 3,71
tấn/ha, cao hơn 94,24% so với nuôi tôm QCCT; giá trị gia tăng đạt 96,44 triệu đồng/ha,
cao hơn 86,89% so với nuôi QCCT, thu nhập hỗn hợp đạt 70,04 triệu đồng/ha, cao hơn
88,36% so với nuôi QCCT. Về hiệu quả sử dụng chi phí, cứ 1 đồng chi phí trung gian
đầu tư nuôi tôm cho cả 2 hình thức thì nuôi tôm BTC mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn
so với nuôi tôm QCCT là 0,19 đồng về GO; 0,19 đồng về VA và 0,14 đồng về MI.
Để nuôi tôm ở huyện Tuy Phước thật sự đạt hiệu quả kinh tế thì các hộ cần lựa
chọn hình thức nuôi phù hợp với mức độ đầu tư thâm canh, tăng đầu tư thêm giống,
tăng sử dụng thức ăn công nghiệp, tăng lao động chăm sóc và xử lý ao hồ, tăng học hỏi
kinh nghiệm, không dùng thức ăn tươi để nuôi tôm. Ngoài ra, để tăng năng suất tôm
nuôi thì các hộ nên lựa chọn con giống có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, giống đã qua
kiểm dịch, đầu tư xây dựng đầy đủ hệ thống kênh mương cấp thoát nước riêng, bảo vệ
môi trường nước trong ao và môi trường xung quanh, thường xuyên theo dõi quan trắc
môi trường [4]. Nếu thực hiện tốt các vấn đề nêu trên chắc chắn năng suất tôm nuôi của
các hộ sẽ tăng lên, không những mang lại hiệu quả kinh tế mà còn góp phần đảm bảo
tính bền vững về môi trường sinh thái.
4. Kết luận
Năng suất và hiệu quả nuôi tôm của các hộ ở huyện Tuy Phước chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau: Mật độ giống, Thức ăn công nghiệp, Thức ăn tươi, Công
lao động, Kinh nghiệm sản xuất, v.v... Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp
OLS cho thấy trong tất cả các yếu tố làm tăng năng suất tôm nuôi thì kinh nghiệm sản
xuất là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất. Riêng yếu tố Thức ăn tươi có tác động làm giảm
năng suất và hiệu quả tôm nuôi.
Như vậy, trong điều kiện thực tiễn hiện nay để nâng cao năng suất tôm nuôi và
đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, các hộ nên đầu tư nuôi tôm theo hình thức BTC, chỉ
nên tập trung nuôi ở vụ 1 và chỉ nên sử dụng thức ăn công nghiệp, không sử dụng thức
ăn tươi. Điều này không chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả về mặt kinh tế, mà còn góp
phần đảm bảo phát triển bền vững nghề nuôi tôm – một trong những nghề có vai trò đặc
biệt quan trọng trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của địa phương.
324
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi cục Nuôi trồng thủy sản Bình Định. Báo cáo tổng kết hội nghị nuôi tôm năm 2011,
Bình Định, 2011.
2. Nguyễn Quang Đăng. Các vấn đề về sản xuất và thương mại tôm, nuôi tôn trên cát và
những vấn đề đặt ra, Bộ Thủy sản, 2002
3. Sở NN & PTNT Bình Định. Báo cáo tại Hội nghị tổng kết nuôi tôm nước lợ tỉnh Bình
Định, 2010.
4. Trung tâm tin học, Bộ Thủy Sản. Thông tin chuyên đề, Phát triển nuôi tôm bền vững,
2/2005.
DETERMINANTS OF SHRIMP FARMING'S PRODUCTIVITY
IN TUY PHUOC DISTRICT, BINH DINH PROVINCE
Hoang Quang Thanh, Nguyen Dinh Phuc
College of Economics, Hue University
Abstract. The paper aims to present results of the study on factors determining the
productivity of shrimp farming in Tuy Phuoc district, Binh Dinh province and to
propose essential solutions for raising the productivity of household's shrimp
farming in the area. We conducted a survey of 90 households in three focused
communes including Phuoc Hoa, Phuoc Son, Phuoc Thang. Using production
function approach, the paper identifies factors that determine the productivity of
shrimp farming with different farming methods. The paper then analyzes marginal
products of inputs that determined the shrimp farming's productivity and identifies
economic efficiency of households' shrimp farming. Results show that in the
current situation, in order to obtain high economic efficiency, households should
invest in semi-intensive aquaculture method, focus on one farming season and only
use processed feeds; they should not use additional fresh feeds.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_nang_suat_tom_nuoi_o_huyen_tuy_phuo.pdf