Quy định liên quan đến Hội thẩm
nhân dân
Hội thẩm tham gia xét xử trong các
phiên tòa hình sự nhằm bảo đảm nguyên
tắc xét xử có đại diện của nhân dân tham
gia. Tuy nhiên, do Hội thẩm chỉ tham gia
vào “quá trình xét xử” mà không tham gia
vào “quá trình chuẩn bị xét xử”, cộng với
thực trạng về chuyên môn, kinh nghiệm và
kỹ năng xét xử của Hội thẩm còn hạn chế,
nên Hội thẩm không thể nắm chắc được nội
dung vụ án và các vấn đề mấu chốt của vụ
án về cả khía cạnh tình tiết lẫn pháp luật áp
dụng. Điều đó làm cho Hội thẩm khó có
khả năng độc lập với Thẩm phán và việc
tham gia của Hội thẩm nhiều khi “để đủ
thành phần, có tính hình thức”, chứ chưa
thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân.
Bên cạnh đó, vì Hội thẩm gần như
không phải chịu bất kỳ trách nhiệm hành
chính nào liên quan đến chất lượng xét xử,
thậm chí, khi phát hiện án oan sai do xét xử
thì việc xử lý trách nhiệm đối với Hội thẩm
là rất khó khăn, không giống như đối với
Thẩm phán nên Hội thẩm có thể bị các áp
lực khác tác động, cám dỗ, khiến họ không
độc lập khi tham gia xét xử.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập của tòa án ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin Khoa học xã hội, số 2.201812
(*) TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Email:
truongthutrangissi@yahoo.com
(**) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; Email:
nguyenhodiep2000@yahoo.com
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập của tòa án
ở Việt Nam hiện nay
Trương Thị Thu Trang(*)
Nguyễn Thị Hồ Điệp(**)
Tóm tắt: Độc lập của tòa án là một thuộc tính không thể thiếu của tòa án tại bất kỳ
quốc gia nào. Tuy nhiên, mức độ độc lập của tòa án chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
liên quan đến tổ chức và hoạt động của tòa án. Bài viết tập trung phân tích về tư pháp
độc lập, sự độc lập của tòa án và các yếu tố ảnh hưởng đến sự độc lập của tòa án ở Việt
Nam hiện nay.
Từ khóa: Tòa án, Quyền tư pháp, Tư pháp độc lập, Việt Nam
Abstract: In any country, court independence is an indispensable attribute. However, the
independence of the court shall be aff ected by factors that related to its organization and
operation. This paper focuses on judicial independence, the independence of the courts
and the factors that aff ect the independence of the courts in Vietnam today.
Keywords: Court, Judicial Power, Independent Judiciary, Vietnam
1. Tư pháp độc lập và sự độc lập của tòa án
Theo Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên
tắc độc lập tư pháp, “Độc lập tư pháp có
nghĩa là: a) Cơ quan tư pháp quyết định
những vấn đề thuộc thẩm quyền dựa trên
sự đánh giá khách quan của mình về các sự
kiện của vụ án và trình độ hiểu biết pháp
luật của mình mà không chịu sự tác động
sai trái, trực tiếp hay gián tiếp của bất kỳ cá
nhân, tổ chức, hay cơ quan nào; b) Cơ quan
tư pháp có thẩm quyền giải quyết trực tiếp
hoặc xem xét lại đối với tất cả những vấn đề
mang tính chất tư pháp”(*). Việc duy trì tính
độc lập của cơ quan tư pháp là cần thiết để
đạt được mục tiêu và thực hiện đúng chức
năng của cơ quan tư pháp trong một xã hội
tự do và tôn trọng pháp quyền.
Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư
pháp. Nếu tòa án không độc lập thì quyền
(*) Xem: Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc độc
lập tư pháp (được thông qua bởi Chánh án Tòa án
tối cao của 20 nước, trong đó có Việt Nam, ngày
19/8/1995 tại Hội nghị của Chánh án Tòa án tối cao
khu vực châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 6 tổ
chức tại Bắc Kinh. Tuyên bố này được chỉnh lý tại
Hội nghị lần thứ 7 tổ chức tại Manila, Philippines
tháng 8/1997), mục 3,
tal/pls/portal/!PORTAL.wwpob_page.show?_doc-
name=6562798.HTM
Các yếu tố ảnh hưởng 13
lực tư pháp không được thực hiện một cách
độc lập. Theo văn kiện Các nguyên tắc cơ
bản về tính độc lập của tòa án năm 1985(*),
tính độc lập của tòa án thể hiện ở các nội
dung sau:
“1. Tính độc lập của tòa án phải được
nhà nước bảo đảm và được ghi nhận chính
thức trong hiến pháp hay pháp luật quốc gia.
Nhiệm vụ của tất cả các cơ quan của chính
phủ và những cơ quan khác là phải tôn trọng
và tuân thủ tính độc lập của tòa án.
2. Tòa án phải quyết định các vấn đề
một cách vô tư, không thiên vị dựa trên sự
việc và theo luật pháp mà không chịu những
hạn chế, những ảnh hưởng không phù hợp,
dụ dỗ, sức ép, đe dọa hay can thiệp sai trái,
trực tiếp hay gián tiếp từ bất cứ một nguồn
nào hay vì bất cứ một lý do nào.
3. Tòa án phải có quyền tài phán đối
với mọi vấn đề có tính chất xét xử và phải
có quyền lực riêng để quyết định xem một
vấn đề được trình lên tòa án có thuộc thẩm
quyền của tòa theo như luật pháp quy định
hay không.
4. Không được can thiệp không thỏa
đáng hay không có lý do xác đáng vào quá
trình xét xử, cũng như không được xét lại
các phán quyết của tòa án. Nguyên tắc này
không ảnh hưởng đến quá trình xét xử phúc
thẩm hay việc các cơ quan có thẩm quyền
giảm nhẹ các bản án mà tòa án đã tuyên phù
hợp với luật pháp.
5. Mọi người đều có quyền được xét xử
bởi các tòa án thông thường sử dụng những
thủ tục pháp lý đã được ấn định. Tòa án nào
không sử dụng những thủ tục đã được ấn định
một cách hợp lệ trong quá trình xét xử sẽ không
được thiết lập để thay thế quyền tài phán của
tòa án hoặc cơ quan xét xử thông thường.
6. Nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án
cho phép và yêu cầu tòa án bảo đảm rằng
các thủ tục xét xử đều được tiến hành một
cách đúng đắn và quyền của các bên đều
được tôn trọng.
7. Nhiệm vụ của mỗi quốc gia thành
viên là phải cung cấp đầy đủ các nguồn lực
để ngành tòa án có thể thực hiện tốt những
chức năng của mình”.
Như vậy, sự độc lập của tòa án thể hiện
ở ba khía cạnh chính: (i) Tòa án phải độc lập
về mặt thể chế, nghĩa là phải có hệ thống
tổ chức và với những quy chế hoạt động
riêng; (ii) Tòa án phải có hành chính nội bộ
riêng; (iii) Quyết định của tòa án không bị sự
can thiệp của các chủ thể khác, nghĩa là tòa
án độc lập với các cơ quan quyền lực, các cơ
quan, tổ chức, cá nhân bên ngoài ngành tòa
án, và có sự độc lập giữa các tòa án với nhau.
Đồng thời, sự độc lập của tòa án bao hàm ý
nghĩa là một cơ quan xét xử nói chung và
sự độc lập của các thành viên Hội đồng xét
xử (Thẩm phán, Hội thẩm/Bồi thẩm) với ý
nghĩa là những thành tố làm nên sự độc lập
trong hoạt động xét xử của tòa án.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm
cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (Xem:
Quốc hội, 2013, Điều 105, khoản 2).
2. Các yếu tố tác động đến sự độc lập của
tòa án ở Việt Nam
Trên thực tế, do tổ chức và hoạt động
của tòa án luôn có mối quan hệ với các cơ
(*) Xem: Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của
tòa án năm 1985 (được thông qua tại Hội nghị Liên
Hợp Quốc lần thứ 7 về Phòng chống tội phạm và
đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Milan từ ngày
26/8 đến 6/9/1985, sau đó được thông qua bằng Nghị
quyết 40/32 ngày 29/11/1985 và Nghị quyết 40/146
ngày 13/12/1985 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc),
mục Tính độc lập của tòa án, https://thuvienphaplu-
at.vn/van-ban/Linh-vuc-khac/Nguyen-tac-co-ban-
ve-tinh-doc-lap-cua-toa-an-1985-275836.aspx
Thông tin Khoa học xã hội, số 2.201814
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp khác
cũng như giữa các tòa án cũng có mối quan
hệ với nhau nên sự độc lập của tòa án chịu
ảnh hưởng bởi một số yếu tố nhất định. Ở
Việt Nam, có thể nêu một số yếu tố ảnh
hưởng đến sự độc lập của tòa án nói chung
và sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân nói riêng gồm:
Cách thức tổ chức và quản lý tòa án
Cách thức tổ chức hệ thống tòa án có
tác động mạnh mẽ đến sự độc lập của tòa
án bởi nó thể hiện mối quan hệ giữa tòa án
với các cơ quan ngoài tòa án và trong nội
bộ tòa án.
Trong quan hệ giữa tòa án với cơ quan
hành pháp, chính quyền địa phương có vai
trò quản lý hành chính trên phạm vi địa
phương về những lĩnh vực như đất đai, xây
dựng, trật tự công cộng,... sẽ ít nhiều ảnh
hưởng đến hoạt động hành chính của tòa
án ở địa phương đó. Mặc dù, chính quyền
địa phương không có thẩm quyền quyết
định về tổ chức và nhân sự của tòa án địa
phương nhưng cấp ủy địa phương lại có vai
trò quan trọng trong công tác tổ chức và
cán bộ của các cơ quan địa phương, trong
đó có tòa án. Lãnh đạo các cơ quan hành
pháp thường nắm giữ các cương vị lãnh đạo
trong tổ chức Đảng (ví dụ: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện thường là Phó bí thư
huyện ủy hoặc Ủy viên thường vụ huyện
ủy), trong khi tòa án chịu sự lãnh đạo của
tổ chức Đảng đó. Do vậy, về mặt tổ chức
trong hệ thống Đảng thì Thẩm phán lại có
thể là “cấp dưới” của những người lãnh đạo
cơ quan hành pháp.
Thực tế giải quyết các vụ án hành
chính đã cho thấy sự lệ thuộc của tòa án địa
phương đối với chính quyền địa phương.
Mặc dù, thẩm quyền của tòa án đối với các
vụ kiện hành chính đã ngày càng được mở
rộng nhưng số lượng các khiếu kiện hành
chính vẫn rất ít. Năm 2017, số lượng các
vụ kiện hành chính là 21.613 vụ, chỉ chiếm
4,3% tổng số vụ kiện các loại được thụ lý
là 499.918 (Xem: Tòa án nhân dân tối cao,
Ϭ
ϱ
ϭϬ
ϭϱ
ϮϬ
Ϯϱ
ϯϬ
ϯϱ
ϰϬ
ϰϱ
ϱϬ
&iFWKjQKYLrQ
NKiFFӫD+ӝL
ÿӗQJ[pW[ӱ
+Ĉ;;
/mQKÿҥRWҥLWRj
iQFӫDĈӗQJFKt
&iFFѫTXDQ
OLrQQJjQKWӕ
WөQJ
7ӍQKӫ\7KjQK
ӫ\
Ӫ\EDQQKkQ
GkQWӍQKWKjQK
SKӕ
9LӋQ.LӇPVRiW
WӍQKWKjQKSKӕ
7KҭPSKiQKRһF
OmQKÿҥRӣWzD
iQFҩSFDRKѫQ
+uQK7UDRÿәLYӅÿѭӡQJOӕLJLҧLTX\ӃWYөiQSKkQWKHRORҥLiQ
FӫDWKҭPSKiQFҩSWӍQK
+uQKVӵ 'kQVӵ 7KѭѫQJPҥL +{QQKkQJLDÿuQK /DRÿӝQJ +jQKFKtQK
Nguồn: UNDP (2014), Báo cáo khảo sát thực trạng quản lý hành chính tòa án nhân dân địa phương
ở Việt Nam,
local_court_governance_in_viet_nam/
Các yếu tố ảnh hưởng 15
2017). Một trong những nguyên nhân lý
giải việc này là người dân còn ngần ngại
đệ đơn kiện các cơ quan hành chính nhà
nước khi họ chưa thật sự tin tưởng vào khả
năng, hiệu quả giải quyết vụ án hành chính
và sự độc lập của Thẩm phán đối với những
người bị kiện (thường là Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các cấp, thủ trưởng các sở, ban,
ngành,...).
Như vậy, về mặt pháp lý, tòa án không
lệ thuộc vào cơ quan hành pháp nhưng, trên
thực tế, tòa án chưa thực sự độc lập với cơ
quan hành pháp.
Số liệu của một khảo sát (hình 1) cho
thấy, tỷ lệ trao đổi đường lối giải quyết vụ
án với các thành viên khác của Hội đồng
xét xử và với lãnh đạo tại tòa án của Thẩm
phán đều ở mức cao đối với tất cả các loại
án hình sự, dân sự, thương mại, hôn nhân
gia đình, lao động và hành chính. Việc trao
đổi đường lối giải quyết vụ án với các cơ
quan lập pháp và tư pháp khác tuy không
nhiều nhưng vẫn xảy ra ở tất cả các loại án.
Điều đó cho thấy, vẫn có sự tác động đáng
kể của các cơ quan trong và ngoài tòa án
đối với hoạt động xét xử của tòa án.
Ngoài ra, “kinh phí hoạt động của
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương do Chính phủ trình Quốc
hội quyết định sau khi thống nhất với Tòa
án nhân dân tối cao. Trường hợp Chính
phủ và Tòa án nhân dân tối cao không
thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động
của Tòa án nhân dân thì Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kiến nghị Quốc hội xem
xét, quyết định” (Xem: Quốc hội, 2014,
Điều 96, khoản 1). Điều này cũng có thể
dẫn đến sự lệ thuộc của tòa án đối với
Chính phủ và Quốc hội.
Về mối quan hệ giữa các cấp tòa án
Thực tế cho thấy, việc tòa án cấp trên
căn cứ vào số lượng án bị hủy hoặc sửa của
Thẩm phán khi xem xét việc tái bổ nhiệm
thẩm phán tạo ra sự lệ thuộc của tòa án và
Thẩm phán cấp dưới đối với tòa án cấp
trên. Để tránh số lượng án phải sửa hoặc
hủy, không loại trừ khả năng thẩm phán,
tòa án cấp dưới xin ý kiến chỉ đạo của tòa
án cấp trên hoặc “vận động” tòa án, Hội
đồng xét xử của tòa án cấp trên không sửa
hoặc hủy án của mình.
Mặc dù, ngành tòa án đã hủy bỏ mọi
quy định về “thỉnh thị” án nhưng trên thực
tế, hiện tượng này vẫn còn tồn tại. Hay nói
cách khác, sự độc lập của tòa án nói chung
và thẩm phán nói riêng vẫn chịu ảnh hưởng
bởi quan hệ giữa các cấp tòa án.
Quy định về trách nhiệm chứng minh
tội phạm
Theo quy định của pháp luật, trong
giải quyết các vụ án hình sự, tòa án cùng
với các cơ quan tiến hành tố tụng khác có
trách nhiệm chứng minh tội phạm. Chính
quy định này ít nhiều tác động đến tính
độc lập của tòa án khi xét xử. Quy định
trên đã trực tiếp đặt trách nhiệm cho tòa
án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra là
phải “chứng minh tội phạm”. Bởi vì đây
là trách nhiệm nên tòa án phải có gắng để
hoàn thành trách nhiệm. Do có cùng trách
nhiệm, nên vô hình trung, tòa án bị đẩy về
cùng một phía với Viện kiểm sát, cơ quan
có chức năng buộc tội bị cáo. Điều này
dẫn đến thực trạng là tòa án sẽ không độc
lập mà sẽ có xu hướng nghiêng về phía
buộc tội. Đối với tòa án, khi xét xử, không
chỉ dựa trên những chứng cứ, hồ sơ của
các cơ quan tiến hành tố tụng khác cung
cấp để xem xét bị cáo có tội hay không
mà, nếu như tòa án thực sự độc lập không
mang trên vai trách nhiệm chứng minh tội
Thông tin Khoa học xã hội, số 2.201816
phạm, còn phải xem xét xem những chứng
cứ đó có khách quan, đúng luật và đầy đủ
để kết tội bị cáo hay không. Nghĩa là tòa
án phải phán xét cả hai phía, phán xét bị
cáo và phán xét chứng cứ do cơ quan điều
tra cung cấp.
Quy trình lựa chọn, bổ nhiệm, nhiệm
kỳ của Thẩm phán; chế độ công vụ đối với
Thẩm phán
Chế độ tiến cử, tuyển chọn và bổ nhiệm
Thẩm phán có ý nghĩa quan trọng đối với
sự độc lập của Thẩm phán. Một quy trình
đề cử và tuyển chọn tốt sẽ cho phép chọn
được những ứng viên xuất sắc nhất và loại
trừ hoặc giảm bớt sự thiên vị mang tính
chính trị hoặc cảm tính trong quá trình bổ
nhiệm Thẩm phán.
Theo Luật Tổ chức tòa án nhân dân
năm 2014, ứng viên Thẩm phán được lựa
chọn bởi Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
gồm Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán tòa
án nhân dân tối cao; Hội đồng tuyển chọn
Thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh và Hội
đồng tuyển chọn Thẩm phán tòa án nhân
dân cấp huyện. Cơ cấu, thành phần tham
gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán sơ
cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao
cấp gồm Chánh án Tòa án nhân tối cao làm
Chủ tịch; 1 Phó Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng,
Bộ Nội vụ là ủy viên. Danh sách ủy viên
Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ
cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao
cấp do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
quyết định (Xem: Quốc hội, 2014, Điều 73,
khoản 1). Như vậy, quy định này có thể dẫn
đến ảnh hưởng của Chánh án đối với Thẩm
phán. Hơn nữa, Luật Tổ chức tòa án nhân
dân năm 2014 lại không quy định cụ thể
trình tự tuyển chọn từ giai đoạn tiến cử các
ứng viên và các bước lấy ý kiến. Thực tế,
quy trình tiến cử ứng viên làm Thẩm phán
là do lãnh đạo tòa án giới thiệu khiến cho
Thẩm phán khi được bổ nhiệm có quan hệ
lệ thuộc hơn vào lãnh đạo tòa án. Đồng
thời, việc phải có bản nhận xét của lãnh
đạo đơn vị, ý kiến của tập thể cán bộ, nhân
viên nơi ứng viên công tác cũng có thể ảnh
hưởng đến sự độc lập của Thẩm phán trong
quá trình xét xử sau này bởi lẽ xét về hình
thức thì quy định này được coi là công khai,
dân chủ, khách quan, nhưng mặt trái của nó
lại dễ tạo nên tình trạng “tranh thủ”, “dĩ hòa
vi quý” hoặc cơ hội của một số Thẩm phán,
tức là ảnh hưởng đến sự độc lập của Thẩm
phán khi xét xử.
Nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng là một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự độc
lập của Thẩm phán khi xét xử. Nếu nhiệm
kỳ của Thẩm phán ngắn thì họ phải chú ý
nhiều hơn tới việc tái bổ nhiệm. Điều 74
Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014
quy định: “Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm
phán là 5 năm; trường hợp được bổ nhiệm
lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm
phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10
năm”. Quy định này được nhiều ý kiến
nhận định là một cải cách quan trọng, giúp
Thẩm phán bớt áp lực mỗi khi chuẩn bị
bổ nhiệm lại như quy định nhiệm kỳ luôn
luôn là 5 năm như trước đây. Song, cũng
có ý kiến cho rằng việc quy định nhiệm
kỳ như hiện nay xuất phát từ quan điểm
nghiêng về kiểm soát công tác xét xử và
trách nhiệm, chưa tính đến yếu tố bảo đảm
sự độc lập của Thẩm phán (Quản Thị Ngọc
Thảo, 2016).
Các nội dung quy định liên quan đến
chế độ công vụ của Thẩm phán như: lương
bổng, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm
cũng có thể ảnh hưởng đến sự độc lập
của Thẩm phán. Theo quy định hiện nay,
Tòa án nhân dân tối cao áp dụng 5 bảng
lương, trong đó Chánh án áp dụng bảng
Các yếu tố ảnh hưởng 17
lương chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo của
Nhà nước quy định hai bậc lương; Thẩm
phán, Thẩm tra viên và Thư ký tòa án dùng
bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngành
Tòa án, Kiểm sát. Còn cán bộ, công chức
không giữ chức danh tư pháp dùng bảng
lương chuyên môn nghiệp vụ như công
chức cơ quan hành chính. Công chức, viên
chức giữ chức vụ lãnh đạo trong Tòa án
nhân dân tối cao được hưởng mức phụ
cấp từ 0,2 đến 1,3. Phụ cấp trách nhiệm
đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên và Thư
ký tòa án là 15-30%. Theo thống kê vào
tháng 7/2017, thu nhập bình quân tại Tòa
án nhân dân tối cao tính theo lương là 5,85
triệu đồng mỗi tháng và tại Học viện Tòa
án là 3,6 triệu đồng mỗi tháng (Dẫn theo:
Thái Vũ, 2017). Mức lương của Tòa án cấp
dưới, nhất là Tòa án cấp huyện, vốn đông
đảo nhất thì còn thấp hơn nữa. Lao động
của Thẩm phán là loại lao động đặc thù,
nên họ cần mức lương đủ sống để họ được
công tâm làm việc, giữ gìn phẩm chất đạo
đức và ý chí bảo vệ công lý như pháp luật
trao cho. Mức lương thấp làm cho Thẩm
phán dễ bị tác động, bị cám dỗ hoặc tham
nhũng khi tiến hành tố tụng.
Về việc miễn nhiệm Thẩm phán,
Thẩm phán đương nhiên được miễn nhiệm
khi nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác
khác. Hoặc, Thẩm phán có thể được miễn
nhiệm do sức khỏe, do hoàn cảnh gia đình
hoặc vì lý do khác mà xét thấy không thể
bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao
(Xem: Quốc hội, 2014, Điều 81). Các
quy định về căn cứ miễn nhiệm Thẩm
phán còn chung chung nên có thể dẫn đến
sự áp dụng tùy nghi của người có thẩm
quyền. Ngoài ra, Thẩm phán là công chức
nên các quy định về khen thưởng, xử lý
kỷ luật công chức cũng được áp dụng với
Thẩm phán. Điều này có thể dẫn đến sự
lệ thuộc của Thẩm phán đối với lãnh đạo
tòa án.
Mức độ vô tư, khách quan và liêm
chính của Thẩm phán
Thẩm phán không vô tư và khách quan
đồng nghĩa với việc Thẩm phán không độc
lập với chính lương tâm mình. Sự độc lập
của Thẩm phán có thể bị lạm dụng vì những
động cơ cá nhân để trở nên thiếu vô tư và
khách quan khi xét xử. Thẩm phán có thể
độc lập xét xử nhưng vẫn tham nhũng và
nhận hối lộ.
Trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm
giải trình trong hoạt động xét xử của Thẩm
phán
Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, về
trách nhiệm bồi thường trong tố tụng hìn h
sự, Tòa án có trách nhiệm bồi thường và
Thẩm phán, Hội thẩm có trách nhiệm bồi
hoàn. Quy định như vậy làm tăng thêm
gánh nặng “tâm lý” cho Tòa án và Thẩm
phán, Hội thẩm khi họ lo sợ về khả năng
bị phán xét theo hướng “cố ý” hoặc “cẩu
thả quá đáng”. Điều đó ảnh hưởng đến sự
độc lập của Tòa án và của Thẩm phán. Tòa
án và Thẩm phán, vì đó, có thể tìm kiếm
sự “chỉ đạo” của Tòa án cấp trên hoặc của
tập thể lãnh đạo khi giải quyết những vụ án
phức tạp.
Quy định liên quan đến Hội thẩm
nhân dân
Hội thẩm tham gia xét xử trong các
phiên tòa hình sự nhằm bảo đảm nguyên
tắc xét xử có đại diện của nhân dân tham
gia. Tuy nhiên, do Hội thẩm chỉ tham gia
vào “quá trình xét xử” mà không tham gia
vào “quá trình chuẩn bị xét xử”, cộng với
thực trạng về chuyên môn, kinh nghiệm và
kỹ năng xét xử của Hội thẩm còn hạn chế,
nên Hội thẩm không thể nắm chắc được nội
dung vụ án và các vấn đề mấu chốt của vụ
Thông tin Khoa học xã hội, số 2.201818
án về cả khía cạnh tình tiết lẫn pháp luật áp
dụng. Điều đó làm cho Hội thẩm khó có
khả năng độc lập với Thẩm phán và việc
tham gia của Hội thẩm nhiều khi “để đủ
thành phần, có tính hình thức”, chứ chưa
thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện
vọng của nhân dân.
Bên cạnh đó, vì Hội thẩm gần như
không phải chịu bất kỳ trách nhiệm hành
chính nào liên quan đến chất lượng xét xử,
thậm chí, khi phát hiện án oan sai do xét xử
thì việc xử lý trách nhiệm đối với Hội thẩm
là rất khó khăn, không giống như đối với
Thẩm phán nên Hội thẩm có thể bị các áp
lực khác tác động, cám dỗ, khiến họ không
độc lập khi tham gia xét xử.
3. Kết luận
Nói tóm lại, sự độc lập của tòa án là
nguyên tắc hiến định, là cốt lõi của quyền
tư pháp trong nhà nước pháp quyền, có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm
tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân
bằng và kiểm soát các quyền lực nhà nước
và bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, để
tòa án thực sự độc lập, cần có những cơ
chế đảm bảo để giảm thiểu sự tác động của
những yếu tố làm ảnh hưởng đến sự độc lập
của tòa án trong hoạt động xét xử
Tài liệu tham khảo
1. Các nguyên tắc cơ bản về tính độc
lập của tòa án năm 1985, https://
thuvienphapluat.vn/van-ban/ Linh-vuc-
khac/Nguyen-tac-co-ban-ve-tinh-doc-
lap-cua-toa-an-1985-275836.aspx
2. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013,
page/portal/chinhphuNuocCHXHCN
VietNam/ThongTinTongHop/hienphap
nam2013
4. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức tòa án
nhân dân năm 2014,
.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%
20lut/view_detail.aspx?itemid=29971
5. Quản Thị Ngọc Thảo (2016), Nguyên
tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
6. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo
cáo kết quả công tác Tòa án năm 2017,
nhiệm vụ trọng tâm năm 2018.
7. Tuyên bố Bắc Kinh về các nguyên tắc
độc lập tư pháp,
gov.vn/portal/pls/portal/!PORTAL.
wwpob_page.show?_docname=6562
798.HTM
8. UNDP (2014), Báo cáo khảo sát thực
trạng quản lý hành chính tòa án nhân
dân địa phương ở Việt Nam, http://
www.vn.undp.org/content/vietnam/vi/
home/library/democratic_ governance/
reality_of_local_court_governance_in_
viet_nam/
9. Thái Vũ (2017), Lương và sự độc lập
của Thẩm phán,
bai-viet/van-de-thoi-su/luong-va-su-
doc-lap-cua-tham-phan/B1zTdkUp-.
html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_su_doc_lap_cua_toa_an_o_viet_nam_hi.pdf