Các yếu tố lâm sàng liên quan tổn thương nội sọ trên trẻ chấn thương đầu nhẹ tại bệnh viện Nhi Đồng 2

2 nguyên nhân hay gặp nhất là té ngã 49,6% và tai nạn giao thông 45,4%. Xe máy là phương tiện gây tai nạn thường gặp nhất 77,2%. Trẻ nhỏ dưới 6 tuổi thì nguyên nhân chủ yếu là do té ngã, trẻ lớn hơn 6 tuổi thì nguyên nhân do tai nạn giao thông lại chiếm ưu thế. Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy có liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tổn thương não trên CT với nguyên nhân gây chấn thương. Có liên quan giữa tổn thương não trên CT với độ cao khi té và tốc độ xe (p < 0,05). Tỷ lệ đội nón bảo hiểm rất thấp 12,5%. Qua phân tích chúng tôi nhận thấy có một số dấu hiệu lâm sàng có liên quan đến tổn thương nội sọ như: Bất thường sau 6 giờ, ói trên 6 giờ, số đợt ói, thay đổi hành vi, co giật, mất ý thức, quên sau chấn thương, nhức đầu, điểm Glasgow lúc nhập viện, tri giác xấu dần, dấu thần kinh định vị, bất thường đồng tử, kích động, tụ máu da đầu.

pdf10 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố lâm sàng liên quan tổn thương nội sọ trên trẻ chấn thương đầu nhẹ tại bệnh viện Nhi Đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  199 CÁC YẾU TỐ LÂM SÀNG LIÊN QUAN TỔN THƯƠNG NỘI SỌ   TRÊN TRẺ CHẤN THƯƠNG ĐẦU NHẸ TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2  Nguyễn Huy Luân*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Xác định các yếu tố lâm sàng liên quan tổn thương nội sọ trên trẻ chấn thương đầu nhẹ trẻ em.  Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích, tiến cứu.  Kết quả: 357 ca chấn thương đầu. Tỷ lệ nam/nữ = 1,4/1 Lứa tuổi thường gặp nhất là 3‐5 tuổi (35,3%). Đa  số các trường hợp chấn thương ở tuyến tỉnh chuyển lên chiếm tỷ lệ 44,8%. Có 146 ca (40,9%) không được xử trí  trước  khi nhập  viện. Nguyên nhân  gây  tai nạn  thường  gặp nhất  là  té ngã  (49,6%)  và  tai nạn  giao  thông  (45,4%). Xe máy là phương tiện gây tai nạn giao thông thường gặp nhất (77,2%). Tỷ lệ đội nón bảo hiểm rất  thấp 12,5%. Trong nhóm té ngã lứa tuổi thường gặp nhất là dưới 6 tuổi, trong nhóm TNGT lứa tuổi thường  gặp nhất là trên 6 tuổi. Các dấu hiệu lâm sàng có liên quan đến tổn thương nội sọ như: ói trên 6 giờ, số đợt ói,  thay đổi hành vi, co giật, mất ý thức, quên sau chấn thương, nhức đầu, điểm Glasgow lúc nhập viện, tri giác xấu  dần, dấu thần kinh định vị, kích động, tụ máu da đầu (p < 0,05).  Kết luận: Ở trẻ nhỏ dưới 6 tuổi, nguyên nhân chủ yếu là do té ngã; trẻ trên 6 tuổi, nguyên nhân do TNGT  lại chiếm ưu thế. Xe máy là phương tiện gây tai nạn thường gặp nhất. Có sự liên quan giữa các yếu tố lâm sàng,  cơ chế chấn thương với tổn thương nội sọ trên chấn thương đầu nhẹ trẻ em.  Từ khóa: Chấn thương đầu, trẻ em.  ABSTRACT  THE CLINICAL FACTORS ASSOCIATED WITH INTRACRANIAL INJURY IN CHILDREN’S MINOR  HEAD INJURIES AT THE CHILDREN’S HOSPITAL 2  Nguyen Huy Luan* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 198 ‐ 207  Objectives: To determine the clinical  factors associated with  intracranial  injury  in children’s minor head  injuries at Children’s Hospital 2.  Method: Prospective, cross sectional descriptive and analytic study.  Results:  357  cases with minor  head  injury were  involved  to  our  study. Male/female  ratio was  1.4/1.  Children  from 3 ‐ 5 years old were common group  (35.3%). Most cases came  from provincial areas  (44.8%).  There are 146 cases (46.9%) without having primary care before admission. The common cause of children’s head  injuries  are  fall  (49.6%)  and  traffic  accidents  (45.4%). The  common  type  of  traffic  accidents  is by motorbike  (77.2%). The rate of using helmet is very low (12.5%). The common age for fall group is under 6 years old, for  traffic  accidents  group  is  6  years  old  and  older.  The  clinical  factors  associated  with  intracranial  injury  in  children’s minor head injuries are persistent vomiting after 6 hours, vomiting times, behavioral change, seizure,  loss  of  consciousness,  amnesia,  headache,  Glasgow  coma  score  at  admission,  depressed mental  status,  focal  neurologic findings, irritability, scalp hematoma (p < 0.05).  Conclusion: The main cause of head  injuries  in children  less than 6 years old  is  fall, while motor vehicle  crashes are priority for children older than 6 years old. Motorbike is the most common cause of traffic accidents.  * Đại Học Y Dược TP.HCM.  Tác giả liên lạc: ThS.BS Nguyễn Huy Luân,ĐT: 0908193339,Email: huyluannguyen@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  200 There are correlations with statistical significant difference between clinical factors and mechanism of head injury  with intracranial injury in children’s minor head injuries.  Key words: Head injury, children.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Chấn thương đầu là nguyên nhân hàng đầu  trong các loại chấn thương ở trẻ em. chiếm 75%  các loại chấn thương cần nhập viện ở trẻ em và  chiếm gần 80% tử vong do chấn thương. Tại Mỹ,  nguyên nhân chấn thương thường gặp ở trẻ em  là chấn thương đầu. Từ năm 1995 đến năm 2001  có 435.000 ca có tổn thương não nhập khoa cấp  cứu và 37.000 ca phải nhập viện hàng năm(18).  Tại Việt Nam, chấn thương đầu ở trẻ em có  xu huớng ngày càng tăng. Theo thống kê bệnh  viện Chợ Rẫy, năm 1996 có 1138 trẻ nhập khoa  Ngoại Thần kinh(22), năm 2005 có 2448  trường  hợp với  tỷ  lệ  tử vong  là  1,3%. Tại  bệnh  viện  Nhi Đồng 2, từ năm 2003‐ 2005 có 313 ca nhập  khoa  Cấp  cứu  trong  đó  có  17  ca  tử  vong  (5,43%)(16). Các yếu tố nguy cơ tổn thương não  trên  lâm  sàng  trong  nhóm  chấn  thương  đầu  nhẹ thường không đặc hiệu, đặc biệt là đối với  trẻ nhỏ dưới 2 tuổi. Do đó có 2 khuynh hướng  xảy ra: một là không theo dõi sát bệnh nhi, hai  là quá lạm dụng chỉ định chụp CT scan sọ não.  Vấn đề được các bác sĩ quan  tâm  là dấu hiệu  lâm  sàng nào giúp  đánh giá nguy  cơ  cao  tổn  thương  não  ở  trẻ  bị  chấn  thương  đầu  nhẹ  ?  Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác  định các yếu tố lâm sàng liên quan tổn thương  nội  sọ  trên  trẻ  chấn  thương  đầu  nhẹ  trẻ  em  được điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 2.  Mục tiêu nghiên cứu  Xác định tỷ  lệ yếu tố dịch tễ về địa chỉ,  lứa  tuổi, giới, cơ chế chấn thương trên các bệnh nhi  bị chấn thương đầu nhẹ.  Xác định mối liên quan giữa các yếu tố lâm  sàng với tổn thương nội sọ.  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên  cứu mô  tả  cắt ngang  có phân  tích,  tiến cứu.  Đối tượng nghiên cứu  Tất cả bệnh nhân bị chấn thương đầu nhập  bệnh viện Nhi Đồng 2 từ tháng 8/2007 đến tháng  4/2010.   Cỡ mẫu  Cỡ mẫu được tính theo công thức ước lượng  tỷ lệ một dân số.   2)α/2(Z2∆ P)P(1 −=n Với Z = 1,96  (α = 0,05), p = 0,5, d= 0,08, ∆ =  0,05.  N = 385 ca.  Tiêu chuẩn chọn bệnh  Trẻ từ 2 tháng ‐ 15 tuổi bị chấn thương đầu  nhẹ, Glasgow 13‐15 điểm và được chụp CT scan  sọ não trong vòng 6 giờ sau khi nhập khoa Cấp  cứu  bệnh  viện Nhi  đồng  2  từ  tháng  8/2007  –  tháng 4/2010.  Tiêu chuẩn loại trừ  Gia  đình  không  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu. Vết thương xuyên thấu sọ. Tiền căn có bệnh  lý  thần kinh. Xuất huyết nội  tạng. Shunt  trong  nội sọ. Đa chấn  thương. Không được đánh giá  ngay lúc nhập viện.  Các bước tiến hành  Thu thập dữ liệu: Bệnh án mẫu (bệnh nhân  bị chấn thương đầu nhập bệnh viện Nhi Đồng 2  từ tháng 8/2007 đến tháng 4/2010). Số liệu được  nhập bằng phần mềm EPI‐INFO 6.04B.  Phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 11.05.   Phân tích đơn biến: Đối với biến số định tính  thì tìm tần số và tỉ lệ %, đối với biến định lượng  thì tìm trung bình và độ lệch chuẩn. Dùng phép  kiểm  chi  bình  phương,  Fisher’exact  test  để  so  sánh tỉ lệ giữa các nhóm. Sự khác biệt có ý nghĩa  khi P < 0,05.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  201 KẾT QUẢ  Đặc điểm chung của bệnh nhân  Tổng  số  có  357  trường  hợp  tham  gia  vào  nghiên cứu.  Tuổi:  Nhỏ  nhất  2  tháng,  lớn  nhất  là  179  tháng. Trung bình  tuổi  là 62,6  tháng. Nhóm  trẻ  dưới 2  tuổi  có 75 bệnh nhân  (BN),  chiếm  tỷ  lệ  21%. Lứa  tuổi  thường gặp nhất  là 3  ‐ 5  tuổi có  126  ca  (35,3%), kế  đến  là  6  ‐  10  tuổi  có  108  ca  (30,3%).  Địa chỉ: Tỉnh 160 ca (44,8%), nội thành 105 ca  (29,4%), ngoại thành 92 ca (25,8%). Bệnh nhân tự  đến  bệnh  viện  hay  được  chuyển  từ  bệnh  viện  tỉnh với tỷ lệ lần lượt là 38,9% và 34,7%.  Giới  tính: Nam 206 bệnh nhân,  chiếm  tỷ  lệ  57,7%, nữ có151 bệnh nhân, chiếm  tỷ  lệ 42,3%.  Tỷ lệ chung nam/nữ là 1,4.  Di chứng nặng 1 ca (0,3%), di chứng nhẹ 3 ca  (0,85%). Không trường hợp nào tử vong.  Phẫu thuật 56 ca (15,7%).  Xử trí tuyến trước   Có 146 bệnh nhân chưa được xử trí gì trước  khi nhập viện chiếm tỷ lệ 40,9%. Tại các cơ sở y  tế,  tỷ  lệ  không  xử  trí  cao  nhất  trong  nhóm  chuyển đến từ trung tâm y tế quận các 31,3% kế  đến là từ các bệnh viện và phòng khám tư trong  thành phố với tỷ lệ 17%.  Nguyên nhân chấn thương  Phân bố nguyên nhân chấn thương theo lứa tuổi  Bảng 1. Phân bố nguyên nhân chấn thương theo lứa tuổi.  Nguyên nhân chấn thương Lứa tuổi Tổng cộng< 1T N=38 1 – 2 T N=37 3 – 5 T N=126 6 – 10T N=108 10 –15T N=57 Té 29 (16,6%) 25 (14,3%) 73 (41,7%) 37 (21,1%) 11 (6,3%) 175 (49%) Lực mạnh đánh vào đầu + té ngã 0 (0%) 1 (2,7%) 0 (0%) 1 (0,9%) 0 (0%) 2 (0,6%) Tai nạn giao thông 7 (18,4%) 9 (24,3%) 47 (37,3%) 65 (60,2%) 34 (70,8%) 162 (45,4%) Lực mạnh đánh vào đầu 2 (5,3%) 2 (5,4%) 6 (4,8%) 4 (3,7%) 3 (6,3%) 17 ,7%) Nghi ngờ trẻ bị ngược đãi. 0 (0%) 0 (0%) 0 (0%) 1 (0,9%) 0 (0%) 1 (0,3%) Nhận xét: Té ngã là nguyên nhân thường gặp nhất 177 ca (49,6%), kế đến là tai nạn giao thông 162 ca chiếm tỷ  lệ 45,4%. Chỉ có 1 ca là nghi do ngược đãi. Trẻ dưới 6 tuổi té ngã là nguyên nhân hàng đầu gây chấn thương,  đối với trẻ trên 6 tuổi tai nạn giao thông lại chiếm ưu thế.   Độ cao khi té   Thường  gặp  nhất  là  té  từ  độ  cao  1  –  3 m  chiếm tỷ lệ 49,1%, té ngã ở độ cao trên 3 m chỉ có  15 ca chiếm tỷ lệ 8,5%.  Tai nạn giao thông  Hai phương  tiện di  chuyển  của bệnh nhân  thường gặp nhất là xe máy 52/162 ca (32,1%) và  xe  đạp  24/162  ca  (14,8%).  Phương  tiện  gây  tai  nạn  thường  gặp  nhất  là  xe  máy  77,2%.  Tình  huống gây tai nạn thường gặp nhất là đi bộ bị xe  máy đụng 74 ca (45,7%), kế đến là xe máy đụng  xe máy 33  ca  (20,4%). Xe di  chuyển với  tốc  độ  chậm  chiếm  tỷ  lệ  64,8%.  Tốc  độ  xe  nhanh  thường xảy ra khi tai nạn ở tỉnh (66,7%).  Đội nón bảo hiểm  Có 40 trường hợp cần phải đội nón bảo hiểm  nhưng chỉ có 5 ca thực hiện, 3 ca trong lứa tuổi 6  ‐ 10 tuổi và 2 ca trong nhóm 11 ‐ 15 tuổi, tỷ lệ đội  nón chung là 12,5%.  Các dạng  tổn  thương não và hộp sọ  trên CT  scan sọ não  Có 91 ca tổn thương hộp sọ đơn thuần, trong  đó nứt sọ đơn thuần thường gặp nhất chiếm tỷ  lệ 63,7%, kế đến  lõm  sọ đơn  thuần 30,7%. Tổn  thương não có 138 ca, trong đó thường gặp nhất  là máu  tụ  ngoài màng  cứng  (NMC)  64,5%,  kế  đến là máu tụ dưới màng cứng (DMC) 15,9%.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  202 Liên quan nguyên nhân chấn thương với tổn thương não trên CT  Bảng 2. Liên quan nguyên nhân chấn thương với tổn thương não trên CT  Nguyên nhân gây chấn thương Số ca Tổn thương não trên CT Phép kiểm P Có (N=138) Không (N=219) Té 175 (49%) 61 (34,8%) 114 (65,2%) df= 1 Fisher 0,039 Lực mạnh đánh vào đầu + té ngã 2 (0,6%) 1 (50%) 1 (50%) Tai nạn giao thông 162 (45,4%) 71 (43,8%) 91 (56,2%) Lực mạnh đánh vào đầu 17 (4,7%) 5 (29,4%) 12 (70,6%) Nghi ngờ trẻ bị ngược đãi 1 (0,3%) 0 (0%) 1 (100%) Nhận xét: Có liên quan có ý nghĩa thống kê  giữa  tổn  thương não  trên CT với nguyên nhân  gây chấn thương (p < 0,05). Độ cao khi té hay có  tốc độ xe càng lớn thì tỷ lệ tổn thương não càng  tăng. Nhóm té trên 3m có tỷ  lệ tổn thương não  cao nhất 73,3%. Nhóm có tốc độ xe nhanh có tổn  thương não  là 61,5%  so với 36,2%  trong nhóm  chạy chậm. Qua phân tích cho thấy có liên quan  giữa tổn thương não trên CT với độ cao khi té và  tốc độ xe (p < 0,05). Kết quả cho thấy không có  trường hợp nào có tổn thương não khi đội nón  bảo hiểm và phân tích thống kê cho thấy có mối  liên quan giữa đội nón bảo hiểm với tổn thương  não (p = 0,013).  Liên quan các dấu hiệu lâm sàng với tổn thương não trên CT  Bảng 3: Liên quan các dấu hiệu lâm sàng với tổn thương não trên CT.  Dấu hiệu lâm sàng Số ca Tổn thương não trên CT Phép kiểm p Có (N=138) Không (N=219) Ói kéo dài trên 6 giờ Có 146 (40,9%) 67 (45,9%) 79 (54,1%) x2= 5,45 0,02 Không 211 (59,1% 71 (33,6%) 140 (66,4%) Số đợt ói < 3 lần 253 (70,9%) 77 (30,4%) 176 (69,6%) x2=24,75 p<0,001 ≥ 3 lần 105 (21%) 61 (58,7%) 43 (41,3%) Co giật Có 14 (3,9%) 11 (78,6%) 3 (21,4%) x2= 9,79 0,002 Không 343 (96,1%) 127 (37%) 216 (63%) Tụ máu da đầu Không 116 (32,5%) 25 (21,6%) 91 (78,4%) Fisher p<0,001 Vùng trán 49 (13,7%) 18 (36,7%) 31 (63,3%) Ngoài vùng trán < 5 cm 132 (37%) 55 (41,7%) 77 (58,3%) Ngoài vùng trán ≥ 5 cm 46 (12,9%) 34 (73,9%) 12 (26,1%) Vùng trán + nơi khác 14 (4%) 6 (42,9%) 8 (57,1%) Thay đổi hành vi Có 53 (14,8%) 43 (81,1%) 10 (18,9%) Fisher p<0,001 Không 300 (84%) 92 (30,7%) 208 (69,3%) Không đánh giá được 4 (1,1%) 3 (75%) 1 (25%) Nhức đầu Không 116 (41,1%) 32 (27,6%) 84 (72,4%) x2=24,34 p<0,001 Nhẹ 134 (47,5%) 65 (48,5%) 69 (51,5%) Nặng 14 (5%) 11 (78,6%) 3 (21,4%) Không đánh giá được 18 (6,4%) 3 (16,7%) 15 (83,3%) Tổng cộng 282 (100%) 111 (39,4%) 171 (60,6%) Quên sau chấn thương Không 174 (61,7%) 59 (33,9%) 115 (66,1%) x2=19,04 p<0,001 ≤ 5 phút 28 (9,9%) 11 (39,3%) 17 (60,7%) >5 phút 45 (16%) 31 (68,9%) 14 (31,1%) Không đánh giá được 35 (12,4%) 10 (28,6%) 25 (71,4%) Tổng cộng 282 (100%) 111 (39,4%) 171 (60,6%) Mất ý thức Không 303 (84,9%) 104 (34,3%) 199 (65,7%) Fisher p<0,001 < 1 phút 5 (1,4%) 1 (20%) 4 (80%) Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  203 Dấu hiệu lâm sàng Số ca Tổn thương não trên CT Phép kiểm p Có (N=138) Không (N=219) 1-5 phút 14 (3,9%) 8 (57,1%) 6 (42,9%) >5 phút 35 (9,8%) 25 (71,4%) 10 (28,6%) Điểm Glasgow lúc NV 13 17 (4,8%) 9 (52,9%) 8 (47,1%) x2=8,50 0,014 14 72 (20,2%) 37 (51,4%) 35 (48,6%) 15 268 (75,1%) 92 (34,3%) 176 (65,7%) Tri giác xấu dần Có 6 (1,7%) 6 (100%) 0 (0%) Fisher 0,003 Không 351 (98,3%) 132 (37,6%) 219 (62,4%) Kích động (trẻ < 2 T) Có 12 (16%) 8 (66,7%) 4 (33,3%) x2=5,81 0,023 Không 63 (84%) 19 (30,2%) 44 (69,8%) Tổng cộng 75 (100%) 27 (36%) 48 (64%) Dấu thần kinh định vị Có 11 (3,1%) 10 (90,9%) 1 (9,1%) Fisher p<0,001 Không 346 (96,9%) 128 (37%) 218 (63%) Nhận  xét:  Không  có  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống kê giữa tổn thương não trên CT với nhóm  tuổi, phái  tính,  nứt  sọ,  lõm  sọ,  vỡ  sàn  sọ  (p  >  0,05).  Trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  không  có  trường hợp nào bị suy hô hấp, sốc. Kết quả cho  thấy  sốt  có  32  ca  (9%)  trong  đó  10  ca  có  tổn  thương não, tăng huyết áp có 6 ca (1,7%)  trong  đó 4 ca có tổn thương não. Không có  liên quan  có ý nghĩa thống kê giữa tổn thương não trên CT  với  sốt,  tăng  huyết  áp  sau  chấn  thương  (p  >  0,05). Mạch chậm có 2 ca  (0,6%) và  đều  có  tổn  thương não, tuy nhiên không có  liên quan có ý  nghĩa thống kê với tổn thương não trên CT (p =  0,149).  BÀN LUẬN  Đặc điểm dịch tễ học  Giới tính  Tỷ  lệ  nam/nữ  =  1,4/1.  Trong  hầu  hết  các  nghiên cứu về chấn thương đầu ở trẻ em người  ta đều thấy đa phần chấn thương thường gặp ở  nam nhiều hơn nữ. Tỷ  lệ nam/nữ  trong nghiên  cứu  ở Mỹ  là  2/1(23),  tại Anh  là  1,85/1(18),  tại  Đài  Loan là 1,7/1(22), tại bệnh viện Nhi Trung Ương là  1,2/1(13), còn ở bệnh viện Nhi Đồng 2  là 1,5/1(16).  Điều này có thể giải thích là do bé trai hiếu động  và nghịch ngợm hơn bé gái nên dễ xảy ra các tai  nạn hơn.  Tuổi  Trẻ bị chấn thương có thể gặp ở mọi lứa tuổi,  trong  nghiên  cứu  chúng  tôi  trường  hợp  nhỏ  nhất là một trẻ 2 tháng, lớn nhất 15 tuổi Lứa tuổi  thường  gặp  nhất  là  3‐5  tuổi  126  ca  (35,3%)  kế  đến là 6‐10 tuổi 108 ca (30,3%). Nhóm trẻ dưới 2  tuổi  có  75  bệnh  nhân,  chiếm  tỷ  lệ  21%.  Theo  nghiên cứu tại Mỹ lứa tuổi thường gặp là dưới 5  tuổi (55%) và dưới 2 tuổi (28%)(18), tại Anh nhóm  tuổi thường gặp nhất là 5‐11 tuổi (28,9%) và 2‐5  tuổi  (28,5%)(6),  tại  Đài Loan  nhóm  tuổi  thường  gặp  nhất  là  10‐14  tuổi  (36%)  và  0‐4  tuổi  (35,5%)(22). Việt Nam,  tại Bệnh  viện Nhi Trung  Ương  nhóm  tuổi  thường  gặp  nhất  là  1‐4  tuổi  (40%) và 5‐9 tuổi (40%)(13), còn ở BV Nhi Đồng 2  trong  nghiên  cứu  của  BS.  Huyền  nhóm  tuổi  thường gặp nhất là trên 2 tuổi (85,3%)(16), nghiên  cứu của BS Trương Văn Việt tại BV Chợ Rẫy cho  thấy nhóm  tuổi  thường gặp nhất  là  từ 0‐5  tuổi  (40%), 5‐10  tuổi  (33,1%)(20). Tỷ  lệ  trẻ > 2  tuổi bị  chấn thương đầu nhiều hơn vì trẻ từ 2‐6 tuổi hay  chạy nhảy chơi đùa nên dễ bị chấn thương, còn  trẻ  trên  6  tuổi dễ  bị  tai  nạn  giao  thông  khi di  chuyển trên đường.   Nơi chuyển đến  Khi  so  sánh  giữa  nơi  chuyển  đến  với  địa  chỉ,  xử  trí  tuyến  trước  chúng  tôi  có một  số  nhận xét sau:  Đa số các  trường hợp chấn  thương ở  tuyến  tỉnh  chuyển  lên  160  ca  (44,8%).  Điều  này  phù  hợp thực tế vì bệnh viện Nhi Đồng 2 là nơi tiếp  nhận các trường hợp chấn thương đầu ở trẻ em  và có khả năng phẫu thuật sọ não. Tại bệnh viện  Chợ Rẫy,  số  bệnh  nhi  nhập  viện  từ  tỉnh  cũng  chiếm tỷ lệ cao nhất 55,3%.  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  204 Phần  lớn bệnh nhân  tự đến bệnh viện hay  được chuyển từ bệnh viện tỉnh với tỷ lệ lần lượt  là 38,9% và 34,7%. Điều này cho thấy sau tai nạn  người  dân  có  thói  quen  tự  chuyển  bệnh  nhân  đến bệnh viện mà không chuyển đến cơ sở y tế  gần nhất  để  sơ  cứu hay gọi xe  cấp  cứu. Riêng  bệnh nhân ở  tỉnh vì quá xa nên phải đến bệnh  viện  tỉnh  sau  đó  được  chuyển  đến  bệnh  viện  Nhi Đồng 2.  Có 146 bệnh nhân chưa được xử trí gì trước  khi nhập viện chiếm tỷ lệ 40,9%. Tại các cơ sở y  tế,  tỷ  lệ  không  xử  trí  cao  nhất  trong  nhóm  chuyển đến từ trugn tâm y tế quận  là 31,3% kế  đến là từ các bệnh viện và phòng khám tư trong  thành phố với tỷ lệ 17%. Điều này có thể do các  cơ sở tuyến trước không có khả năng phẫu thuật  nên muốn chuyển lên tuyến trên càng sớm càng  tốt.  Tuy  nhiên  việc  không  xử  trí  trước  khi  chuyển có thể không đảm bảo an tòan cho bệnh  nhân trong thời gian chuyển viện.  Cơ chế chấn thương  Trong nghiên cứu chúng  tôi,  té ngã  (49,6%)  và  tai nạn giao  thông  (45,4%)  là 2  cơ  chế  chấn  thương thường gặp nhất. Chúng tôi nhận thấy ở  trẻ càng nhỏ  thì nguyên nhân chủ yếu  là do  té  ngã,  càng  lớn  thì  nguyên  nhân  do  TNGT  lại  chiếm ưu thế. Đối với trẻ nhỏ tỷ lệ đầu/toàn bộ  cơ thể lớn hơn trẻ lớn và thiếu niên nên khi bị té  ngã trong sinh họat hàng ngày thường đập đầu  xuống  trước  và  bị  chấn  thương  vùng  đầu,  trẻ  dưới  2  tuổi  khả  năng  chạy  nhảy  hay  leo  cầu  thang chưa vững nên cũng dễ bị té ngã. Đối với  trẻ lớn lại thường bị chấn thương đầu do tai nạn  giao  thông khi di chuyển  trên  đường cùng với  bố mẹ hay khi đi một mình. Trẻ  tham gia giao  thông cùng với bố mẹ nhưng thường không có  dây đeo bảo vệ trẻ nên khi bị tai nạn trẻ văng ra  khỏi xe và bị chấn thương.  Theo  nghiên  cứu  tại  bệnh  viện Nhi  Trung  Ương phương tiện gây tai nạn thường gặp nhất  là xe máy  (79,4%),  tuy nhiên hình  thức gây  tai  nạn  thường gặp nhất  là xe máy đụng người đi  bộ  (68,4%)(13). Theo nghiên  cứu  của BS Trương  Văn  Việt  tại  bệnh  viện  Chợ  Rẫy  cho  thấy  phương  tiện gây  tai nạn  thường gặp nhất  là xe  máy (79%), phương tiện của nạn nhân cũng là xe  máy chiếm đa số (81%)(20). Ngoài ra tỷ lệ đội nón  bảo  hiểm  rất  thấp  6,7%.  Điều  này  có  thể  giải  thích do phương tiện đi lại chủ yếu hiện nay là  xe máy và ý thức chấp hành luật giao thông của  người  dân  còn  hạn  chế  nên dễ  xảy  ra  tai  nạn  giao  thông  và  chấn  thương  đầu  do  không  sử  dụng  nón  bảo  hiểm. Ngoài  ra  các  phụ  huynh  chưa được hướng dẫn về cách phòng chống tai  nạn  thương  tích cho  trẻ nên  tỷ  lệ chấn  thương  do té ngã và tai nạn giao thông cao.  Tại Anh nguyên nhân  thường  gặp nhất  là  tai nạn khi đi bộ (36%). Tỷ lệ tử vong cao nhất  do  tai nạn xe máy 23%, đi bộ 12%, xe đạp 8%,  và  té  ngã  3%(17).  Tại  Mỹ  trong  nhóm  chấn  thương đầu nhẹ nguyên nhân thường gặp nhất  là té ngã 73%(18). Ở Đài Loan nguyên nhân chính  gây chấn thương là tai nạn giao thông chiếm tỷ  lệ 47,3% và té ngã 40,3%. Trong số nguyên nhân  do  tai nạn giao  thông,  chiếm  tỷ  lệ  cao nhất  là  chấn thương do xe máy, kế đến là chấn thương  do đi bộ và đi xe đạp(22).  Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  tỷ  lệ  đội  nón  bảo  hiểm  rất  thấp  5  ca  (12,5%),  gồm  1/19  trường hợp đội nón khi đi xe đạp, 4/21  trường  hợp đội nón khi đi xe gắn máy. Nghiên cứu của  Hồ Trí Hùng cũng cho kết quả tương tự chỉ có 1  ca đội nón bảo hiểm  trong số 32  trường hợp(9).  Điều này có thể giải thích do phương tiện đi lại  chủ yếu hiện nay là xe máy và ý thức chấp hành  luật giao thông của người dân còn hạn chế nên  dễ xảy ra tai nạn giao thông và chấn thương đầu  do  không  sử  dụng  nón  bảo  hiểm. Năm  2006,  trong một nghiên cứu về vai trò của đội nón bảo  hộ khi  đi xe  đạp  tại California. Người  ta nhận  thấy sau khi có qui định về đội nón bảo hộ có sự  thay đổi  trong  tỷ  lệ sử dụng  tăng  lên  từ 13,2%  lên  31,7%. Tỷ  lệ  sử dụng nón  tăng  trung  bình  mỗi năm là 43% trên người lớn và 84% ở trẻ em.  Chỉ  có 16,1% những nạn nhân bị  chấn  thương  đầu nặng sử dụng nón bảo hộ so với 28,2% trên  những  nạn  nhân  không  bị  chấn  thương  đầu  nặng với OR 0,43  (95% CI 0,28–0,66). Người  ta  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  205 cũng thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê  giữa việc sử dụng nón trước và sau qui định với  nguy cơ tổn thương đầu nặng với p = 0,194(10).  Có 91 ca tổn thương hộp sọ đơn thuần, trong  đó nứt sọ thường gặp nhất chiếm tỷ lệ 63,7%, kế  đến  lõm  sọ  30,7%. Kết quả này  cũng phù hợp  với  y  văn,  theo  tác  giả  Caviness  nứt  sọ  dạng  đường chiếm 75% các nứt sọ ở trẻ em(3). Nghiên  cứu  của Hồ Trí Hùng  cũng  cho kết quả  tương  tự, tỷ lệ nứt sọ đơn thuần là 63,4%, tỷ lệ lõm sọ  là 36,6%(9). Các tổn thương hộp sọ đơn thuần cho  thấy mặc dù nứt sọ là yếu tố nguy cơ cao của tổn  thương não nhưng vẫn có những trường hợp có  nứt sọ nhưng không có tổn thương nội sọ. Trong  nghiên cứu của chúng tôi tổn thương não có 138  ca chiếm tỷ lệ 38,7%, trong đó thường gặp nhất  là máu  tụ  ngoài màng  cứng  64,5%,  kế  đến  là  máu  tụ  dưới màng  cứng  15,9%. Trong  nghiên  cứu của Hồ Trí Hùng, tỷ lệ tổn thương nội sọ là  57,7%, trong đó máu tụ ngoài màng cứng chiếm  tỷ  lệ cao nhất 40,3%(9). Nghiên cứu của Trương  Văn Việt và Dương Minh Mẫn cho thấy, máu tụ  ngoài màng cứng chiếm 64,7% các trường hợp bị  máu tụ nội sọ(21).  Liên quan nguyên nhân  chấn  thương với  tổn thương não trên CT  Kết  quả nghiên  cứu  chúng  tôi  cho  thấy  có  liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa  tổn  thương  não trên CT với nguyên nhân gây chấn thương  (p < 0,05). Kết quả này cũng phù hợp với nghiên  cứu  của  nhiều  tác  giả  khác  như  Dunning,  Schutzman, Kupperman(6,18,12).  Trong nghiên cứu của Osmond, nguy cơ tổn  thương não càng tăng khi độ cao khi té càng lớn.  Nguy cơ tổn thương não trong nhóm té dưới 1m  OR=1, trong nhóm té 1‐3m OR 8,56 (4,44–16,50)  trong nhóm  té  cao  trên  3m  có OR  23,73  (9,51– 59,20)(14).  Qua  kết  quả  nghiên  cứu  chúng  tôi  nhận thấy có mối liên quan giữa độ cao và kiểu  té với tổn thương não trên CT. Độ cao càng lớn  thì  tỷ  lệ có  tổn  thương não càng nhiều. Chúng  tôi cũng nhận thấy có liên quan có ý nghĩa thống  kê giữa tổn thương não trên CT với tốc độ xe (p  < 0,05). Tỷ lệ tổn thương não trong nhóm xe có  tốc độ nhanh là 61,5% so với 36,2% trong nhóm  chạy chậm.  Tác giả Osmond  trong nghiên  cứu về  chấn  thương đầu ở Canada cũng đã phân tích yếu tố  đội nón bảo hiểm khi đi xe đạp, kết quả cho thấy  đội nón bảo hiểm làm giảm nguy cơ tổn thương  não 85% (OR 0,15 KTC 95% 0,03 – 0,68)(14). Trong  báo cáo tổng quan hệ thống đăng trong tạp chí  Cochrane,  tác  giả  Thompson  đã  nhận  xét  đội  nón bảo hiểm khi đi xe đạp  làm giảm nguy cơ  chấn thương đầu 85% và tổn thương não 88%(19).  Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 5 ca đội  nón bảo hiểm, điều này cho thấy ý thức đội nón  bảo hiểm  cho  trẻ nhỏ  của người dân khi  tham  gia giao thông vẫn không thay đổi đáng kể sau  khi có luật đội nón bảo hiểm.  Liên quan giữa tổn thương não trên CT và  các yếu tố lâm sàng  Theo AAP trong nhóm trẻ chấn thương đầu  nhẹ, tỷ lệ có tổn thương não khi có dấu hiệu mất  ý thức, nôn ói, co giật là 2‐5%. Tuy nhiên có rất  nhiều trẻ có ói sau chấn thương nhưng không có  tổn  thương  não. Một  số  tác  giả  cho  rằng  chỉ  những kiểu ói có nguy cơ cao bao gồm ói nhiều  lần, ói mạnh, hay ói vọt mới  có  liên quan  đến  tổn thương não(6,12). Kết quả nghiên cứu cho thấy  có mối liên quan giữa nhóm ói ≥ 3 lần, ói kéo dài  trên  6  giờ  với  tổn  thương  não  trên CT. Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  có  tổn  thương  não trong nhóm co giật rất cao 78,6% so với tỷ lệ  37%  trong  nhóm  không  có  co  giật.  Có  nhiều  nghiên  cứu  cho  những  kết  quả  khác  nhau  về  mối liên quan co giật với tổn thương não. Trong  nghiên cứu của Hahn và Dunning cho  thấy  có  mối liên quan giữa co giật với tổn thương não(6,8).  Tuy nhiên, nghiên cứu của Kimberly lại cho thấy  co  giật  không  phải  là  yếu  tố  nguy  cơ  của  tổn  thương não(11).   Trên  trẻ  dưới  2  tuổi  việc  chẩn  đoán  tổn  thương não dựa  trên các  triệu chứng  lâm sàng  thường gặp nhiều khó khăn. Trong nghiên cứu  của  chúng  tôi,  tỷ  lệ  có  tổn  thương  não  trong  nhóm có thay đổi hành vi rất cao 81% so với tỷ  lệ 30,7% trong nhóm không có thay đổi hành vi  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  206 và mối  liên quan này có ý nghĩa  thống kê  (p <  0,001).  Thay  đổi  hành  vi  là  yếu  tố  nằm  trong  nhóm  nguy  cơ  vừa  trong  phân  loại  của  Schutzman cho chỉ định chụp CT đầu ở trẻ dưới  2 tuổi(18).  Dấu  hiệu  kích  thích  kéo  dài  sau  chấn  thương đầu đôi khi bị các bác sĩ bỏ qua và cho  đó  là do  trẻ hoảng  sợ. Trong nghiên  cứu  của  Osmond  ở Canada,  nguy  cơ  tổn  thương  não  tăng khi  có dấu hiệu kích  thích OR  4,7  (KTC  95%  3,33  –  6,64)(14).  Trong  phân  loại  của  Schutzman,  dấu  hiệu  kích  thích  ở  trẻ  dưới  2  tuổi  được  xếp vào nhóm nguy  cơ  cao. Trong  nghiên cứu của chúng tôi, tỷ  lệ có tổn thương  não trong nhóm kích động là 66,7% so với tỷ lệ  30,2% trong nhóm không có kích động.   Đa số các tác giả cũng đều thống nhất có mối  liên quan giữa nguy cơ tổn thương não với mất  ý  thức  trên 5 phút, nhưng vẫn còn nhiều  tranh  cãi với mất ý  thức với  thời gian ngắn hơn, chủ  yếu là do khó khăn trong việc đánh giá nhất là ở  trẻ nhỏ(6,12). Nghiên cứu của Palchak MJ và cộng  sự cho  thấy mất ý  thức  đơn  thuần không kèm  triệu chứng khác thì không liên quan tổn thương  não(15). Nghiên cứu của Da Dalt cho thấy mất ý  thức  dưới  30  phút  thì  không  liên  quan  tổn  thương não(1). Điều này có  thể giải  thích mất ý  thức trong giai đoạn ngắn có thể là hậu quả của  phản ứng vagal với đau. Trong nghiên cứu của  chúng  tôi,  tỷ  lệ có  tổn  thương não  trong nhóm  mất ý thức kéo dài trên 5 phút rất cao 71,4% kế  đến là 57,1% trong nhóm mất ý thức kéo dài từ  1‐ 5 phút.  Qua y  văn  chúng  tôi nhận  thấy  có  các  kết  quả khác nhau về mối  liên quan giữa dấu hiệu  quên  sau  chấn  thương  và  tổn  thương  nội  sọ.  Nghiên  cứu  của  Kimberly  cho  thấy  không  có  mối  liên quan giữa  tổn  thương nội  sọ với dấu  hiệu quên sau chấn thương. Một số nghiên cứu  khác như của Dietrich và Da Dalt cho thấy lại có  sự liên quan giữa tổn thương nội sọ với dấu hiệu  quên  sau  chấn  thương(1,5). Trong phân  loại  của  Dunning, quên kéo dài trên 5 phút được xếp vào  nhóm có nguy cơ. Trong nghiên cứu của chúng  tôi,  tỷ  lệ  có  tổn  thương  não  trong  nhóm  quên  kéo dài  trên 5 phút  là  68,9% và mối  liên quan  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Không có sự  khác biệt đáng kể trong tỷ lệ tổn thương não của  nhóm quên nhỏ hơn 5 phút 39,3% và nhóm bình  thường 33,9%.  Nhức đầu là một yếu tố rất khó đánh giá ở  trẻ em. Trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi, dấu  hiệu nhức đầu chỉ đánh giá ở trẻ trên 2 tuổi có  khả năng diễn đạt được  tình  trạng này. Nhức  đầu cũng là một yếu tố thường gặp trong chấn  thương  đầu  nhẹ  với  tỷ  lệ  có  thể  lên  đến  45%(6,12).  Nghiên  cứu  của  Palchak  cho  thấy  nhức  đầu  là  yếu  tố  nguy  cơ  của  tổn  thương  não(15). Da Dalt  đưa  ra  nhận  xét  yếu  tố  nhức  đầu  chỉ  liên  quan  với  tổn  thương  nội  sọ  cho  những  trường  hợp  nhức  đầu  nhiều  và  kéo  dài(1). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ có  tổn thương não cao nhất trong nhóm nhức đầu  nặng 78,6% kế đến  là nhức đầu nhẹ 48,5% và  không nhức  đầu 27,6% và mối  liên quan này  có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).  Nghiên  cứu  trong  y  văn  chúng  tôi  nhận  thấy  điểm  Glasgow  là  phương  tiện  thường  dùng nhất để  tiên  lượng và đánh giá mức độ  nặng  của  chấn  thương  đầu(7).  Điểm Glasgow  thấp  biểu  hiện  cho  nguy  cơ  tổn  thương  não  đồng  thời cũng  là yếu  tố dự báo khả năng  tử  vong  cao  và  dự  hậu  xấu.  Trong  nghiên  cứu  chúng tôi cũng có sự liên quan điểm Glasgow  với  tổn  thương  não  trên  CT,  điểm  Glasgow  càng  thấp  thì  tỷ  lệ  tổn  thương não  càng  lớn.  Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy vẫn có  tổn  thương não  trong nhóm  chấn  thương  đầu  có  Glasgow 15 điểm. Trong nghiên cứu của Hahn  trên  791  trẻ  bị  chấn  thương  đầu  nhẹ,  7%  trẻ  chấn thương đầu nhẹ Glasgow 15 điểm có tổn  thương  choán  chỗ(8). Vì  thế  nếu  chỉ  đánh  giá  dựa  vào  điểm Glasgow  thì  có  thể  bỏ  sót  tổn  thương nội sọ.  Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 6 trường  hợp có dấu hiệu tri giác xấu dần và tất cả đều có  tổn thương não (100%). Nghiên cứu của Da Dalt  và Palchak cũng cho kết quả tương tự thay đổi  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Nhi  207 tri giác là một trong các yếu tố nguy cơ cao của  tổn thương não do chấn thương(1,15).  Dunning và các cộng sự cũng đã  thực hiện  nghiên cứu gộp của 16 nghiên cứu  trước đó về  các  yếu  tố  nguy  cơ  lâm  sàng  trên  trẻ  chấn  thương đầu nhẹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy có  sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa xuất huyết  nội sọ trên CT với dấu thần kinh định vị RR 9,43  (95% KTC 9,43 – 30,8)(6). Nhiều nghiên cứu của  các tác giả khác như Kimberly, Da Dalt, Dietrich  cũng cho thấy có liên quan nguy cơ tổn thương  nội  sọ với dấu  thần  kinh  định  vị(1,5,11). Kết  quả  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  tỷ  lệ  tổn  thương não trong nhóm có dấu  thần kinh định  vị  rất  cao  90,9%  so  với  tỷ  lệ  37%  trong  nhóm  không có dấu thần kinh định vị và mối liên quan  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).  Có những đánh giá khác nhau về liên quan  tổn thương nội sọ với tụ máu da đầu. Theo tác  giả Kimberly không có liên quan tổn thương nội  sọ với tụ máu da đầu trẻ dưới 2 tuổi(11). Greenes  đã thực hiện nghiên cứu trên 608 trẻ dưới 2 tuổi,  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy  tụ máu  da  đầu  đáng kể là yếu tố nguy cơ tổn thương nội sọ OR  4,65 (95% KTC: 2,00 – 10,79) đặc biệt  là  tụ máu  vùng  chẩm OR 38,2  (95% KTC: 12,5‐115,7) hay  tụ máu vùng thái dương OR 16 (95% KTC: 3,1‐ 85,2)(7). Nghiên cứu của Kuppermann cũng cho  thấy  ở  trẻ  dưới  2  tuổi  có  trạng  thái  tinh  thần  bình  thường sau chấn  thương, không có mất ý  thức hay mất ý  thức dưới  5 giây, không  có  tụ  máu da đầu ngoại trừ vùng trán, không có dấu  hiệu  nứt  sọ  hay  cơ  chế  chấn  thương  nặng  thì  không  có  nguy  cơ  tổn  thương  não  giá  trị  tiên  đoán âm  là 100%  (95% KTC 99,7‐100)(12). Trong  nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ tổn thương não  cao nhất  trong nhóm  tụ máu da đầu  trên 5 cm  ngoài vùng  trán 73,9% so với  tỷ  lệ 36,7%  trong  nhóm tụ máu da đầu vùng trán và 21,6% trong  nhóm không có  tụ máu da đầu. Mối  liên quan  này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).   KẾT LUẬN  Qua  nghiên  cứu  357  trường  hợp  chấn  thương đầu nhẹ ở trẻ em chúng tôi nhận thấy:  Tỷ lệ nam/nữ 1,4/1, lứa tuổi thường gặp nhất  là 3‐5 tuổi 35,3%.  Nhập  viện  đa  số  từ  tuyến  tỉnh  44,8%,  tuy  nhiên 40,9% trường hợp không được xử trí trước  khi nhập viện.   2 nguyên nhân hay gặp nhất là té ngã 49,6%  và tai nạn giao thông 45,4%. Xe máy là phương  tiện gây tai nạn thường gặp nhất 77,2%. Trẻ nhỏ  dưới  6  tuổi  thì nguyên nhân  chủ  yếu  là do  té  ngã,  trẻ  lớn hơn 6  tuổi  thì nguyên nhân do  tai  nạn giao thông lại chiếm ưu thế.   Kết  quả nghiên  cứu  chúng  tôi  cho  thấy  có  liên quan có ý nghĩa  thống kê giữa  tổn  thương  não trên CT với nguyên nhân gây chấn thương.  Có  liên quan giữa  tổn  thương não  trên CT với  độ cao khi  té và  tốc độ xe  (p < 0,05). Tỷ  lệ đội  nón bảo hiểm rất thấp 12,5%.  Qua phân tích chúng tôi nhận thấy có một  số  dấu  hiệu  lâm  sàng  có  liên  quan  đến  tổn  thương  nội  sọ  như:  Bất  thường  sau  6  giờ,  ói  trên 6 giờ, số đợt ói, thay đổi hành vi, co giật,  mất ý thức, quên sau chấn  thương, nhức đầu,  điểm Glasgow lúc nhập viện, tri giác xấu dần,  dấu  thần  kinh  định  vị,  bất  thường  đồng  tử,  kích động, tụ máu da đầu.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Alberto  GM  (2006).  Predictors  of  intracranial  injuries  in  children after blunt head trauma. Eur J Pediatr 165: pp 142– 148.   2. American Academy of Pediatrics (1999). The management of  minor closed head injury in children. Pediatrics, 104: pp 1407– 1415.   3. Bệnh viện Chợ Rẫy (2009). Báo cáo số liệu tai nạn giao thông  vào cấp cứu từ 01/06/08 – 30/06/09.   4. Caviness  AC  (2007).  Skull  fractures  in  children.UpToDate.  5. Dietrich AM, Bowman MJ, Ginn‐Pease ME, Kosnik E, King  DR (1993). Pediatric head injuries: can clinical factors reliably  predict  an  abnormality  on  computed  tomography?.  Ann  Emerg Med 22: pp 1535–1540.   6. Dunning,  J,  Daly  JP,  Lomas  JP  (2006).  Derivation  of  the  childrenʹs  head  injury  algorithm  for  the  prediction  of  important  clinical  events  decision  rule  for  head  injury  in  children. Arch Dis Child : pp 91‐885.  7. Greenes  D,  Schutzman  SA  (1999).  Clinical  indicators  of  intracranial  injury  in head‐injured  infants. Pediatric  104: pp  861–867.   8. Hahn YS, McLone DG (1993). Risk factors in the outcome of  children with minor head  injury. Pediatr Neurosurg  19: pp  135–142.   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Ngoại Nhi  208 9. Hồ Trí Hùng (2009). Nghiên cứu một số đặc điểm của chấn  thương sọ não trẻ em. Luận án Chuyên khoa cấp II. Đại học Y  Dược Thành phố Hồ Chí Minh.   10. Ji.M,  Gilchick  RA  (2006).  Trends  in  helmet  use  and  head  injuries  in  San Diego County:  The  effect  of  bicycle  helmet  legislation. Accident Analysis and Prevention 38: pp 128‐134.   11. Kimberly SQ, David MJ (1997). Diagnostic Testing for Acute  Head  Injury  in  Children:  When  Are  Head  Computed  Tomography  and  Skull  Radiographs  Indicated?.  Pediatrics;  Vol. 99 No. 5.   12. Kuppermann N, Holmes JF, Dayan PS, Hoyle JD Jr, Atabaki  SM  (2009).  Identification  of  children  at  very  low  risk  of  clinically‐important  brain  injuries  after  head  trauma:  a  prospective cohort study. Lancet 374: pp 1096‐1160.  13. Nguyễn Văn  Thắng, Nguyễn Ngọc Ánh  (2005).  Đặc  điểm  dịch tễ và thương tích do tai nạn giao thông trên trẻ em điều  trị nội trú tại bệnh viện Nhi Trung Ương 2002‐2004. Kỷ yếu  hội nghị khoa học quốc gia về phòng chống tai nạn thương  tích lần thứ nhất, tr 232‐243.   14. Osmond MH,  Klassen  TP,  Stiell  IG,  Correll  R  (2006).  The  catch  rule:  a  clinical decision  rule  for  the use  of  computed  tomography of the head in children with minor head injury”.  182(4): pp 341‐8.  15. Palchak MJ, Holmes  JF, Vance CW, Gelber ER, Shauer BA,  Harrison MJ, Willis‐Shore J, Wootton‐Gorges SL, Derlet RW,  Kupperman  N  (2004).  Does  an  isolated  history  of  loss  of  consciousness  or  amnesia  predict  brain  injuries  in  children  after blunt head trauma?. Pediatrics. 113, pp 507–513.   16. Phan Thanh Huyền  (2006).  Đánh  giá  xử  trí  ban  đầu  trong  chấn  thương  sọ não  theo phân nhóm Masters  tại khoa  cấp  cứu Bệnh viện Nhi Đồng 2 từ 2003‐2005. Tạp chí Y Học Việt  Nam, tập 332, tr 497‐508.  17. Rosenthal  BW,  Bergman  (1989).  Intracranial  injury  after  moderate head trauma in children. J Pediatr ; pp 115‐346.   18. Schutzman  S  (2010).  Minor  head  injury  in  infants  and  children. UpToDate.   19. Thompson DC, Rivara FP, Thompson RS (2003). Helmets for  preventing  head  and  facial  injuries  in  bicyclists  (Cochrane  Review).  The  Cochrane  Library,  Issue  1.  Update  Software  Ltd., Oxford.   20. Trương Văn Việt (2002). Các yếu tố nguy cơ gây chấn thương  sọ não do tại nạn giao thông tại Thành phố Hồ Chí Minh. Y  học Thành phố Hồ Chí Minh. Số 1 CĐ Ngoại thần kinh, tập 6,  tr 14‐20.   21. Trương Văn Việt, Dương Minh Mẫn (1993). Máu tụ nội sọ trẻ  em điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 1989 đến 1992. Hội  nghị khoa học lần thứ XV Khoa Y Đại học Y Dược Thành phố  Hồ Chí Minh, tr 115.   22. Tsai1 WC, Chiu WT (2004). Pediatric traumatic brain injuries  in Taiwan: An 8‐year study. Journal of Clinical Neuroscience  11(2): pp 126‐129.   23. Weiner HL, Weinberg JS (2000). Head  ịnury  in the pediatric  age group. In: Cooper PR, Golfinos JG. (eds). Head ịnjury. 4th  edition, Mc Graw‐Hill Companies, USA: pp 419‐455.   Ngày nhận bài       08/07/2013.  Ngày phản biện nhận xét bài báo  20/07/2013.  Ngày bài báo được đăng:    15–09‐2013 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_yeu_to_lam_sang_lien_quan_ton_thuong_noi_so_tren_tre_cha.pdf
Tài liệu liên quan