KẾT LUẬN
Nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
đều có những đặc điểm tương tự như: số nhân khẩu
khoảng 4 - 5 người nhưng lực lượng lao động thấp
tập trung trong khoảng 1 - 2 người; không có sự đa
dạng nguồn thu nhập; thu nhập từ sản xuất lúa còn
thấp so với diện tích đất canh tác và chiếm tỷ trọng
cao nhất; tỷ lệ và số tiền vay vốn của vùng ngoài đê
cao hơn vùng trong đê, chủ yếu phục vụ sản xuất
nông nghiệp và trên 65% số hộ đủ vốn sản xuất,
vùng sản xuất trong đê của Đồng Tháp có thu nhập
trung bình hộ cao nhất và có sự đa dạng thu nhập
hơn các vùng còn lại.
Các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến sinh kế của
nông hộ bao gồm thành lập hợp tác xã, tập huấn
sản xuất, hướng dẫn các mô hình sản xuất mới, Tuy
nhiên, có rất nhiều yếu tố hạn chế các hoạt động
sinh kế của nông hộ bao gồm: 1) Sự diễn biến thời
tiết bất thường do biến đổi khí hậu như: mưa bão
thất thường, mùa khô kéo dài, nhiệt độ tăng, dịch
hại phát triển; 2) Thị trường đầu vào và đầu ra bất
ổn, thiếu lao động, không bao tiêu. Ngoài ra vẫn có
các yếu tố tác động trái chiều đến hoạt động sinh
kế của nông hộ do mâu thuẫn về lợi ích như: quy
hoạch, đê bao kín, xả lũ. Khả năng của nông dân đạt
được sinh kế bền vững, đặc biệt trong sản xuất lúa, bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố liên quan đến điều kiện
nông hộ như tình hình sức khỏe người lao động, sự
đa dạng nguồn thu nhập. Hộ nông dân có diện tích
lớn, đủ vốn sản xuất hơn có điều kiện sinh kế tốt hơn
so với hộ nghèo và diện tích nhỏ hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
82
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SINH KẾ NÔNG HỘ SẢN XUẤT LÚA
Ở AN GIANG VÀ ĐỒNG THÁP
Lâm Thành Sĩ1, Nguyễn Hồng Tín2
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế của nông hộ sản xuất lúa ở hai tỉnh
An Giang và Đồng Tháp. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc (nông hộ và cán bộ kỹ thuật), công cụ thống kê mô
tả, mô hình hồi quy Binary Logistic được sử dụng cho đánh giá hiện trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
sinh kế của nông hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn lực nông hộ sản xuất lúa còn nhiều hạn chế, trong đó nổi
bật nhất là thiếu lao động, lượng lao động thấp tập trung trong khoảng 1 - 2 người/hộ, thu nhập thấp và không có sự
đa dạng thu nhập (1 - 2 nguồn thu nhập). Vùng sản xuất trong đê của Đồng Tháp có thu nhập trung bình hộ cao nhất
147,16 triệu đồng/năm và có sự đa dạng thu nhập hơn các vùng còn lại. Nhiều yếu tố được đánh giá ảnh hưởng tiêu
cực đến sinh kế của nông hộ như biến đổi khí hậu, dịch hại gia tăng, giá đầu vào cao, giá đầu ra thấp, thiếu lao động,
không được bao tiêu sản phẩm. Đặc biệt, trong vùng đê bao có sự mâu thuẫn lợi ích giữa nhóm nông dân chuyên
sản xuất lúa và nhóm sản xuất cây lâu năm về công tác quản lý lũ.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, vùng lũ, sản xuất lúa, sinh kế
1 Nghiên cứu sinh ngành Phát triển nông thôn, Trường Đại học Cần Thơ
2 Giảng viên Trường Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
An Giang và Đồng Tháp là hai tỉnh sản xuất lúa
chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
và cả nước. Với điều kiện đặc thù, là hai tỉnh đầu
nguồn của ĐBSCL, Đồng Tháp và An Giang đã được
đầu tư xây dựng các hệ thống đê bao khép kín nhằm
hạn chế thiệt hại do ảnh hưởng lũ đến sản xuất nông
nghiệp (Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Thị Ngọc
Dung, 2014). Hàng năm, hai tỉnh cung ứng khoảng
30% tổng sản lượng lúa của vùng ĐBSCL. Tuy nhiên,
sinh kế của nông dân trồng lúa vẫn gặp nhiều khó
khăn do tác động của lũ và nhiều yếu tố khác. Trong
thực tế sản xuất, các hiểm họa tự nhiên như nhiệt
độ cao, nắng nóng kéo dài, mưa bất thường, xảy ra
thường xuyên, gây thiệt hại đáng kể đến sản xuất
nông nghiệp và sinh kế của nông hộ ở ĐBSCL
(Le Canh Dung et al., 2012). Thêm vào đó, sự thay
đổi các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, chẳng
hạn như sự suy giảm chất lượng đất, suy giảm nguồn
tài nguyên thiên nhiên, các chính sách phát triển
nông nghiệp và nông thôn, biến động giá nông sản
cũng gây ra các tác động (tích cực và tiêu cực) cho
nông hộ trong việc xây dựng và thực hiện các chiến
lược sinh kế nhằm đạt được các kết quả sinh kế kỳ
vọng. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhận ra các
yếu tố tác động đến sinh kế nông hộ sản xuất lúa của
tỉnh An Giang và Đồng Tháp nhằm góp phần tìm ra
giải pháp hướng đến quá trình phát triển sinh kế bền
vững ở nông thôn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố tác động đến
sinh kế nông hộ sản xuất lúa ở huyện An Phú, tỉnh
An Giang (AG) và huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng
Tháp (ĐT).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tiếp cận
Đề tài sử dụng phương pháp tiếp cận có sự tham
gia thông qua sử dụng bộ công cụ PRA (Đánh giá
nông thôn có sự tham gia) (Cần và Vromant, 2009).
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu này kết hợp phương pháp thu thập
số liệu định tính và định lượng (Bảng 1). Phương
pháp phỏng vấn sâu người am hiểu (KIP), thảo luận
4 nhóm cộng đồng (FGD) và phỏng vấn hộ. Tổng
cộng 120 nông hộ tham gia canh tác lúa được phỏng
vấn bao gồm: 31 nông hộ trong đê và 31 hộ ngoài đê
ở huyện An Phú tỉnh An Giang, 30 hộ trong đê và
28 hộ ngoài đê ở huyện Thanh Bình tỉnh Đồng Tháp.
Việc chọn lựa các hộ khảo sát dựa trên quần thể có
mô hình canh tác đại diện tại các điểm nghiên cứu
cho phép khái quát hóa các kết quả phân tích cho các
nhóm nông hộ đại diện cho vùng sản xuất lúa của
tỉnh An Giang và Đồng tháp.
83
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 1. Số mẫu và nội dung được phỏng vấn
STT Phương pháp Đối tượng Số người Nội dung
1 Phỏng vấn người am hiểu (KIP)
Cán bộ phòng
Nông nghiệp và PTNT. 4
Tình hình sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Hiện trạng sản xuất lúa ở vùng có và không có
đê bao khép kín.
2 Thảo luận nhóm (PRA)
Nông dân đại diện
mô hình sản xuất lúa
ở mỗi vùng.
24 Những thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức trong phát triển sinh kế hiện tại của hộ dân.
3 Phỏng vấn hộ
Nông dân sản xuất lúa
trong đê và ngoài đê ở
An Giang và Đồng Tháp.
120
Điều kiện tự nhiên, hoạt động sinh kế, những
yếu tố tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát
triển sinh kế hiện tại của hộ dân.
2.2.3. Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng các công cụ thống kê mô tả như tần số,
trung bình (TB) để thể hiện các nguồn vốn sinh kế
và tính tổn thương của chiến lược sinh kế và sử dụng
phương pháp phân tích bảng chéo để so sánh các chỉ
tiêu giữa 2 tỉnh nghiên cứu.
Bên cạnh đó, mô hình hồi quy Binary Logistic
được sử dụng để phân tích các yếu tố nội tại của
nông hộ ảnh hưởng đến khả năng tích lũy của
nông hộ.
Log e [P(Y=1)/P(Y=0)] = B0 + BiXi (i = 1, n)
Trong đó: Y là biến phụ thuộc (biến nhị nguyên) có
giá trị. Y = 0: Không có tích lũy; Y = 1: Có tích lũy. Bi
là hệ số đo lường sự thay đổi trong tỷ lệ của khả năng
xảy ra của các biến độc lập của mô hình. Xi là các biến
độc lập của mô hình (biến định lượng và biến dummy)
đây là các nhân tố tác động đến biến phụ thuộc.
Những biến độc lập được đưa vào mô hình:
Đê bao, số lao động, tập huấn, sức khỏe chủ hộ, số
nguồn thu, thiếu vốn sản xuất, hạ tầng, diện tích đất,
bao tiêu, đầu ra bất ổn, đầu vào tăng, tham gia hợp
tác xã , dịch hại tăng, học vấn chủ hộ, đi làm xa.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4 năm 2019
đến tháng 4 năm 2020 tại huyện An Phú, tỉnh An
Giang và huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiện trạng nguồn lực sinh kế của nông hộ sản
xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
Đất đai được xem là tài sản sinh kế quan trọng
và tùy thuộc vào điều kiện đất đai, nông hộ đưa ra
những quyết định chuyển đổi mô hình canh tác với
cây trồng và vật nuôi phù hợp với sự thay đổi của
môi trường và khí hậu (Phạm Ngọc Nhàn, 2018).
Kết quả điều tra cho thấy, diện tích đất trung bình
của nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
khá cao trong khoảng 1,53 - 2,03 ha. Trong đó, diện
đất canh tác lúa trung bình của các hộ trong vùng
đê bao ở Đồng Tháp là cao nhất, khoảng 1,77 ha
(Bảng 2). Từ diện tích đất canh tác trung bình của
hộ có thể thấy rằng ở các điểm nghiên cứu người
dân tập trung canh tác lúa chuyên canh, có một số
hộ canh tác hoa màu, cây ăn trái và nuôi thủy sản
nhưng diện tích không đáng kể.
Bảng 2. Diện tích đất của nông hộ sản xuất lúa
ở An Giang và Đồng Tháp
ĐVT: ha
Nội dung
An Giang Đồng Tháp
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Diện tích thổ cư 0,10 0,08 0,08 0,06
Diện tích canh tác 1,44 1,73 1,93 1,66
Diện tích lúa 1,41 1,56 1,77 1,60
Diện tích màu 0,03 0,17 0,01 0,05
Diện tích cây ăn trái 0,00 0,00 0,10 0,00
Diện tích nuôi thủy sản 0,00 0,00 0,04 0,00
Tổng diện tích 1,53 1,81 2,03 1,71
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng trong
việc lựa chọn sinh kế cho người dân bởi lẽ trong bất
kì loại hình sản xuất nào yếu tố con người luôn là
sự quan tâm hàng đầu. Số nhân khẩu mỗi hộ tập
trung trong khoảng 4 - 5 người trừ trường hợp các
hộ ở ngoài đê của tỉnh Đồng Tháp có đến 50% số
hộ chỉ có tối đa 3 thành viên (Bảng 3). Trong khi
đó lao động gia đình chỉ tập trung trong khoảng
1 - 2 người. Như vậy có thể thấy rằng lực lượng lao
động trong mỗi gia đình khá thấp. Dù vậy, sản xuất
lúa ở An Giang và Đồng Tháp hiện nay đã được cơ
giới hóa ở mức cao nên lực lượng lao động như trên
vẫn đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa của nông hộ.
84
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 3. Nguồn lực lao động sản xuất của nông hộ
Đặc điểm Cấp độ
An Giang Đồng Tháp
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Số nhân
khẩu
(người/hộ)
< 4 người 19,35 19,35 36,67 50,00
4 - 5 người 61,29 54,84 46,67 21,43
> 5 người 19,35 25,81 16,67 28,57
Số lao động
(người/hộ)
1 - 2 người 54,84 51,61 46,67 42,86
3 - 4 người 35,48 38,71 46,67 39,29
> 4 người 9,68 9,68 6,67 17,86
Số nguồn thu nhập của sản xuất lúa nông hộ ở
Đồng Tháp cao hơn ở An Giang với trên 20% số hộ
có hơn 2 nguồn thu nhập trong khi ở An Giang chỉ
có 6,5 - 13,0% (Bảng 4). Thu nhập từ lúa trung bình
(TB) của nông hộ sản xuất lúa vùng trong đê ở Đồng
Tháp là cao nhất với 95,67 triệu đồng/hộ, cao hơn
vùng sản xuất 2 vụ lúa ở Đồng Tháp và cao hơn cả
vùng sản xuất lúa 3 vụ ở An Giang. Ngoài lý do diện
tích lúa trung bình ở vùng này lớn hơn 3 vùng còn
lại thì vùng lúa 3 vụ ở An Giang trong thời điểm
điều tra, có đến 20% số hộ bị thiệt hại năng suất rất
nhiều trong vụ Đông Xuân và giá bán giảm (chỉ có
4.200 - 4.500 đồng/kg) dẫn đến lợi nhuận rất thấp.
Tổng thu nhập vùng trong đê ở Đồng Tháp tiếp tục
giữ vị trí cao nhất nhóm với 147,16 triệu đồng kế
đến là vùng ngoài đê của tỉnh này. Bên cạnh sản xuất
lúa đạt hiệu quả thì nông hộ vùng này có một số
nguồn thu cao khác như đi làm viên chức, trồng cây
ăn trái đã góp tỷ lệ khá lớn vào thu nhập nông hộ.
Tuy nhiên, nguồn thu nhập chính của nông hộ vẫn
tập trung từ nguồn sản xuất lúa, chiếm trên 60% ở
tất cả các điểm. Trong đó, đối với vùng sản xuất lúa
3 vụ trong đê ở An Giang chiếm đến 82,14% tổng
thu nhập.
Bảng 4. Sự đa dạng nguồn thu
và thu nhập ròng của nông hộ
Nội dung
An Giang Đồng Tháp
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Đa dạng
thu nhập
(%)
1 - 2 nguồn 93,55 87,10 73,33 78,57
> 2 nguồn 6,45 12,90 26,67 21,43
Số nguồn thu TB 1,39 1,77 2,10 2,07
Thu nhập ròng từ lúa TB
(triệu đồng/hộ) 50,92 42,36 95,67 58,28
Tổng thu nhập ròng TB
(triệu đồng/hộ) 61,99 61,95 147,16 91,46
Thu nhập từ lúa (%) 82,14 68,38 65,01 63,72
Vốn là yếu tố quan trọng có vai trò quyết định
trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mọi
đối tượng tham gia sản xuất. Kết quả khảo sát về
nguồn lực tài chính của nông hộ được thể hiện trong
hình 1 với trên 60% số hộ ở tất cả các điểm cho rằng
họ có đủ nguồn vốn sản xuất. Tỷ lệ hộ vay vốn cao
nhất thuộc vùng sản xuất không có đê bao chiếm
trên 50% số hộ trong khi tỷ lệ này chỉ khoảng 30% ở
vùng trong đê bao của cả hai tỉnh (Hình 1).
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế nông hộ
3.2.1. Yếu tố tự nhiên tác động đến sinh kế nông hộ
a) Xu hướng thay đổi của các yếu tố tự nhiên trong
tương lai
Trong sản xuất nông nghiệp, các yếu tố tự nhiên
giữ vai trò hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng trực
tiếp đến năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả
kinh tế của hoạt động sản xuất. Các yếu tố tự nhiên
bất lợi được người nông dân đánh giá ngày càng
nghiêm trọng hơn là: lũ sẽ thấp và ngắn hơn, mưa
bão thất thường, nhiệt độ cao hơn và dịch hại nhiều
hơn. Riêng nhóm hộ ở Đồng Tháp có tỷ lệ (%) số hộ
đánh giá môi trường nước bị ô nhiễm cao hơn nhóm
hộ ở An Giang (Hình 2).
Hình 1. Tình hình tài chính của nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
85
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Hình 2. Các yếu tố tự nhiên được đánh giá ngày càng xuất hiện nhiều hơn
b) Tác động sự thay đổi yếu tố tự nhiên đến sinh kế hộ
Kết quả về sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên
được trình bày trong bảng 5 thể hiện qua tỷ lệ %
nông hộ đánh giá mức độ ảnh hưởng hạn chế hay
thúc đẩy đối với hoạt động sinh kế, tỷ lệ (%) nông hộ
còn lại đánh giá không gây ảnh hưởng đến sinh kế sẽ
không đựợc trình bày trong bảng.
Diễn biến lũ trong thời điểm hiện tại có nhiều thay
đổi lớn và thất thường do ảnh hưởng bởi biến đổi khí
hậu, nước biển dâng, phát triển các công trình thủy
điện ở thượng nguồn và phát triển công trình thủy
lợi ở trong vùng ĐBSCL (Cấn Thu Văn và Nguyễn
Thanh Sơn, 2016; Tô Quang Toản và Tăng Đức
Thắng, 2013). Đối với hoạt động sinh kế của người
dân sản xuất lúa ở An Giang thì mực nước lũ thấp và
thời gian lũ thấp đã hạn chế đến các hoạt động sinh
kế của nông hộ nhiều hơn so với thúc đẩy. Đặc biệt là
với nhóm hộ ngoài đê vì họ nhận thấy rằng nước lũ
mang lại cho họ lợi ích về nguồn phù sa và thủy sản
tự nhiên. Khác với An Giang, các hộ đánh giá lũ giảm
gây hạn chế thì vẫn còn một số hộ đánh giá sẽ thúc
đẩy sinh kế của họ, nhóm hộ này ngoài diện tích sản
xuất lúa họ còn canh tác hoa màu và cây ăn trái do
đó lũ ngắn và thấp sẽ giúp các hoạt động sinh kế này
của họ an toàn hơn. Mưa lớn thất thường, hạn hán
và giông bão đều gây trở ngại đối với sản xuất nông
nghiệp nói chung ở tất cả các nhóm hộ.
Ô nhiễm nước và dịch hại được nhiều hộ đánh
giá ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sinh
kế. Vì nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất
và lợi nhuận sản xuất nông nghiệp của nông hộ và
đây là nguồn thu nhập chính của tất các nhóm hộ
được phỏng vấn với tỷ lệ hộ đồng ý từ 60 đến 95%
số hộ.
Bảng 5. Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến
sinh kế hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
ĐVT: % số hộ
Tác nhân Ảnh hưởng
An Giang Đồng Tháp
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Mực nước lũ
thấp
Hạn chế 35,71 23,53 8,70 9,52
Thúc đẩy 7,14 0,00 17,39 14,29
Thời gian lũ
ngắn
Hạn chế 16,67 26,67 11,11 34,62
Thúc đẩy 4,17 0,00 14,81 3,85
Mưa thất
thường Hạn chế 58,62 50,00 79,17 45,45
Lượng mưa
nhiều
Hạn chế 31,82 37,50 40,91 33,33
Thúc đẩy 9,09 6,25 4,55 5,56
Hạn hán Hạn chế 66,67 76,92 58,33 71,43
Giông bão Hạn chế 52,94 48,00 63,64 60,00
Nhiệt độ Hạn chế 63,16 60,00 73,33 53,85
Ô nhiễm
nước Hạn chế 64,29 64,71 67,86 60,74
Dịch hại Hạn chế 82,35 60,87 77,78 95,24
3.2.2. Yếu tố xã hội tác động đến sinh kế nông hộ
- Ở An Giang, phần lớn số hộ không nằm trong
vùng quy hoạch sản xuất lúa và không có hợp tác
xã và không được bao tiêu lúa sau khi thu hoạch.
Địa phương cũng chưa thực hiện xả lũ định kỳ đối
với vùng có đê bao. Trong vùng đã có hiện tượng di
cư lao động lên các khu công nghiệp và thành phố
lớn dẫn đến sự thiếu lao động trong các khâu như
cấy dặm và thu hoạch. Thị trường đầu vào tăng giá
và thị trường đầu ra bất ổn đã xuất hiện nhiều năm
và có xu hướng nghiêm trọng hơn ảnh hưởng đến
thu nhập người nông dân. Ngành nông nghiệp có
tập huấn sản xuất lúa nhưng các mô hình sản xuất
nông nghiệp mới chưa được phổ biến trong vùng.
86
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Hơn nữa, có khoảng 50 - 60% số hộ đánh giá cơ sở
hạ tầng như đường đê và kênh mương bị xuống cấp
(Hình 3).
- Ở Đồng Tháp, tỷ lệ nông hộ nằm trong vùng
quy hoạch sản xuất lúa cao hơn và đã tham gia các tổ
hợp tác và hợp tác xã sản xuất lúa. Trong đó, nhóm
hộ trong đê có tỷ lệ tham gia lên đến 87% và nhóm
hộ này cũng được giới thiệu về các mô hình sản xuất
mới với tỷ lệ cao hơn các nhóm còn lại. Đây cũng có
thể là điều kiện thúc đẩy thu nhập nông hộ ở nhóm
này đa dạng và cao hơn các nhóm còn lại. Trong khi
đó, nhóm hộ ngoài đê có đến 60% hộ được bao tiêu
lúa thương phẩm mặc dù chỉ sản xuất 2 vụ lúa/năm.
Ngoài ra, các yếu tố về thị trường và lao động cũng
tương tự như điều kiện sản xuất ở An Giang.
Hình 3. So sánh các yếu tố xã hội của An Giang và Đồng Tháp
- Điều kiện sản xuất ảnh hưởng sinh kế: Kết quả
khảo sát ở bảng 6 cho thấy có những yếu tố được
đánh giá tác động tích cực hoặc không ảnh hưởng
đến sinh kế của nông hộ như việc tham gia hợp tác
xã, việc được tập huấn và giới thiệu các mô hình
sản xuất mới. Ngược lại, yếu tố thiếu lao động và thị
trường bất ổn được đánh giá gây hạn chế cho sinh kế
nông hộ cao do sản xuất nông nghiệp đặc biệt là trên
cây lúa có hiệu quả kinh tế tương đối thấp. Bên cạnh
đó, các yếu tố còn lại thu được ý kiến trái chiều từ kết
quả điều tra như:
+ Không quy hoạch: Một số nông dân đánh giá
không quy hoạch vùng sản xuất sẽ làm khó đầu tư tập
trung, mâu thuẫn trong sản xuất và khó cơ giới hóa,
ngược lại không nằm trong vùng quy hoạch giúp dễ
dàng đa dạng sản xuất và thực hiện các mô hình hiệu
quả hơn như trồng hoa màu hoặc cây ăn trái.
+ Đê bao kín: Trong vùng có đê bao thì có nhóm
hộ đánh giá đê bao kín giúp tăng vụ lúa, trồng cây
lâu năm, nuôi thủy sản nhưng có những hộ đánh giá
đê bao kín lâu năm dẫn đến đất đai cằn cỗi, tăng chi
phí sản xuất lúa ảnh hưởng đến thu nhập.
+ Xả lũ: Hiện nay nhiều vùng có đê bao kín vẫn
không thực hiện xả lũ định kỳ do có sự mâu thuẫn về
lợi ích của các nhóm hộ. Trong khi một số hộ chỉ sản
xuất lúa sẵn sàng bỏ một vụ lúa sau 2 năm sản xuất
liên tục thì nhóm hộ có diện tích trồng cây ăn trái
hoặc hoa màu có giá trị cao không chấp nhận đưa
nước lũ vào làm ảnh hưởng đến cây trồng của họ
(nhóm này chiếm đến 22 - 33% ở tỉnh Đồng Tháp).
+ Di cư lao động cũng có ý kiến trái chiều ở các
điểm nghiên cứu. Trong khi một số hộ cho rằng di
cư lao động làm cho lực lượng lao động địa phương
thiếu và chi phí lao động tăng thì các hộ khác lại
đánh giá nó mang lại yếu tố tích cực vì bên cạnh sản
xuất lúa không đạt hiệu quả kinh tế cao thì nguồn
thu nhập từ làm thuê và di cư lên các nhà máy và
thành phố lớn cũng đem lại nguồn thu nhập khác
cho nông hộ nhất là khi hầu hết các khâu trong sản
xuất lúa đều được cơ giới hóa.
+ Đầu vào tăng thường là yếu tố gây bất lợi cho
sản xuất nông nghiệp nên phần lớn hộ đánh giá nó
gây hạn chế cho nguồn thu nhập, tuy nhiên vẫn có
số ít hộ đánh giá nó có mặt tích cực đó là chất lượng
và hiệu quả tăng hơn so với trước đây giúp tăng năng
suất cây trồng so với trước đây.
+ Không bao tiêu sản phẩm được 24 - 38% số hộ
đánh giá hạn chế hoạt động sản xuất nông nghiệp
vì giá bán không ổn định và gặp rủi ro khi sản xuất.
Họ cho rằng việc bao tiêu sản phẩm sẽ được đầu
tư nguồn vật tư đầu vào, tư vấn kỹ thuật nhiều hơn
nên năng suất và giá bán tăng lên. Tuy nhiên, vẫn có
10 - 20% nông dân Đồng Tháp cho rằng không được
bao tiêu thì có thể chủ động lựa chọn thương lái và
giá bán hơn so với đã ký kết vào hợp đồng.
87
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 6. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sinh kế
nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
ĐVT: % số hộ
Tác nhân Ảnh hưởng
An Giang Đồng Tháp
Trong
đê
Ngoài
đê
Trong
đê
Ngoài
đê
Không quy
hoạch
Hạn chế 3,70 10,00 16,67 0,00
Thúc đẩy 0,00 5,00 16,67 21,05
Đê bao kín
Hạn chế 37,50 0,00 27,59 0,00
Thúc đẩy 12,50 0,00 37,93 0,00
Không xả lũ
Hạn chế 31,82 4,55 37,04 0,00
Thúc đẩy 9,09 0,00 22,22 0,00
Di cư LĐ
Hạn chế 22,22 0,00 37,50 40,00
Thúc đẩy 27,78 57,14 50,00 26,67
Đầu vào
tăng
Hạn chế 54,17 66,67 53,33 62,50
Thúc đẩy 8,33 3,70 13,33 6,25
Thị trường
bất ổn Hạn chế 53,57 57,14 87,50 83,33
Tập huấn Thúc đẩy 77,78 81,48 76,00 100,00
MH mới Thúc đẩy 69,23 90,91 60,00 8,33
Hợp tác xã Thúc đẩy 33,33 40,00 52,00 66,70
Không bao
tiêu
Hạn chế 24,14 25,00 38,10 27,27
Thúc đẩy 0,00 0,00 19,05 9,09
Hạ tầng
xuống cấp Hạn chế 46,15 50,00 75,00 60,00
Thiếu LĐ
thuê Hạn chế 22,22 4,17 59,09 38,10
- Điều kiện sản xuất của nông hộ ảnh hưởng kết
quả sinh kế của nông hộ được trình bày ở bảng 7.
Bảng 7. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sinh kế
của nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
Các yếu tố
Hệ số
hồi quy
(B)
Sai số
chuẩn
Trị số
Wald
Mức ý
nghĩa
Exp
(B)
Có đê bao
kín 1,528 0,639 5,728 0,017 0,217
Sức khỏe
chủ hộ 1,912 0,798 5,741 0,017 0,148
Số nguồn
thu nhập 0,953 0,321 8,824 0,003 2,595
Thiếu vốn
sản xuất -3,349 0,955 12,289 0,008 0,035
Diện tích
đất 0,574 0,253 5,157 0,023 1,775
Bao tiêu
sản phẩm 1,125 0,383 8,609 0,003 0,325
Hằng số 8,691 2,963 8,603 0,003 5946,2
Ghi chú: Exp (B): Khoảng tin cậy của hệ số B.
+ Đê bao kín (1 = không, 2 = có): Vùng sản xuất
trong đê bao vẫn mang lại nhiều cơ hội tăng thu
nhập hơn so với ngoài đê vì hiện nay mặc dù sản
xuất lúa 3 vụ được đánh giá có xu hướng giảm năng
suất tuy nhiên vẫn cao hơn so với 2 vụ lúa ở vùng
nghiên cứu. Bên cạnh đó, vùng trong đê bao có thể
tăng nguồn thu từ việc đa dạng sản xuất hơn với
diện tích cây ăn trái ngày càng tăng.
+ Sức khỏe chủ hộ (1 = kém, 2 = TB, 3 = tốt): Sức
khỏe chủ hộ tương quan thuận với hiệu quả sản xuất
của hộ. Sức khỏe tốt ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng tiếp cận thông tin, quản lý sản xuất, giảm chi
phí thuê lao động do đó ảnh hưởng tích cực đến điều
kiện kinh tế nông hộ.
+ Số nguồn thu nhập (số nguồn): Sự đa dạng sinh
kế nông nghiệp có tương quan thuận với điều kiện
tài chính của nông hộ. Các nguồn thu nhập cao từ
trồng cây ăn trái, trồng hoa màu, làm thuê, làm công
chức góp phần gia tăng thu nhập nông hộ trong khi
vẫn có thể đảm bảo hoạt động sản xuất lúa hiệu quả.
+ Thiếu vốn sản xuất (1 = không, 2 = có): thiếu
vốn sản xuất cũng tương quan nghịch với hiệu quả
sản xuất của nông hộ. Đây là yếu tố quyết định khả
năng đầu tư cho sản xuất của nông hộ và sẽ mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn.
+ Diện tích đất canh tác (ha): Diện tích đất canh
tác tỷ lệ thuận với điều kiện tài chính của nông hộ.
Diện tích đất càng lớn thì thu nhập từ sản xuất nông
nghiệp càng cao, nhất là khi sản xuất đạt hiệu quả cao.
+ Bao tiêu sản phẩm (1 = không, 2 = có): Bao tiêu
sản phẩm tương quan thuận với kết quả sinh kế cho
thấy việc bao tiêu lúa ở An Giang và Đồng Tháp đã
mang lại hiệu quả hổ trợ cho hiệu quả sản xuất lúa
khi giá bán oone định và cao hơn giá thị trường
IV. KẾT LUẬN
Nông hộ sản xuất lúa ở An Giang và Đồng Tháp
đều có những đặc điểm tương tự như: số nhân khẩu
khoảng 4 - 5 người nhưng lực lượng lao động thấp
tập trung trong khoảng 1 - 2 người; không có sự đa
dạng nguồn thu nhập; thu nhập từ sản xuất lúa còn
thấp so với diện tích đất canh tác và chiếm tỷ trọng
cao nhất; tỷ lệ và số tiền vay vốn của vùng ngoài đê
cao hơn vùng trong đê, chủ yếu phục vụ sản xuất
nông nghiệp và trên 65% số hộ đủ vốn sản xuất,
vùng sản xuất trong đê của Đồng Tháp có thu nhập
trung bình hộ cao nhất và có sự đa dạng thu nhập
hơn các vùng còn lại.
88
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến sinh kế của
nông hộ bao gồm thành lập hợp tác xã, tập huấn
sản xuất, hướng dẫn các mô hình sản xuất mới, Tuy
nhiên, có rất nhiều yếu tố hạn chế các hoạt động
sinh kế của nông hộ bao gồm: 1) Sự diễn biến thời
tiết bất thường do biến đổi khí hậu như: mưa bão
thất thường, mùa khô kéo dài, nhiệt độ tăng, dịch
hại phát triển; 2) Thị trường đầu vào và đầu ra bất
ổn, thiếu lao động, không bao tiêu. Ngoài ra vẫn có
các yếu tố tác động trái chiều đến hoạt động sinh
kế của nông hộ do mâu thuẫn về lợi ích như: quy
hoạch, đê bao kín, xả lũ. Khả năng của nông dân đạt
được sinh kế bền vững, đặc biệt trong sản xuất lúa, bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố liên quan đến điều kiện
nông hộ như tình hình sức khỏe người lao động, sự
đa dạng nguồn thu nhập. Hộ nông dân có diện tích
lớn, đủ vốn sản xuất hơn có điều kiện sinh kế tốt hơn
so với hộ nghèo và diện tích nhỏ hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Duy Cần và Vromant, N., 2009. PRA - Đánh
giá nông thôn với sự tham gia của người dân. NXB
Nông nghiệp, Hà Nội, trang 55.
Phạm Ngọc Nhàn, 2018. So sánh hiệu quả tài chính của
mô hình canh tác 2 lúa - 1 màu với 3 lúa tại tỉnh Hậu
Giang. Tạp chí Khoa học và Phát triển nông thôn, số
12: 99-105.
Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Thị Ngọc Dung, 2014.
Yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế và giải pháp sinh kế
bền vững cho người dân vùng lũ tỉnh An Giang. Tạp
chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. Phần D:
Khoa học Chính trị, Kinh tế và Pháp luật, số 31: 39-45.
Tô Quang Toản và Tăng Đức Thắng, 2013. Nghiên cứu
đánh giá thay đổi thủy văn dòng chảy về châu thổ Mê
Kông qua chuỗi số liệu lịch sử từ năm 1924 đến nay.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Thủy lợi, số 19: 13-19.
Cấn Thu Văn và Nguyễn Thanh Sơn, 2016. Nghiên cứu
mô phỏng thủy văn, thủy lực vùng Đồng bằng sông
Cửu Long để đánh giá ảnh hưởng của hệ thống đê
bao đến sự thay đổi dòng chảy mặt vùng Đồng Tháp
Mười. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học
Trái đất và Môi trường, số 32 (3S): 256 -263.
Le Canh Dung, Vo Van Tuan, Vo Van Ha and Dang
Kieu Nhan, 2012. Analysis of farming systems and
socio-economic settings in rice farming households
in the Mekong Delta. A working report of the
Climate Change Affecting Land Use in the Mekong
Delta: Adaptation of Rice-based Cropping Systems
(CLUES).
Factors affecting rice production farmers’ livelihoods
in An Giang and Dong Thap
Lam Thanh Si, Nguyen Hong Tin
Abstract
The study was conducted to identify factors affecting the livelihoods of rice production farmers in An Giang and
Dong Thap provinces. Semi-structured interviews (farm households and technicians), descriptive statistical tools,
Binary Logistic regression models were used for assessing the status and analyzing the factors affecting farmers’
livelihoods. The research results showed that the resources of rice farming households were still limited; with
the most prominent being the lack of labors (1 - 2 labors/household), low income and not diversified income
(1 - 2 sources). The farmers in the dyke area in Dong Thap had the highest household income of 147.16 million
VND/year and more diversified income than others. Many factors were negatively affect the livelihoods of households
such as climate change, pest increase, high input prices, low output prices, lack of labor, and product underwriting.
In particular, in the dike area there was a conflict of interest between the rice farmers and the perennial crop groups
regarding flood management.
Key words: Climate change, flood area, livelihoods, rice production
Ngày nhận bài: 19/4/2020
Ngày phản biện: 17/5/2020
Người phản biện: TS. Đoàn Mạnh Tường
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_yeu_to_anh_huong_den_sinh_ke_nong_ho_san_xuat_lua_o_an_g.pdf