Trong các chẩn đoán sau cùng, không có trường hợp nào là nhiễm trùng tiểu. Kết quả tổng kết cho
thấy có tới 72,9% không làm tổng phân tích nuớc tiểu trước mổ và chỉ có 27,1% có làm xét nghiệm này,
và đã có 11,9% (7) trường hợp cho kết quả có bạch cầu hay nitrit trong nước tiểu. Các trường hợp này
đã không được chú ý để tổng hợp chung với các yếu tố khác khi đưa ra chẩn đoán. Theo y văn, gần
33% phụ nữ thường bị chẩn đoán lầm viêm ruột thừa với các bệnh lý vùng chậu, dạ dày ruột và
nhiễm trùng hệ niệu(185). Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có nguyên nhân nguồn gốc từ hệ tiết
niệu. Tuy nhiên, trong các trường hợp không có thương tổn đặc hiệu, có 3 trường hợp bạch cầu trong
nước tiểu dương tính (chiếm 42,9% các trường hợp có làm tổng phân tích nước tiểu). Có thể nghĩ184
những trường hợp này là nhiễm trùng đường niệu, mặc dù chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán, mà biểu
hiện trên lâm sàng là cơn đau quặn thận mà bác sĩ lâm sàng đã không phân biệt được cơn đau của đau
quặn thận hay viêm đường tiểu dưới với đau của VRT chăng? (ở đây chúng tôi không đặt vấn đề chẩn
đoán nhiễm trùng tiểu theo tiêu chuẩn vì biểu hiện này gần như là duy nhất để giải thích tình trạng
bệnh của bệnh nhân).
Trên kết quả siêu âm, chỉ có 27,1% có hình ảnh của VRT, 69,5% không có hình ảnh VRT. Trong số
các trường hợp có siêu âm với hình ảnh của VRT thì 25% là bệnh lý phụ khoa, 25% bệnh lý bờm mỡ và
túi thừa, 31,3% là không có thương tổn đặc hiệu, còn lại là thủng dạ dày, viêm mạc nối lớn và viêm
thành bụng. Tuy không phải chẩn đoán VRT dựa vào siêu âm, nhưng cũng cần kết hợp với lâm sàng
để quyết định chẩn đoán. Các dấu hiệu chuyên biệt cho siêu âm trong viêm ruột thừa là dấu hình bia,
tụ dịch, sỏi phân hay thành dày hoặc ấn không xẹp, tụ dịch ở túi cùng Douglas. Theo nhiều nghiên cứu
thì giá trị của siêu âm trong viêm ruột thừa rất khác nhau: một số nghiên cứu cho thấy độ nhạy của
siêu âm là 55% và độ chuyên biệt là 95%, giá trị tiên đoán dương là 81%, giá trị tiên đoán âm là 85%(2).
Nhưng một nghiên cứu gộp khác cho thấy độ nhạy trung bình là 90% và độ chuyên biệt là 100%(4).
Như vậy, siêu âm không cho chúng ta chẩn đoán viêm ruột thừa nhưng cũng đừng qúa chủ quan mà
bỏ qua khi đánh giá tổng thể người bệnh. Thực sự, tổng kết này cho thấy chúng ta đã không quá dựa
vào chẩn đoán siêu âm.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố chẩn đoán lầm viêm ruột thừa tại bệnh viện nhân dân Gia Định trong năm 2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
180
CÁC YẾU TỐ CHẨN ĐOÁN LẦM VIÊM RUỘT THỪA
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH TRONG NĂM 2008
Võ Thị Mỹ Ngọc*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các yếu tố có thể góp phần trong chẩn đoán lầm viêm ruột thừa.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu người bệnh nhập viện, được chẩn đoán
viêm ruột thừa, được mổ tại bệnh viện Nhân dân Gia định (NDGĐ) trong năm 2008, nhưng kết quả giải
phẫu bệnh không phải viêm ruột thừa
Kết quả: Trong thời gian 1 năm, có 59 trường hợp chẩn đoán lầm viêm ruột thừa, đa số nguyên nhân
chẩn đoán lầm là không có thương tổn đặc hiệu. Chúng tôi phân tích tất cả các yếu tố thăm khám lâm sàng,
xét nghiệm cận lâm sàng và hình ảnh học.
Kết luận: Các yếu tố góp phần vào chẩn đoán lầm này là chú ý nhiều vào mức độ đau mà không xem
xét đến thời gian đau, quan tâm đến sự hiện diện của sốt nhưng không khai thác kỹ thứ tự xuất hiện triệu
chứng đau và sốt, khám phụ khoa chưa hiệu quả, phân tích chưa hết các kết quả nước tiểu và máu.
Từ khóa: Chẩn đoán lầm viêm ruột thừa cấp
ABSTRACT
FACTORS CAUSING MISDIAGNOSIS IN ACUTE APPENDICITIS
AT NHAN DAN GIA DINH’S HOSPITAL IN 2008
Vo Thi My Ngoc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 - 2009: 180 - 184
Objectives: To determine factors that contributed to misdiagnosis of acute appendicitis.
Patients and method: Cross sectional, descriptive, prespective study. Patients were diagnosed acute
appendicitis and were operated on 2008 but the results of pathology were not suitable of appendicitis.
Results: In 1 year, there were 59 cases misdiagnosed in acute appendicitis, the majority of causes was
no significant lesion. We analysed all of factors in clinical examination, paraclinic and imaging test.
Conclusion: Attention to the level of the pain more than its duration and the present of fever more than
the time of its appear; the problem of gynecologist and results of the blood and urine test.
Key words: Acute appendicitis misdiagnosis
ĐẶT VẤN ĐỀ
VIÊM RUỘT THỪA (VRT) là cấp cứu thường gặp nhất tại các bệnh viện trong và ngoài nước. Tại
bệnh viện NDGĐ, mỗi ngày có khoảng 8- 10 trường hợp phải mổ vì VRT. Bên cạnh các trường hợp
được chẩn đoán đúng, vẫn có một số trường hợp được mổ vì không loại trừ viêm ruột thừa, tức là
chẩn đoán trước mổ không chắc lắm. Tâm lý chung của các bác sĩ thường là sợ bỏ sót VRT vì các diễn
tiến xấu của nó như áp xe hay viêm phúc mạc ruột thừa. Chẩn đoán viêm ruột thừa cấp không phải
lúc nào cũng dễ dàng. Bằng chứng là tỷ lệ cắt ruột thừa “âm tính” cao ở nhiều trung tâm. Thông
thường những cuộc mổ không cần thiết lại liên quan đến nhiều biến chứng trầm trọng. Nhiều nghiên
cứu cho thấy đầu tiên cần xem xét kỹ những chẩn đoán lâm sàng và các xét nghiệm cùng với siêu âm,
đặc biệt cần cẩn thận hơn ở những trường hợp mơ hồ, nhất là ở phụ nữ tuổi sinh đẻ và người lớn tuổi.
Tuy nhiên, nguy cơ sai lầm này xảy ra tương đương ở người bệnh nam và nữ(5). Điều đáng nói là
các cuộc mổ trắng như thế này ngày tăng lên đáng kể và lại được chấp nhận như một việc không
thể tránh được nhằm mổ sớm để ngăn chặn thủng ruột thừa(6). Qua thực hành lâm sàng, chúng tôi
181
nhận thấy còn có nhiều nguyên nhân khác khiến chúng ta có thể bị đánh lừa khi chẩn đoán VRT.
Chúng tôi muốn tổng kết lại các nguyên nhân này và phân tích các yếu tố có liên quan đến việc
chẩn đoán lầm VRT nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm.
Mục tiêu nghiên cứu
Tổng quát
Khảo sát các yếu tố có thể gây chẩn đoán lầm viêm ruột thừa.
Cụ thể
Xác định ti lệ các nguyên nhân chẩn đoán lầm VRT.
Xác định khác biệt nguyên nhân chẩn đoán lầm VRT ở các nhóm bệnh nam và nữ, nữ trong và
ngoài độ tuổi sanh đẻ.
Phân tích các yếu tố dẫn đến việc chẩn đoán lầm VRT.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân được phẫu thuật vì chẩn đoán VRT nhưng nhận định trong mổ và kết quả giải phẫu
bệnh sau mổ không phải VRT.
Thời gian
Năm 2008.
Địa điểm
Bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp
Báo cáo tiền cứu hàng loạt ca
Trong nghiên cứu của chúng tôi, gọi là “chẩn đoán lầm VRT” khi chẩn đoán trước mổ là VRT
nhưng chẩn đoán trong mổ và hay giải phẫu bệnh sau mổ không phải VRT.
Bệnh lý phụ khoa bao gồm: viêm tử cung phần phụ, xuất huyết giữa kỳ kinh, kinh trào ngược vào
khoang phúc mạc, nang nước vòi trứng. Độ tuổi sinh đẻ l từ 16 tuổi đến 45.
Tiêu chuẩn vàng
Kết quả giải phẫu bệnh là ruột thừa viêm cấp lớp thanh mạc (VRT thứ phát) hay không tổn thương
bệnh lý.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Trong thời gian 1 năm, tổng cộng bệnh viện NDGĐ có 2428 trường hợp mổ VRT, trong đó có 59
trường hợp bị chẩn đoán lầm với những bệnh lý khác, chiếm 2,45%. Tỷ lệ này khá thấp so với các
nghiên cứu khác là 15%- 20%(2).
Trong số 59 trường hợp này, có 20 nam và 39 nữ, tỷ số là # ½. Số phụ nữ trong độ tuổi sanh đẻ là
77% (30 trường hợp).
Các bệnh bị chẩn đoán lầm VRT cấp ở 2 nhóm nam và nữ là:
Bảng 1: Các loại bệnh gây chẩn đoán nhầm chung và theo giới
Nam Nữ Tổng cộng
Bệnh lí phụ khoa 0 14 (35,9%) 14 (23,73%)
Không thương tổn ñặc 10 (50%) 19 (48,7%) 29 (49,2%)
182
hiệu
Bệnh lí bờm mỡ và túi
thừa
3 2 5 (8,4%)
Bệnh lí ruột non hay
ruột già
2 2 4
Thủng dạ dày 1 0 1
Viêm mạc nối lớn 1 1 2
Viêm thành bụng 0 1 1
Viêm sau phúc mạc 1 0 1
Ruột xoay bất toàn 1 0 1
Viêm hạch mạc treo 1 0 1
Tổng cộng 20 39 59
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chẩn đoán lầm viêm ruột thừa nhiều nhất lại là những trường
hợp thực sự không có sang thương đặc hiệu trong khoang phúc mạc. Điều này cho thấy ở phụ nữ,
bệnh lý phụ khoa không phải là bệnh lý có thể gây nhầm lẫn nhiều nhất với viêm ruột thừa. Ở cả 2
giới, cơn đau của người bệnh chỉ là chủ quan và không tìm được nguồn gốc. Và điều quan trọng là hầu
hết các trường hợp đều không được khai thác đầy đủ chi tiết các đặc tính của cơn đau. Qua bảng 3, ta
thấy gần 45% các trường hợp thời gian đau bụng hơn 1 ngày vẫn được chẩn đoán VRT. Cũng qua
những số liệu này ta thấy rằng bất kỳ bệnh lý hay bất thường nào cũng có thể gây lầm lẫn với viêm
ruột thừa.
Trong khi đó ở 2 độ tuổi của giới nữ chúng tôi nhận thấy: Các bệnh bị chẩn đoán lầm ở 2 nhóm
trong và ngoài độ tuổi sinh đẻ:
Bảng 2: Các loại bệnh lý gây chẩn đoán nhầm theo độ tuổi ở nữ:
Nữ trong tuổi
sanh ñẻ
Nữ ngoài tuổi
sanh ñẻ
Tổng
cộng
Bệnh lý phụ khoa 12(40%) 2(22,2%) 14
Không thương tổn ñặc
hiệu 16(53,3%) 3(33,3%) 19
Bệnh lý bờm mỡ và túi
thừa 0 2 2
Bệnh lý ruột non hay
ruột già 1 1 2
Viêm mạc nối lớn 0 1 1
Viêm thành bụng 1 0 1
Tổng cộng 30 9 39
Ở nhóm phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thì bệnh lý phụ khoa vẫn gây sai lầm nhiều hơn ở nhóm
ngoài độ tuổi sinh đẻ như chúng ta vẫn thường thấy. Ơ người nữ trẻ thì thường không gặp các bệnh lý
của phúc mạc như: viêm bờm mỡ, viêm mạc nối lớn. Tuy nhiên số liệu của chúng tôi còn ít để so sánh
giữa 2 nhóm tuổi và đưa ra kết luận. Trong khi, tỷ lệ có khám phụ khoa trước mổ là 53,3% ở người nữ
trong độ tuổi sinh đẻ thì tỷ lệ này ở nhóm ngoài độ tuổi sinh đẻ là 11,1%. Tổng cộng có 22 trường hợp
giới nữ (56,4%) không được khám phụ khoa trước. Có 71,4% các trường hợp có khám phụ khoa trước
mà không phát hiện ra bệnh liên quan, dù vậy nhóm này vẫn được mổ vì không loại được viêm ruột
thừa. Con số này khiến chúng ta sẽ phải xem xét lại vấn đề khám phụ khoa: người có trách nhiệm và
chuyên môn.
Sau đây là các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trước mổ theo chẩn đoán:
Bảng 3: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trước mổ:
Đăc ñiểm VRT Chưa VPM hay Tổng
183
loại VRT áp xe RT cộng
Dưới 12 giờ 8 0 0 8
12g-24g 21 0 0 21
Thời gian
ñau
Hơn 24g 26 (44
%)
1 3 30
Có sốt 27 1 2 30 Sốt
Không sốt 28 0 1 29
Dưới 10000 21 0 0 21
10000-
15000
25 1 2 28
Bạch cầu
máu
(BC/mm3)
Trên 15000 9 0 1 10
Có hình ảnh
VRT
14 0 2 16
(27%)
Không 40 1 0 41
Siêu âm
Dấu hiệu
khác
1 0 1 2
Triệu chứng đầu tiên của tất cả các người bệnh trong nghiên cứu là đau bụng, chỉ có 1 trường hợp
là sốt, 50,8% các trường hợp đau bụng hơn 1 ngày, tối đa là 12 ngày và ít nhất là 3 giờ. Tuy vậy, lại có
đến 93,2% các trường hợp chẩn đoán trước mổ là viêm ruột thừa cấp, 5,1% là viêm phúc mạc hay áp xe
ruột thừa. 44,1% các trường hợp đau bụng hơn 1 ngày, được chẩn đoán viêm ruột thừa cấp. Đây là
một vấn đề cần xem lại, chúng ta đã không để ý đến thời gian khi chẩn đoán viêm ruột thừa cấp, đã
không khai thác cẩn thận đặc tính cơn đau và đã quá chủ quan. Có 35,6% trường hợp này có thời gian
đau bụng từ 12 giờ đến 24 giờ. Đây là thời gian của viêm ruột thừa cấp nhưng chẩn đoán lại không
đúng, có thể chưa khai thác hết dấu hiệu này. Về vị trí đau bụng: có 86,4% đau chủ yếu ở hố chậu phải;
3,4% đau hạ vị và hố chậu phải. Cơn đau đa số là đau âm ỉ; 54,2% có phản ứng bụng: đề kháng hay
phản ứng dội; 45,8% còn lại chỉ ấn đau khu trú. Từng có những nghiên cứu cho thấy rằng các cuộc mổ
trắng ở người bệnh nghi ngờ viêm ruột thừa thường liên quan đến những sai lầm mang tính hệ thống
trong chẩn đoán lâm sàng vì quá dựa vào yếu tố đau và phản ứng bụng mà không để ý đến thời gian
kéo dài cơn đau và các dấu hiệu viêm khách quan(5). Nghiên cứu của chúng tôi cũng rút ra được kết
luận rằng: người bác sĩ lâm sàng đã quá chú trọng đến mức độ đau bụng và tình trạng bụng mà không
quan tâm đến thời điểm cơn đau bắt đầu.
Trong các triệu chứng đi kèm, có 45,8% có sốt. Trong số này, có 22% sốt hơn 1 ngày, và các trường
hợp này đều không khai thác được chính xác sốt xuất hiện trước cơn đau hay xuất hiện sau. Điều này
quan trọng vì trong VRT cơn đau xuất hiện trước sốt. Như vậy, đối triệu chứng đi kèm quan trọng
nhất này, chúng ta chỉ nhắc đến sự hiện diện của nó hay không chưa đủ, cần để tâm đến thứ tự xuất
hiện triệu chứng.
Có 64,4% các trường hợp có bạch cầu trong máu tăng cao trên 10000/mm3. Trên lý thuyết, trong
viêm ruột thừa số lượng bạch cầu máu tăng từ 8000-10000/mm3. Người bác sĩ đã không phân tích đầy
đủ các giá trị này khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Trong các chẩn đoán sau cùng, không có trường hợp nào là nhiễm trùng tiểu. Kết quả tổng kết cho
thấy có tới 72,9% không làm tổng phân tích nuớc tiểu trước mổ và chỉ có 27,1% có làm xét nghiệm này,
và đã có 11,9% (7) trường hợp cho kết quả có bạch cầu hay nitrit trong nước tiểu. Các trường hợp này
đã không được chú ý để tổng hợp chung với các yếu tố khác khi đưa ra chẩn đoán. Theo y văn, gần
33% phụ nữ thường bị chẩn đoán lầm viêm ruột thừa với các bệnh lý vùng chậu, dạ dày ruột và
nhiễm trùng hệ niệu(185). Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có nguyên nhân nguồn gốc từ hệ tiết
niệu. Tuy nhiên, trong các trường hợp không có thương tổn đặc hiệu, có 3 trường hợp bạch cầu trong
nước tiểu dương tính (chiếm 42,9% các trường hợp có làm tổng phân tích nước tiểu). Có thể nghĩ
184
những trường hợp này là nhiễm trùng đường niệu, mặc dù chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán, mà biểu
hiện trên lâm sàng là cơn đau quặn thận mà bác sĩ lâm sàng đã không phân biệt được cơn đau của đau
quặn thận hay viêm đường tiểu dưới với đau của VRT chăng? (ở đây chúng tôi không đặt vấn đề chẩn
đoán nhiễm trùng tiểu theo tiêu chuẩn vì biểu hiện này gần như là duy nhất để giải thích tình trạng
bệnh của bệnh nhân).
Trên kết quả siêu âm, chỉ có 27,1% có hình ảnh của VRT, 69,5% không có hình ảnh VRT. Trong số
các trường hợp có siêu âm với hình ảnh của VRT thì 25% là bệnh lý phụ khoa, 25% bệnh lý bờm mỡ và
túi thừa, 31,3% là không có thương tổn đặc hiệu, còn lại là thủng dạ dày, viêm mạc nối lớn và viêm
thành bụng. Tuy không phải chẩn đoán VRT dựa vào siêu âm, nhưng cũng cần kết hợp với lâm sàng
để quyết định chẩn đoán. Các dấu hiệu chuyên biệt cho siêu âm trong viêm ruột thừa là dấu hình bia,
tụ dịch, sỏi phân hay thành dày hoặc ấn không xẹp, tụ dịch ở túi cùng Douglas. Theo nhiều nghiên cứu
thì giá trị của siêu âm trong viêm ruột thừa rất khác nhau: một số nghiên cứu cho thấy độ nhạy của
siêu âm là 55% và độ chuyên biệt là 95%, giá trị tiên đoán dương là 81%, giá trị tiên đoán âm là 85%(2).
Nhưng một nghiên cứu gộp khác cho thấy độ nhạy trung bình là 90% và độ chuyên biệt là 100%(4).
Như vậy, siêu âm không cho chúng ta chẩn đoán viêm ruột thừa nhưng cũng đừng qúa chủ quan mà
bỏ qua khi đánh giá tổng thể người bệnh. Thực sự, tổng kết này cho thấy chúng ta đã không quá dựa
vào chẩn đoán siêu âm.
Các kỹ thuật chẩn đoán mới với nhiều hứa hẹn như siêu âm, chụp cắt lớp đã không đạt được sự
mong đợi rộng rãi. Ở hầu hết các trung tâm và bệnh viện, chẩn đoán viêm ruột thừa chủ yếu dựa vào
lâm sàng. Chẩn đoán này dựa trên khai thác bệnh sử cơn đau, dấu hiệu bụng và dấu hiệu của đáp ứng
viêm toàn thân. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá ảnh hưởng của các nguồn thông tin này đến
việc quyết định mổ viêm ruột thừa. Qua đây cho thấy chúng ta bị ảnh hưởng quá nhiều của sự phóng
đại của người bệnh, và xem nhẹ các kết quả cận lâm sàng. Hậu quả là các cuộc mổ trắng thường ở
người bệnh biểu hiện đau và dấu hiệu bụng mà dấu hiệu viêm toàn thân không có. Vì thế mà trong
chẩn đoán nên quan tâm nhiều hơn đến các kết quả xét nghiệm, điều này thì ngược lại với các điều mà
sách giáo khoa đã hướng dẫn(5).
Kết quả giải phẫu bệnh lý theo chẩn đoán trước mổ:
Bảng 4: Chẩn đoán trước mổ với kết quả giải phẫu bệnh:
Viêm
ruột
thừa
cấp
Chưa loại
viêm ruột
thừa
Viêm phúc
mạc hay áp
xe ruột
thừa
Tổng
cộng
Ruột thừa viêm
cấp lớp thanh
mạc
16 1 2 19
(32.2%)
Ruột thừa bình
thường
39 0 1 40
(67.8%)
Tổng cộng 55 1 3 59
Trong 59 trường hợp, có 67,8% (40 trường hợp) có kết quả giải phẫu bệnh là ruột thừa bình
thường. Trong đó 32,2% có kết quả giải phẫu bệnh ruột thừa viêm cấp lớp thanh mạc, có 84% trước
mổ được chẩn đoán viêm ruột thừa cấp và 10,5% là viêm phúc mạc hay áp xe ruột thừa. Trong 40
trường hợp ruột thừa bình thường, có 23 trường hợp (57,5%) là không tìm được thương tổn thực sự
đặc hiệu trong lúc mổ.
KẾT LUẬN
Viêm ruột thừa cấp với tỷ lệ chẩn đoán lần hiện nay của chúng tôi tạm gọi là chấp nhận được với
tỷ lệ 2,3%. Nguyên nhân gây chẩn đoán lầm nhiều nhất lại là không có sang thương thực sự trong lúc
185
mổ. Nguyên nhân giữa nam và nữ cũng tương tự nhau, giữa nữ trong và ngoài độ tuổi sinh đẻ thì
cũng giống nhau nhưng tỷ lệ bệnh lý phụ khoa ở nhóm nữ trong độ tuổi sinh đẻ thì cao hơn nhóm
còn lại. Các yếu tố góp phần vào chẩn đoán lầm này là chú ý nhiều vào mức độ đau mà không
xem xét đến thời gian đau, quan tâm đến sự hiện diện của sốt nhưng không khai thác kỹ thứ tự
xuất hiện triệu chứng đau và sốt, khám phụ khoa chưa hiệu quả, chưa phân tích hết các kết quả
nước tiểu và máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bombardieri T, Capocasale R, Cafiero C, Sergi A, Vasile R. (2004). Diagnostic accuracy in 267 patients with suspected appendicitis: a
retrospective study. Chir Ital; 56(6):805-10.
2. Flum DR và cs. (2001). Has misdiagnosis of appendicitis decreased over time? A population-based analysis. JAMA; 268 (14) : 1748-54
3. Franke C (1999). Ultrasonography for Diagnosis of Acute Appendicitis: Results of a Prospective Multicenter Trial. World J. Surg; 23, 141–
146.
4. Orr RK, Porter D, Hartmann D. (1995): Special contributions: ultrasonography to evaluate adults for appendicitis: decision making based
on meta-analysis and probabilistic reasoning. Acad. Emerg. Med; 2:644.
5. Roland E. (2000). Why Does the Clinical Diagnosis Fail in Suspected Appendicitis? Eur J Surg; 166: 796–802.
6. Velanovich V, Satava R. (1992). Balancing the normal appendicectomy rate with the perforated appendicitis rate: Implications for quality
assurance. Am Surg; 58:264–269.
186
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_chan_doan_lam_viem_ruot_thua_tai_benh_vien_nhan_d.pdf