Theo kết quả nghiên cứu thì thời
gian hoạt động ảnh hưởng thấp nhất
đến nhu cầu vay, tuy nhiên yếu tố này
cũng có tác động cùng chiều đến nhu
cầu vay vốn. Nghĩa là các SMEs càng
thành lập lâu thì nhu cầu vay vốn càng
tăng. Ngoài ra, các ngân hàng cũng nên
chú trọng đến các SMEs mới thành lập,
vì từ năm 2015 đến nay tỉnh Đồng Nai
đang áp dụng cơ chế đặc thù tập trung
hỗ trợ xúc tiến đầu tư đến các nhà đầu
tư FDI có dự án mới, gắn với việc
thành lập SMEs tại Đồng Nai. Nhóm
đối tượng doanh nghiệp này thường
không có điều kiện tiếp cận tốt với
chính quyền địa phương do quy mô
đầu tư nhỏ, bất đồng ngôn ng , thời
gian hoạt động chưa lâu. Do đó các
ngân hàng cần lưu và có các chiến
lược kinh doanh đối với đối tượng này,
khi xét duyệt các khoản cấp tín dụng
để đáp ứng nhu cầu vay ngày càng cao
của các SMEs.
15 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
107
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU VAY VỐN
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
Nguyễn Thị Ngọc Diệp1
Lê Thu Thủy1
TÓM TẮT
Trong thời gian qua, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(Small and Medium Enterprise - SMEs) ngày càng tăng song song với sự gia
tăng về số lượng. Để có những giải pháp hiệu quả trong việc giải quyết nhu cầu
vay vốn, nghiên cứu này tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của
các SMEs trong tỉnh Đồng Nai. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thống
kê mô tả và phân tích hồi quy tuyến tính bội thông qua khảo sát 208 SMEs, kết
quả cho thấy nhu cầu vay vốn chịu sự tác động của các nhân tố sau: (1) quy mô;
(2) ngành nghề kinh doanh; (3) giá trị tài sản cố định; (4) thời gian hoạt động.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số hàm ý quản trị đối với các ngân
hàng nhằm nâng cao khả năng cho vay đối với các SMEs, phục vụ sự phát triển
của các SMEs cũng như của ngân hàng.
Từ khóa: Nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tỉnh Đồng Nai
1. Giới thiệu
Doanh nghiệp (DN) có vị trí đặc
biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ
phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm
trong nước. Ở nhiều quốc gia trên thế
giới, khối SMEs luôn đóng vai trò và
vị thế quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội. SMEs tại Việt Nam ngày
càng khẳng định rõ vị thế và vai trò
đối với nền kinh tế khi đóng góp trên
40% GDP, thu hút hơn 50% tổng số
lao động, chiếm 17,26% tổng kinh phí
nộp ngân sách nhà nước. Tính tới thời
điểm hiện nay, số lượng SMEs chiếm
khoảng 98% trong tổng số trên 620
nghìn doanh nghiệp thuộc tất cả các
loại hình đang hoạt động ở Việt Nam
(Phạm Thái Hà [1]). Theo Tổng cục
Thống kê năm 2018, xét theo quy mô
lao động, tại thời điểm 01/01/2017, số
lượng doanh nghiệp vừa tăng 23,6%,
doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2% và
doanh nghiệp siêu nhỏ tăng tới 65,5%
và chiếm 74% tổng số doanh nghiệp.
Ở Đồng Nai, thời gian qua khối
SMEs chiếm hơn 90% và đóng góp
hơn 40% giá trị sản xuất công nghiệp
của tỉnh. Do đó việc hỗ trợ vốn cho
SMEs phát triển là góp phần tái tạo
động lực phát triển cho nền kinh tế.
Theo Ngân hàng Nhà nước chi nhánh
Đồng Nai (10-2017), việc sản xuất
kinh doanh tại các SMEs có sự tăng
trưởng ổn định, nhiều công ty k kết
được nh ng đơn hàng nên đã vay vốn
mở rộng thêm sản xuất, kinh doanh.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh hiện có 40
ngân hàng với 53 chi nhánh đang hoạt
động, gần 200 Quỹ tín dụng nhân dân
có thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn
1Trường Đại học Lạc Hồng
Email: ngocdiep1980.dhlh@gmail.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
108
của doanh nghiệp. Dư nợ cho vay
SMEs trên địa bàn tỉnh đạt gần 34,2
ngàn t đồng, tăng hơn 20% so với
cuối năm trước. Vốn huy động của hệ
thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh đạt
khoảng 170.000 t đồng, dư nợ cho
vay đạt 160.000 t đồng, các ngân
hàng v n còn khoảng 10.000 t đồng
chưa cho vay nên nguồn vốn rất dồi
dào 2 .
Tuy nhiên, trên thực tế thì đa số
các SMEs v n chưa tiếp csận được
nguồn tín dụng ngân hàng. Cục Phát
triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư thì chỉ có 32% số SMEs có
khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân
hàng, trong khi đó có hơn 35% số
doanh nghiệp khó tiếp cận và trên
32% số doanh nghiệp không có khả
năng tiếp cận vốn ngân hàng. Tình
trạng cung không gặp cầu d n đến
mâu thu n là trong khi ngân hàng
thừa vốn nhưng doanh nghiệp lại khát
vốn để sản xuất, kinh doanh. Nguyên
nhân phần lớn là do các SMEs có quy
mô nhỏ, phân tán, trình độ công nghệ
lạc hậu, năng lực quản trị doanh
nghiệp còn kém, năng lực cạnh tranh
và tiềm lực tài chính của các SMEs
v n còn yếu. Đa phần các SMEs có t
trọng vốn chủ sở h u trên tổng nguồn
vốn hoạt động ở mức thấp, nguồn vốn
sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa vào
vốn vay.
Xuất phát từ nh ng khó khăn và
nhu cầu của SMEs hiện nay, cụ thể là
tại tỉnh Đồng Nai về nhu cầu nguồn
vốn để phục vụ hoạt động sản xuất
kinh doanh, nghiên cứu này được thực
hiện với mục đích tìm hiểu nhu cầu
vay vốn ngân hàng của SMEs tại địa
bàn tỉnh Đồng Nai, xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn
ngân hàng và tầm quan trọng của
nh ng yếu tố này đến nhu cầu vay đối
với khối doanh nghiệp này. Từ kết
quả nghiên cứu đạt được, tác giả đưa
ra một số khuyến nghị đối với ngân
hàng nhằm hỗ trợ vốn cho các SMEs
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
2. Các nghiên cứu liên quan
Theo “L thuyết trật tự phân hạng”
(Pecking order theory), khi lựa chọn
các nguồn vốn đề tài trợ cho các hoạt
động của mình, các doanh nghiệp
thường ưu tiên sử dụng các nguồn nội
bộ, kế đến là nợ vay và cuối cùng là
phát hành cổ phiếu mới. Theo Myers
và Majluf [3], các nhà quản l doanh
nghiệp thường cân nhắc các nguồn tài
trợ theo thứ tự: (1) tự tài trợ; (2) nợ
không rủi ro; (3) nợ có rủi ro và (4)
tăng vốn.
Trong nghiên cứu của Michaelas
và cộng sự [4] cho thấy doanh nghiệp
có lợi nhuận cao lại muốn vay nhiều
hơn do chi phí lãi vay được tính vào
chi phí khi xác định thu nhập chịu
thuế, lãi vay là một trong nh ng lá
chắn thuế sẽ làm gia tăng lợi nhuận
khi doanh nghiệp đi vay và sử dụng
vốn vay có hiệu quả. Hơn thế n a, lợi
nhuận của doanh nghiệp cao phản ánh
cơ hội kinh doanh tốt khiến doanh
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
109
nghiệp muốn đi vay vốn để mở rộng
quy mô. Do vậy tác động của lợi
nhuận đối với nhu cầu vay vốn có tính
hỗn hợp. Nhưng đối với các SMEs,
các nguồn vốn này thường rất hạn chế
nên sau khi sử dụng hết nguồn vốn
chủ sở h u các doanh nghiệp phải nhờ
đến nguồn vốn từ bên ngoài. Do đó
nhu cầu vay vốn đối với các SMEs lại
càng gia tăng. Tuy nhiên, các nguồn
vốn từ bên ngoài phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác như: định hướng phát
triển kinh tế; tiếp cận hỗ trợ tài chính
công bao gồm bảo lãnh; lợi nhuận thu
được trong tương lai từ các phương án
kinh doanh; vốn tự có của công ty;
lịch sử tín dụng của công ty và các ưu
đãi cho vay của ngân hàng. Ngoài ra,
khi nhu cầu vốn để tận dụng các cơ
hội đầu tư cao hơn khả năng tự tài trợ
và các nguồn vốn có chi phí thấp,
doanh nghiệp sẽ vay từ bên ngoài mà
chủ yếu từ các ngân hàng thương mại
vì đây là nguồn có chi phí tương đối
thấp so với việc phát hành cổ phiếu.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của
Nguyễn Thanh Cường [5] thực hiện
đối với 302 doanh nghiệp từ 2004 -
2008, đối với ngành thủy sản Việt
nam (SEAs) so sánh với nh ng doanh
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp
chế biến khác (DIFs). Kết quả nghiên
cứu cho thấy cấu trúc vốn có sự khác
biệt gi a SEAs và DIFs. Quy mô và
giá trị tài sản thế chấp là nh ng nhân
tố được tìm thấy thực sự ảnh hưởng
đến cấu trúc vốn ở cả SEAs và DIFs.
Đối với SEAs, các nhân tố khả năng
sinh lời, tăng trưởng, chi phí giao dịch
và chi phí sử dụng nợ có ảnh hưởng
đến cấu trúc vốn và đóng vai trò thiết
yếu. Còn đối với DIFs, các nhân tố rủi
ro phá sản và tuổi của doanh nghiệp
đóng vai trò thiết yếu. Về quan hệ
tương tác, quy mô và giá trị tài sản thế
chấp đóng vai trò quan trọng trong
việc giải thích sự khác biệt gi a cấu
trúc vốn của các SEAs so với cấu trúc
vốn của các DIFs. Các nhân tố ảnh
hưởng đến cấu trúc vốn ở các SEAs
và DIFs ít thay đổi theo thời gian.
Nguyễn Thanh Cường [5] cho rằng
SEAs cần quan tâm quy mô, tài sản
thế chấp, khả năng sinh lời và tốc độ
tăng trưởng doanh nghiệp nhằm đối
phó với nh ng cú sốc về sự thay đổi
lãi suất ngân hàng. Trần Hùng Sơn [6]
cho thấy các doanh nghiệp điều chỉnh
t lệ nợ mục tiêu của mình dựa trên
lợi nhuận, t lệ tài sản cố định, quy
mô và các cơ hội tăng trưởng của
doanh nghiệp.
Nhìn chung, các nghiên cứu này
đề cập đến vấn đề tài trợ các nguồn
vốn trong doanh nghiệp bằng vốn vay
sau phương án tài trợ bằng nguồn vốn
tự có hoặc lợi nhuận gi lại. Có thể
thấy, nhu cầu vay vốn ngân hàng là
thiết yếu trong quá trình sản xuất kinh
doanh của các SMEs nói riêng và
doanh nghiệp nói chung.
3. Cơ sở lý thuyết
3.1. Tiêu chuẩn doanh nghiệp nhỏ
và vừa
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
110
Tiêu chuẩn phân loại SMEs
thường được quyết định bởi mục đích
thiết lập tiêu chuẩn. Ở nhiều quốc gia,
phương thức phân loại SMEs thường
căn cứ vào các tiêu chuẩn như số
lượng nhân viên, tổng số vốn, tổng số
tài sản, thị phần của doanh nghiệp
Theo Ngân hàng thế giới (WB) và
công ty tài chính quốc tế (IFC) thì
SMEs là các doanh nghiệp có quy mô
vốn, lao động và doanh thu nhỏ bé.
Căn cứ vào khái niệm trên thì SMEs
được chia làm 3 loại: doanh nghiệp
siêu nhỏ (các doanh nghiệp có không
quá 10 lao động, tổng giá trị tài sản
hoặc nguồn vốn không quá 100.000
USD); doanh nghiệp nhỏ (các doanh
nghiệp có không quá 50 lao động,
tổng giá trị tài sản hoặc nguồn vốn
không quá 3.000.000 USD và tổng
doanh thu hằng năm không quá
3.000.000 USD); doanh nghiệp vừa
(doanh nghiệp có không quá 300 lao
động, tổng giá trị tài sản và nguồn
vốn không quá 15.000.000 USD và
tổng doanh thu hằng năm không quá
15.000.000 USD).
Theo khối EU, SMEs là nh ng
doanh nghiệp có dưới 250 lao động
được chia thành 3 loại sau: doanh
nghiệp siêu nhỏ (có dưới 10 lao động,
doanh số 2 triệu Euro, tổng tài sản 2
triệu Euro); doanh nghiệp nhỏ (có từ
10 lao động đến dưới 50 lao động,
doanh số 10 triệu Euro, tổng tài sản 10
triệu Euro); doanh nghiệp vừa (có từ
50 đến dưới 250 lao động, doanh số 50
triệu Euro, tổng tài sản 43 triệu Euro).
Tại Việt Nam, theo Nghị định số
56/2009/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/06/2009 thì SMEs là cơ sở kinh
doanh đã đăng k kinh doanh theo quy
định pháp luật, được chia thành ba cấp:
siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn, cụ thể được trình bày ở
bảng 1.
Bảng 1: Phân loại SMEs theo khu vực kinh tế tại Việt Nam
Quy mô
Khu vực
DN siêu
nhỏ
DN nhỏ DN vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao
động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người
trở xuống
20 t đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20
t đồng đến
100 t
đồng
từ trên
200
người đến
300
người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người
trở xuống
20 t đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
50 người
từ trên 10
t đồng đến
50 t đồng
từ trên 50
người đến
100
người
(Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ )
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
111
Theo Nghị Định số 56/2009/NĐ-
CP phân loại các SMEs tại Việt Nam
là khái niệm được dùng trong bài
nghiên cứu này.
3.2. Tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là giao dịch
tài sản gi a ngân hàng (TCTD) với
bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá
nhân trong nền kinh tế) trong đó ngân
hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời
gian nhất định theo thỏa thuận và bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều
kiện cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng
(TCTD) khi đến hạn thanh toán.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số
47/2010/QH12 thì: (i) cấp tín dụng là
việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử
dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho
phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính,
bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ cấp tín dụng khác; (ii)
cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo
đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong nghiên cứu này, vay vốn được
hiểu là việc ngân hàng cấp tín dụng
cho các SMEs.
3.3. Nhu cầu vay vốn
Trong quá trình hoạt động doanh
nghiệp cần đầu tư vốn vào tài sản lưu
động và tài sản cố định. Nguồn vốn để
đầu tư vào tài sản lưu động có thể là
nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn. Tuy
nhiên do nhu cầu về vốn dài hạn để
đầu tư vào tài sản cố định rất lớn nên
thông thường doanh nghiệp khó có thể
sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu tư
vào tài sản lưu động. Do vậy để đầu tư
vào tài sản lưu động, doanh nghiệp
thường sử dụng nguồn vốn ngắn hạn
bao gồm: các khoản nợ phải trả người
bán, khoản ứng trước của người
mua và vay ngắn hạn từ ngân hàng.
Các doanh nghiệp thường huy
động tất cả nguồn vốn ngắn hạn mà
doanh nghiệp có thể tận dụng được,
khi còn thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ
sử dụng nguồn tài trợ ngắn hạn của
ngân hàng. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn
của doanh nghiệp có thể do sự chênh
lệch về thời gian và doanh số gi a
tiền thu bán hàng và tiền đầu tư vào
tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia
tăng đầu tư tài sản lưu động đột biến
theo thời vụ. Theo Nguyễn Minh Kiều
(2014) [7] thì nhu cầu tài trợ ngắn hạn
của doanh nghiệp có thể chia thành:
(i) nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường
xuyên và (ii) nhu cầu tài trợ ngắn hạn
thời vụ. Nhu cầu tài trợ thường xuyên
do đặc điểm luân chuyển vốn của
doanh nghiệp quyết định trong khi
nhu cầu tài trợ thời vụ do đặc điểm
thời vụ của ngành sản xuất kinh
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
112
doanh quyết định. Nhu cầu tài trợ
ngắn hạn thường xuyên xuất phát từ
sự chênh lệch nhau về thời gian và
quy mô gi a tiền vào và tiền ra của
doanh nghiệp. Nếu dòng tiền chi ra
lớn hơn dòng tiền thu vào, doanh
nghiệp cần bổ sung thiếu hụt. Khoản
tiền này trước hết bổ sung từ nguồn
vốn chủ sở h u và các khoản nợ phải
trả khác mà doanh nghiệp có thể huy
động được. Phần còn lại doanh nghiệp
sẽ sử dụng tài trợ ngắn hạn của ngân
hàng. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời
vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của
sản xuất kinh doanh khiến cho nhu
cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến.
Tóm lại, trong quá trình hoạt động
thì doanh nghiệp có nhu cầu tài trợ
ngắn hạn, dài hạn, thường xuyên hoặc
thời vụ, từ ngân hàng. Việc cấp tín
dụng của ngân hàng giúp doanh
nghiệp bổ sung vốn thiếu hụt đảm bảo
cho doanh nghiệp có thể duy trì hoạt
động và mở rộng sản xuất kinh doanh.
3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến
nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp: quy mô
doanh nghiệp đang tác động tích cực
đến việc sử dụng nguồn vốn bên
ngoài (Bahaird và Lucey 8]). Các
doanh nghiệp tư nhân thường có cơ
cấu tổ chức đơn giản, sản xuất kinh
doanh nh ng hàng hóa, dịch vụ truyền
thống, đơn giản và có quy mô hoạt
động nhỏ so với các loại hình doanh
nghiệp khác nên nhu cầu vốn của họ
cũng có thể nhỏ hơn các công ty trách
nhiệm h u hạn hay công ty cổ phần
(Trương Văn Khánh [9]). Trên thực
tế, các SMEs có nhu cầu về vốn
không chỉ trong gian đoạn thành lập
mà còn trong quá trình mở rộng quy
mô sản xuất, đa phần các công ty cho
rằng nguồn vốn nội bộ để thực hiện
mở rộng sản xuất kinh doanh là không
đủ mà cần phải có nguồn tài trợ từ
bên ngoài.
Thời gian hoạt động: Nếu các
doanh nghiệp có kết quả kinh doanh
tốt và thời gian kinh doanh càng dài
thì các doanh nghiệp này có thể tự tài
trợ vốn cho mình bằng nguồn lợi
nhuận gi lại hằng năm. Adaskou [10]
cho rằng số năm hoạt động của doanh
nghiệp tương quan âm với t lệ nợ.
Pickernell và cộng sự [11] cho thấy
các doanh nghiệp mới thành lập và
thời gian hoạt động chưa lâu có nhiều
khả năng sử dụng nguồn tài chính bên
ngoài hơn là các doanh nghiệp đã có
thời gian hoạt động lâu năm.
Giá trị tài sản cố định: Trong
công tác thẩm định cho vay thì các
ngân hàng luôn chú trọng đến quy
mô của doanh nghiệp, đặc biệt là giá
trị tài sản cố định. Đây cũng là phần
đảm bảo tiền vay trong trường hợp
doanh nghiệp không có khả năng trả
nợ vay. Tuy nhiên, đối với các SMEs
mà thời gian hoạt động ngắn thì có
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
113
khả năng phải đối mặt với chi phí tài
chính cao và họ được yêu cầu cung
cấp tài sản thế chấp. Theo Ngân hàng
châu Âu cho thấy rằng các SMEs khi
đầu đầu tư vào tài sản cố định và
hàng tồn kho thì v n rất cần đến
nguồn tài trợ từ bên ngoài. Tại Việt
Nam, hoạt động cho vay hiện nay của
các ngân hàng v n dựa vào tài sản
thế chấp là chính để đảm bảo cho
việc an toàn vốn và tài sản thế chấp
trở thành nhân tố được các ngân hàng
xem xét đầu tiên trước khi quyết định
cho vay. Do vậy trong bài nghiên cứu
giá trị tài sản cố định của doanh
nghiệp được dùng như là một chỉ tiêu
biểu hiện quy mô của doanh nghiệp.
Ngành nghề kinh doanh của
doanh nghiệp: Các doanh nghiệp hoạt
động trong các lĩnh vực khác nhau thì
có nhu cầu vay khác nhau (Trương
Văn Khánh [9]), song điều quan trọng
hơn là với số vốn đó doanh nghiệp
phân bổ vào khoản mục nào với t
trọng là bao nhiêu cho hợp l và phát
huy hiệu quả, nó phụ thuộc vào đặc
thù riêng của mỗi ngành, cụ thể như
ngành xây dựng, nông lâm và thủy
sản thường cần nhiều vốn do quy mô
đầu tư lớn và đa phần là vào tài sản cố
định, còn đối với các doanh nghiệp
ngành thương mại và dịch vụ thì vốn
thường nằm ở hàng hóa và phần phải
thu của khách hàng vì thường bán
hàng trả chậm hoặc k gửi đại l .
Từ các nghiên cứu Bahaird và
Lucey [8], Pickernell và cộng sự [11],
Trương Văn Khánh [9] có 4 nhân tố
tác động được dùng trong nghiên cứu
này như sau: (1) quy mô doanh
nghiệp, (2) ngành nghề kinh doanh của
doanh nghiệp, (3) giá trị tài sản cố
định, (4) thời gian hoạt động.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu do tác giả đề xuất
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu
đã đề ra, ngoài d liệu thứ cấp, tác giả
sử dụng phiếu khảo sát và tiến hành
qua hai bước chính: (1) nghiên cứu sơ
bộ; và (2) nghiên cứu chính thức để
thu thập d liệu sơ cấp. Cuộc khảo sát
chính thức được thực hiện trong tháng
3/2018 đối với các cán bộ lãnh đạo:
Quy mô
Ngành nghề kinh doanh
Giá trị tài sản cố định
Thời gian hoạt động
Nhu cầu vay vốn
của SMEs
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
114
trưởng/phó các phòng ban/bộ phận,
nh ng người có tham gia vào công tác
vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp.
Tổng cộng có 250 phiếu in được gửi
đi khảo sát, kết quả thu về được 215
phiếu in (đạt tỉ lệ 86%). Sau khi lọc
d liệu, còn 208 quan sát hợp lệ. Nội
dung các biến quan sát được trình bày
trong bảng 2.
Bảng 2: Mã hóa các biến quan sát
Nhân tố Nội dung thang đo Mã hóa
Ngành nghề
(NN)
Các SMEs hoạt động trong ngành nông lâm thủy sản có
nhu cầu vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất hàng hóa
xuất khẩu
NN1
Các SMEs hoạt động trong ngành xây dựng có nhu cầu
vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ đầu tư xây dựng
cơ bản
NN2
Các SMEs hoạt động trong ngành thương mại và dịch
vụ có nhu cầu vay vốn để bổ sung vốn lưu động
NN3
Các SMEs hoạt động trong ngành vận tải có nhu cầu
vay trong việc tăng cường phương tiện giao thông đáp
ứng nhu cầu khách hàng
NN4
Các SMEs hoạt động trong ngành công nghiệp có nhu
cầu vay để đầu tư công nghệ mới
NN5
Các SMEs hoạt động trong các ngành khác cũng có nhu
cầu vay cao để phục vụ hoạt động
NN6
Quy mô
(QM)
Các SMEs có quy mô hoạt động nhỏ hơn so với các loại
hình doanh nghiệp khác nên có nhu cầu vay vốn ít hơn
QM1
Các SMEs có quy mô nhỏ hơn có khả năng phải đối
mặt với chi phí tài chính cao hơn
QM2
Vốn điều lệ cao thì nhu cầu vay cao QM3
Các SMEs phát sinh doanh thu cao thì nhu cầu vay
cũng cao
QM4
Các SMEs phát sinh chi phí cao thì nhu cầu vay cũng
cao
QM5
Thời gian
hoạt động
(TG)
Các SMEs có thời gian hoạt động trên 5 năm có thể tự
tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn tự
có nên ít có nhu cầu vay vốn
TG1
Các SMEs có thời gian hoạt động trên 10 năm có thể tự
tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn tự
có nên không có nhu cầu vay vốn
TG2
Các SMEs mới thành lập có nhu cầu vay vốn nhiều hơn
các doanh nghiệp đã có thời gian hoạt động lâu dài
TG3
Các SMEs mới thành lập thì khó vay vốn ngân hàng TG4
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
115
Nghiên cứu sử dụng một số
phương pháp phân tích d liệu được
áp dụng khá phổ biến trong các nghiên
cứu thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội
như: đánh giá độ tin cậy của các thang
đo, phân tích nhân tố khám phá (EFA),
và phân tích hồi quy tuyến tính.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Kết quả thống kê mô tả
Các đối tượng khảo sát được thể
hiện qua biểu đồ 1, là phần thống kê
mô tả cho m u nghiên cứu cho thấy
rằng m u khảo sát đủ điều kiện đại diện
cho tổng thể nghiên cứu. Vì dung lượng
bài báo bị giới hạn theo quy định nên
tác giả không phân tích kỹ hơn về kết
quả có được trong biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: Thống kê mô tả đối tượng khảo sát
4.2. Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA
Các SMEs hoạt động có tính thời vụ thì nhu cầu vay
càng cao
TG5
Các SMEs có chu kỳ sản xuất kinh doanh càng dài thì
nhu cầu vay càng cao
TG6
Giá trị tài
sản cố định
(TSCĐ)
Các SMEs luôn có đủ tài sản thế chấp, cầm cố để vay
vốn ngân hàng
TSCĐ1
Giá trị tài sản cố định càng cao trong tổng tài sản thì
nhu cầu vay càng lớn
TSCĐ2
Tài sản cố định được hình thành từ nguồn vốn chủ sở
h u càng ít thì nhu cầu vay càng cao
TSCĐ3
Nhu cầu
vay vốn
(NCV)
SMEs có nhu cầu vay với sự hỗ trợ lãi suất của ngân
hàng
NCV1
Thủ tục hành chính ảnh hưởng đến việc vay vốn ngân
hàng của doanh nghiệp
NCV2
Các ngân hàng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn
của DN
NCV3
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
116
Các thang đo trước hết được phân
tích độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s
Alpha, kết quả phân tích nếu thang đo
đều thỏa các tiêu chí: Cronbach’s
Alpha 0,6; Hệ số tương quan biến
tổng của từng thành phần 0,3 (Nguyễn
Đình Thọ [12]) thì thang đo đảm bảo
độ tin cậy. Kết quả phân tích nhân tố
EFA cho thấy tất cả có 5 yếu tố được
trích tại giá trị eigenvalue là 1,613 và
phương sai trích được là 62,09%. Kết
quả kiểm định cho thấy phân tích
nhân tố là phù hợp, hệ số KMO của
kiểm định Bartlett bằng 0,672 với giá
trị sig = 0,000. Như vậy, phương pháp
EFA được dùng trong nghiên cứu này
là phù hợp (bảng 3).
4.3. Kết quả phân tích hồi quy
tuyến tính
Với 208 SMEs được khảo sát, giá
trị trung bình của biến “Nhu cầu vay
vốn” (NCV) của các SMEs trong m u
là 3,814 trong thang điểm 5. Như vậy,
thực sự thì nhu cầu vay vốn của
SMEs tại tỉnh Đồng Nai cần phải
được quan tâm. Và nhân tố nào đã
ảnh hưởng đến khả năng này? Tầm
quan trọng của mỗi nhân tố ra sao?
Để giải đáp nh ng vấn đề này, tác giả
sử dụng phân tích hồi quy tuyến tính
đa biến với mô hình hồi quy trong
nghiên cứu này được thể hiện như
sau: Biến phụ thuộc: NCV - Nhu cầu
vay vốn của SMEs; Các biến độc lập:
QM - Quy mô; NN - Ngành nghề;
TSCĐ - Giá trị tài sản cố định; TG -
Thời gian.
Nghiên cứu tiến hành chạy phân
tích nhân tố EFA, kết quả phân tích
Factor loading lần 1 cho kết quả biến
NN5 và NN6 có giá trị nhỏ hơn 0,5
nên tiến hành loại bỏ biến này, đồng
thời chạy lại EFA lần 2 với kết quả
được trình bày tại bảng 3 như sau:
Bảng 3: Kết quả phân tích EFA
Biến Component
NN1 ,785
NN3 ,679
NN2 ,731
NN4 ,692
QM4 ,648
QM2 ,705
QM1 ,692
QM3 ,503
QM5 ,743
QM6 ,632
TG3 ,619
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
117
TG2 ,585
TG2 ,748
TG5 ,683
TG4 ,798
TG6 ,745
TSCĐ2 ,762
TSCĐ1 ,684
TSCĐ3 ,563
NCV2 ,628
NCV1 ,715
NCV3 ,650
Từ kết quả phân tích EFA (bảng
3), tác giả tiến hành chạy phân tích
kết quả hồi quy được trình bày trong
bảng 4. Kết quả hồi quy cho thấy các
biến độc lập đều có nghĩa thống kê,
tức là đều có tác động đáng kể đối với
nhu cầu vay vốn của các SMEs tại
Đồng Nai.
Bảng 4: Hệ số hồi quy (HSHQ)
Biến
HSHQ chưa
chuẩn hóa
HSHQ
chuẩn hóa
Mức ý
nghĩa
Hệ số phóng
đại VIF
B Sai số Beta
Cons. 0,053 0,001 0,000
NN 0,257 0,045 0,235 0,000 1,304
QM 0,309 0,021 0,398 0,002 2,070
TSCĐ 0,471 0,018 0,253 0,000 1,332
TG 0,152 0,015 0,168 0,001 1,961
Tầm quan trọng của nhu cầu vay
vốn của các SMEs tại tỉnh Đồng Nai
được xếp theo thứ tự giảm dần và
mức độ đánh giá trong thang điểm 5
được thể hiện trong bảng 5.
Bảng 5: Tầm quan trọng và mức độ đánh giá
Quan trọng Nhân tố Hệ số hồi quy Mức độ đánh giá
1-QM Quy mô 0,398 4,152
2-NN Ngành nghề kinh doanh 0,235 3,705
3-TSCĐ Giá trị tài sản cố định 0,253 2,457
4-TG Thời gian hoạt động 0,168 3,125
Như vậy, trong các nhân tố được
khảo sát, nhân tố “quy mô” được đánh
giá cao hơn 4 điểm trong thang điểm
5 (đạt 4,152/5,00); điều này là phù
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
118
hợp với thực tiễn các doanh nghiệp
SMEs hiện nay, kết quả này cho thấy
mỗi doanh nghiệp được khảo sát đều
cho rằng quy mô của SMEs có ảnh
hưởng lớn đến nhu cầu vay vốn.
Trong khi đó 2 nhân tố được đánh ở
mức trung bình (3 điểm) ảnh hưởng
đến nhu cầu vay vốn là ngành nghề
kinh doanh và thời gian hoạt động.
Duy nhất có một nhân tố là giá trị tài
sản cố định được đánh giá là dưới
trung bình (2,457). Để tìm hiểu
nguyên nhân của hiện tượng này, tác
giả tiến hành các kiểm định t-test và
one-way Anova test về sự bằng nhau
của giá trị trung bình của tiêu thức
nhu cầu cho vay theo tiêu thức ngành
nghề kinh doanh (vận tải; xây dựng;
nông lâm, thủy, hải sản; thương mại
dịch vụ; SMEs khác). Kết quả cho
thấy có sự khác biệt có nghĩ thống
kê về nhu cầu vay của SMEs gi a các
ngành, cụ thể ngành Thương mại và
dịch vụ (4,26/5,00), ngành Xây dựng
(3,25/5,00), ngành Vận tải (2,94/5,00)
và ngành Nông - lâm - thủy sản
(2,35/5,00).
5. Thảo luận và kết luận
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy
SMEs có nhu cầu tiếp cận với nguồn
vốn tín dụng ngân hàng là rất lớn, tuy
nhiên trên thực tế hoạt động cho vay
đối với các SMEs còn nhiều hạn chế,
v n còn rất nhiều doanh nghiệp không
tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng
trong khi nguồn cung v n còn khoảng
10.000 t đồng (Ngân hàng Nhà nước
chi nhánh Đồng Nai, 2017). Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy quy mô
SMEs càng phát triển thì nhu cầu vay
càng tăng so với các doanh nghiệp có
quy mô nhỏ. Ngoài ra, các doanh
nghiệp kinh doanh các ngành nghề
khác nhau thì nhu cầu vay vốn khác
nhau, đặc biệt nhu cầu vay vốn này là
cao đối với ngành Thương mại và
dịch vụ, kế đến là ngành Xây dựng,
vận tải và Nông - lâm - thủy sản.
Đặc thù của các SMEs thường có
giá trị tài sản cố định là thấp trong
tổng nguồn vốn, d n đến giá trị đảm
bảo không cao khi dùng để thế chấp
vay vốn tại ngân hàng. Kết quả
nghiên cứu cũng cho thấy đối với các
SMEs có tài sản hình thành từ vốn
chủ sở h u càng thấp thì nhu cầu vay
càng cao. Đây là trở ngại lớn nhất khi
tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của
nhóm doanh nghiệp này, khi ngân
hàng thẩm định tài sản đảm thế chấp
để đảm bảo cho các khoản vay. Đặc
biệt là đối với các SMEs của ngành
Thương mại và dịch vụ thì giá trị tài
sản cố định trong doanh nghiệp thường
không cao so với các ngành khác,
nhưng nhu cầu vay lại cao nhất trong
các nhóm ngành kinh doanh được
khảo sát. Do đó các ngân hàng có thể
xử l linh động đối với các khoản cho
vay đối với nhóm SMEs như: có thể
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
119
miễn giảm các phí dịch vụ trong quá
trình thanh toán của các SMEs, hoặc
có thế chấp bằng hàng hóa với t lệ thế
chấp tốt có lưu đến lịch sử tín dụng
và trả nợ với ngân hàng ngoài việc
xem xét đến tính khả thi của dự án,
phương án kinh doanh của doanh
nghiệp, để có thể tháo gỡ khó khăn về
nhu cầu vay vốn của các SMEs hiện
nay. Theo Ngân hàng Nhà nước chi
nhánh Đồng Nai năm 2017 thì mặt
bằng lãi suất cho vay phổ biến đối với
các lĩnh vực ưu tiên là 6-6,5%/năm đối
với ngắn hạn, trung và dài hạn 9-
10%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh thông thường
ở mức 6,8-9%/năm đối với ngắn hạn;
9,3-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Đối với nhóm khách hàng tốt, tình
hình tài chính lành mạnh, minh bạch,
lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4-
5%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ
biến ở mức 2,8-6,0%/năm. Như vậy,
có thể nói lãi suất cho vay đã ở mức
thấp, tuy nhiên kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy thủ tục hành chính của
ngân hàng còn rườm rà, thời gian để
nguồn vốn vay đến SMEs còn chưa
kịp thời. Do đó việc điều chỉnh các
chính sách cho vay kết hợp với đơn
giản hóa thủ tục cho vay gắn liền với
các chính sách ưu đãi về các khoản phí
dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn là
điều cần quan tâm đối với các ngân
hàng hiện nay.
Theo kết quả nghiên cứu thì thời
gian hoạt động ảnh hưởng thấp nhất
đến nhu cầu vay, tuy nhiên yếu tố này
cũng có tác động cùng chiều đến nhu
cầu vay vốn. Nghĩa là các SMEs càng
thành lập lâu thì nhu cầu vay vốn càng
tăng. Ngoài ra, các ngân hàng cũng nên
chú trọng đến các SMEs mới thành lập,
vì từ năm 2015 đến nay tỉnh Đồng Nai
đang áp dụng cơ chế đặc thù tập trung
hỗ trợ xúc tiến đầu tư đến các nhà đầu
tư FDI có dự án mới, gắn với việc
thành lập SMEs tại Đồng Nai. Nhóm
đối tượng doanh nghiệp này thường
không có điều kiện tiếp cận tốt với
chính quyền địa phương do quy mô
đầu tư nhỏ, bất đồng ngôn ng , thời
gian hoạt động chưa lâu. Do đó các
ngân hàng cần lưu và có các chiến
lược kinh doanh đối với đối tượng này,
khi xét duyệt các khoản cấp tín dụng
để đáp ứng nhu cầu vay ngày càng cao
của các SMEs.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thái Hà (2018), “Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
một số quốc gia và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Tài chính 2/05/2018.
chinh-ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-o-mot-o-quoc -gia-va-bai-hoc-cho-viet-nam-
137964.html
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
120
2. Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Tỉnh Đồng Nai (2017) -
Báo cáo nội bộ
3. Myers, S., C. & Majluf, N, S. (1984), “Corporate financing and investment
decisions when firms have information that investors do not have”, Journal of
Financial Economics, Vol: 13, pp 113-130
4. Michaelas, N., Chittenden, F. & Poutziouris, P. (1999), Financial Policy and
Capital Structure Choice in U.K. SMEs: Empirical Evidence from Company Panel
Data, Small Business Economics, vol 12, pp: 113-130
5. Nguyễn Thanh Cường (2011), “Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của
các doanh nghiệp chế biến thu sản Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Khoa học và
Công nghệ, T.14, S.3Q
6. Trần Hùng Sơn (2011), “Đặc điểm doanh nghiệp và tốc độ điều chỉnh cấu trúc
vốn mụ c tiêu của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp niêm yết tại Việt Nam”,
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, T.14, S.1Q
7. Nguyễn Minh Kiều (2014), Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng, NXB
Tài Chính, Hà Nội
8. Bhaird CM & Brian L (2010), “Determinants of capital structure in Irish
SMEs”, J. Small Bus. Econ, vol: 35, pp: 357-375
9. Trương Văn Khánh (2013), “Hiệu quả hoạt động quỹ bảo lãnh tín dụng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, trường Đại học
Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
10. Adaskou, M. (2009), Les deùterminants de la structure financieøre des PME:
une application eùconomeùtrique sur un panel d'entreprises françaises. Universiteù Paris
11. Pickernell D, Julienne S, Paul J Gary P and Elaine R (2013), “New and
Young firms Entreprenneurship policy and the role of government evidence from the
Federation of Smal Bussinesses servey”, J. Small Bus, Enterprise Dev, vol 20, pp:
358-382
12. Nguyễn Đình Thọ (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh
doanh, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội
FACTORS AFFECTING DEMAND FOR LOANS OF SMALL AND
MEDIUM ENTERPRISE (SMEs) IN DONG NAI PROVINCE
ABSTRACT
Over the past few years, factors affecting demand for loans are increasing
with the increase in quantity of Small and Medium Enterprise (SMEs). To have
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 10 - 2018 ISSN 2354-1482
121
proper solutions to the problem of solving demands for loans, this paper
investigates the factors that affect the demand for loans of SEMs in Dong Nai
province. The research method uses descriptive statistics and multiple linear
regression analysis from an official survey of 208 in SMEs, which showed that
there were four factors influencing the demand for loans, including: (1) size; (2)
business lines; (3) value of fixed assets; (4) Operation time. Such findings
provide recommendations for bank managers to create proper policies of loans
for SMEs ,which serves the development of SMEs as well as banks.
Keywords: Demand for loans, small and medium enterprise (SMEs), Dong
Nai Province
(Received: 23/7/2018, Revised: 3/8/2018, Accepted for publication: 18/9/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_nhu_cau_vay_von_cua_cac_doanh_nghie.pdf