Các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thể thấp còi của học sinh tiểu học tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2014

Theo nhiều nghiên cứu tại nhiều địa phương cho thấy tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ em là rất cao lên đến 54,7%. Theo tác giả Lại Đức Trường, trẻ không tẩy giun đúng thời điểm làm tăng nguy cơ SDD gấp 2,9 lần so với nhóm trẻ có tẩy giun (p < 0,05). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ trẻ có tẩy giun trong 6 tháng là 81,8%, không tẩy giun là 18,2%. Kết quả cho thấy tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ không tẩy giun (7,3%) cao hơn nhóm có tẩy giun (3,1%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,012. Vậy trẻ không được tẩy giun có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn so với trẻ được tẩy giun mỗi 6 tháng. Sau khi tiến hành phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD, chúng tôi nhận thấy chỉ còn 4 yếu tố liên quan có ý nghĩa (p < 0,05) đến tình trạng SDD thấp còi của trẻ bao gồm: tuổi của con, nghề nghiệp của mẹ, lượng sữa uống trong tuần, tình trạng tẩy giun của trẻ.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thể thấp còi của học sinh tiểu học tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 95 CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SUY DINH DƯỠNG THỂ THẤP CÒI CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI THÀNH PHỐ MỸ THO TỈNH TIỀN GIANG NĂM 2014 Ngô Trọng Khánh* , Tạ Văn Trầm* TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thể thấp còi của học sinh tiểu học tại Thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2014. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Trẻ có độ tuổi càng nhỏ thì có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi càng thấp. Mẹ là nhân viên - viên chức, buôn bán thì con có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi thấp hơn mẹ là lao động tay chân hoặc nội trợ. Trẻ uống ít sữa có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn. Trẻ không được tẩy giun định kỳ mỗi 6 tháng/lần có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn so với trẻ có tẩy giun. Kết luận: Có mối liên quan giữa suy dinh dưỡng thể thấp còi với tuổi, nghề nghiệp mẹ, lượng sữa và tẩy giun. Từ khóa: Suy dinh dưỡng thể thấp còi. ABSTRACT FACTORS RELATED TO STUNTING AMONG PRIMARY SCHOOL STUDENTS IN MY THO CITY, TIEN GIANG PROVINCE IN 2014 Ngo Trong Khanh, Ta Van Tram * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 19 - No 3 - 2015: 95 - 101 Objectives: Determining factors related to stunting of elementary school students in My Tho city, Tien Giang province in 2014. Methods: Descriptive cross-sectional study. Results: The children who’s have ages smaller have the prevalence of stunting lower. Their mother is the staff - officials, business have the prevalence of stunting lower than labor or housework. Children drink little milk is higher stunting prevalence. Children who didn’t deworm regularly every 6 months had prevalence of stunting higher. Conclusion: There’re association between stunting with: age, mother's occupation, milk and deworming. Key words: Stunting. ĐẶT VẤN ĐỀ Dinh dưỡng là yếu tố nền tảng quyết định sự phát triển thể chất trí tuệ và tinh thần của trẻ trong tương lai. Thiếu dinh dưỡng xảy ra trong giai đoạn tiền dậy thì này sẽ làm các em chậm tăng trưởng, ảnh hưởng đến chiều cao khi trưởng thành (6). Trong tình hình xã hội chung hiện nay, nền kinh tế thị trường tác động mạnh mẽ đến sự phân hóa xã hội nên đã hình thành nên hai thái độ dinh dưỡng trái ngược nhau là thiếu và thừa dinh dưỡng và đều nguy hại như nhau. Bên cạnh tình trạng suy dinh dưỡng (SDD) vẫn * Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang Tác giả liên hệ: PGS.TS Tạ Văn Trầm ĐT: 0913771779 Email: tavantram@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Chuyên Đề Nhi Khoa 96 chiếm một tỉ lệ đáng kể cho dù đã cải thiện nhiều so với thời gian trước, thì đã xuất hiện và đang ngày càng phát triển tình trạng dư thừa dinh dưỡng dẫn đến TCBP. Có thể nói dinh dưỡng hợp lý là một hành lang an toàn nhỏ hẹp nằm giữa hai bờ vực thẳm của thiếu thốn và dư thừa. Vì vậy dinh dưỡng học đường là vấn đề cần quan tâm đặc biệt. Trên thế giới, tình trạng dinh dưỡng (TTDD) trẻ em nói chung và lứa tuổi học đường nói riêng đều có xu hướng giảm dần tỉ lệ SDD và tăng tỉ lệ TCBP. Tại Việt Nam, mô hình sức khỏe dinh dưỡng trẻ em cũng giống như các nước thu nhập thấp đó là đang chịu gánh nặng kép của thiếu dinh dưỡng và thừa dinh dưỡng. Tỉ lệ SDD nước ta giảm rõ rệt so với thập kỷ trước với tốc độ giảm nhanh đáng ghi nhận, nhưng tỉ lệ SDD thấp còi vẫn còn ở mức cao. Dinh dưỡng học đường chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức ảnh hưởng đến sự phát triển về tầm vóc nhất là chiều cao ở trẻ, đặc biệt đối với những trẻ bị SDD thấp còi khi nhỏ. Đến năm 2010, tỉ lệ SDD thấp còi lứa tuổi 5 - 10 tuổi là 23,4%, SDD gầy còm là 7,3% và tỉ lệ TCBP là 8,5%(10). Mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 tầm nhìn đến năm 2030 đối với lứa tuổi học đường là: “Giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng, cải thiện chiều cao, khống chế sự gia tăng của thừa cân béo phì ở các thành phố (TP) lớn”(1). Mục tiêu nghiên cứu Xác định các yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thể thấp còi của học sinh tiểu học tại Thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2014. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Tất cả học sinh đang học ở các trường tiểu học tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2014. Tiêu chí đưa vào Toàn bộ học sinh tiểu học đang học ở các lớp được chọn theo phương pháp chọn mẫu cụm trong các trường tiểu học tại TP Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2014. Tiêu chí loại trừ Học sinh có tên trong các lớp được chọn nhưng không đi học vào thời điểm thực hiện nghiên cứu; Học sinh không có địa chỉ cư trú ở Tiền Giang; Gia đình không đồng ý tham gia nghiên cứu, không phản hồi thông tin. Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Xử lý và phân tích dữ liệu Phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ Có 902 đối tượng tham gia nghiên cứu. Mối liên quan giữa SDD thấp còi với tuổi, giới, nơi cư trú và tổng số con trong gia đình Bảng 1: Mối liên quan SDD thấp còi với tuổi, giới, nơi cư trú, tổng số con Biến số Tổng số Thấp còi Mức ý nghĩa N % Tuổi: 6 154 2 1,3 χ 2 = 12,94 p = 0,016 7 184 5 2,7 8 180 3 1,7 9 159 10 6,3 10 195 14 7,2 11 30 1 3,3 Giới: Nam 430 12 2,8 χ 2 = 2,62 p = 0,106 Nữ 472 23 4,9 Nơi cư trú: Nội thành 518 16 3,1 χ 2 = 2,04 p = 0,153 Ngoại thành 384 19 5,0 Số con: 1 249 8 3,2 χ 2 = 1,56 p = 0,459 2 560 25 4,5 ≥ 3 93 2 2,2 Mẫu 902 35 3,9 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 97 Mối liên quan giữa SDD thấp còi với nghề nghiệp, học vấn của cha và mẹ Bảng 2: Mối liên quan giữa SDD thấp còi với nghề nghiệp, học vấn của cha và mẹ Biến số Tổng số Thấp còi Mức ý nghĩa N % Nghề nghiệp cha: Nhân viên 215 6 2,8 χ 2 = 0,83 p = 0,843 Buôn bán 157 6 3,8 Lao động 484 20 4,1 Nội trợ 20 1 5,0 Học vấn cha: Dưới cấp 3 428 17 4,0 χ 2 = 2,78 p = 0,249 Cấp 3 244 12 4,9 Trên cấp 3 204 4 2,0 Mẫu 876 33 3,8 Nghề nghiệp mẹ: Nhân viên 158 2 1,3 χ 2 = 8,65 p = 0,034 Buôn bán 155 2 1,3 Lao động 261 11 4,2 Nội trợ 321 18 5,6 Học vấn mẹ: Dưới cấp 3 473 21 4,4 χ 2 = 2,92 p = 0,232 Cấp 3 239 9 3,8 Trên cấp 3 183 3 1,6 Mẫu 895 33 3,7 Mối liên quan giữa SDD thấp còi với tình trạng kinh tế gia đình Bảng 3: Mối liên quan giữa SDD thấp còi với mức thu nhập trung bình Mức thu nhập Tổng số Thấp còi Mức ý nghĩa N % Hộ nghèo 18 2 11,1 χ 2 = 6,33 p = 0,176 Hộ cận nghèo 55 4 7,3 Trung bình 277 13 4,7 Khá 382 12 3,1 Giàu 170 4 2,3 Mẫu 902 35 3,9 Mối liên quan giữa SDD thấp còi với thói quen ăn chính, ăn sáng và lượng sữa uống trong tuần Bảng 4: Mối liên quan giữa SDD thấp còi với thói quen ăn chính, ăn sáng và lượng sữa uống trong tuần Biến số Tổng số Thấp còi Mức ý nghĩa N % Ăn chính: < 2 lần 44 3 6,8 χ 2 = 1,07 p = 0,585 2-3 lần 620 23 3,7 Biến số Tổng số Thấp còi Mức ý nghĩa N % > 3 lần 238 9 3,7 Ăn sáng: Luôn luôn 797 27 3,4 Fisher’s Exact p = 0,041 Thỉnh thoảng/không 105 8 7,6 Lượng sữa trung bình (ml): Thấp còi 35 667,1 ± 621,6 T-test p = 0,006 Không thấp còi 867 1081,3 ± 938,8 Mẫu 902 35 3,9 Mối liên quan giữa SDD thấp còi với tình trạng chủng ngừa, tẩy giun, số lần mắc bệnh Bảng 5: Mối liên quan giữa SDD thấp còi với tình trạng chủng ngừa, tẩy giun, số lần mắc bệnh Biến số Tổng số Thấp còi Mức ý nghĩa N % Chủng ngừa: Đầy đủ 823 29 3,5 χ 2 = 7,06 p = 0,029 Không đầy đủ 48 2 4,2 Không chủng ngừa 31 4 12,9 Số lần mắc bệnh: ≤ 2 lần/năm 819 28 3,4 χ 2 = 5,08 p = 0,024 > 2 lần/năm 83 7 8,4 Tình trạng tẩy giun: Tẩy giun: Có 738 23 3,1 χ 2 = 6,35 p = 0,012 Không 164 12 7,3 Mẫu 902 35 3,9 Bảng 6: Phân tích đa biến các yếu tố liên quan với SDD thấp còi Biến số Mức ý nghĩa Tuổi con p = 0,002 Nghề nghiệp của mẹ p = 0,005 Ăn sáng p = 0,125 Lượng sữa uống p = 0,017 Tình trạng chủng ngừa p = 0,074 Số lần mắc bệnh p = 0,062 Tẩy giun p = 0,018 BÀN LUẬN Tuổi Theo kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010, ở nhóm trẻ dưới 5 tuổi, trong vòng 10 năm tỉ lệ SDD thấp còi giảm có ý nghĩa đến 32% so với năm 2000. Tỉ lệ SDD thấp còi giảm với tốc độ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Chuyên Đề Nhi Khoa 98 là 1,4% mỗi năm và khi tỉ lệ SDD càng thấp thì tốc độ giảm càng chậm. Tỉ lệ SDD gầy còm tuy có giảm nhưng không có tiến triển đáng kể(10). Tỉ lệ SDD thấp còi giảm dần khi độ tuổi càng nhỏ: cao nhất ở nhóm 10 tuổi (7,2%) và thấp nhất ở nhóm 6 tuổi (1,3%). Sự khác biệt giữa tỉ lệ SDD thấp còi ở các nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê với p = 0,016. Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Vân năm 2005 với tỉ lệ SDD ở nhóm 6 - 8 tuổi (4,5%) thấp hơn nhóm 9 - 10 tuổi (7,7%)(7). Kết quả này phù hợp với xu hướng giảm tỉ lệ SDD thấp còi và cải thiện chiều cao của người Việt Nam. Giới Theo tác giả Don B., tỉ lệ SDD thấp còi, nhẹ cân ở nam đều cao hơn nữ ở hầu hết các quốc gia có thu nhập thấp trên thế giới(3). Tại Việt Nam, ở trẻ dưới 5 tuổi, tỉ lệ SDD thấp còi và gầy còm ở nam đều cao hơn nữ. Tuy nhiên sự khác biệt về giới này không có ý nghĩa thống kê(10). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ SDD thấp còi ở nữ (4,9%) nhiều hơn nam (2,8%). Tuy nhiên sự khác biệt về tỉ lệ SDD thấp còi giữa nam và nữ không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Theo nghiên cứu của tác giả Đặng Văn Chính và cộng sự thực hiện từ năm 1992 đến năm 2000(2), chiều cao trung bình ở nam lứa tuổi 6 - 15 tăng nhanh hơn nữ (0,54 cm/năm so với 0,46 cm/năm) có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Do đó, học sinh nam sẽ có tốc độ cải thiện chiều cao nhanh hơn nữ nên tỉ lệ SDD thấp còi ở nam ngày càng giảm dần khi trẻ lớn lên và thấp hơn nữ. Tổng số con trong gia đình Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, tỉ lệ SDD ở trẻ tỉ lệ thuận với số con trong gia đình. Theo nghiên cứu của tác giả Lại Đức Trường, gia đình đông con là yếu tố nguy cơ của SDD ở trẻ. Trẻ sống trong gia đình có từ 3 con trở lên có nguy cơ bị SDD gấp 2,9 lần so với trẻ sống trong gia đình chỉ có từ 1 - 2 con (p < 0,05) (4). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ SDD thấp còi cao nhất ở nhóm gia đình có 2 con (4,5%), thấp nhất ở gia đình có 3 con (2,2%) và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong những năm gần đây, nhờ thực hiện tốt chính sách kế hoạch hóa gia đình nên tỉ lệ gia đình sinh con thứ 3 khá thấp (10% trong nghiên cứu của chúng tôi). Các gia đình có ít con nên tình trạng đói ăn là rất hiếm, nên tỉ lệ SDD ở các gia đình này không có sự khác biệt. Nơi cư trú Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010, tỉ lệ SDD ở các TP lớn thấp hơn có ý nghĩa so với với nông thôn. Trong khi đó, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ SDD ở các TP nhỏ với nông thôn(10). Trong nghiên cứu của chúng tôi, nơi cư trú của trẻ được chia theo khu vực hành chính của TP Mỹ Tho với tỉ lệ trẻ ở khu vực nội thành và ngoại thành tương ứng là 57,4% và 47,6%. Trong đó, tỉ lệ trẻ SDD thấp còi ở ngoại thành (5,0%) cao hơn nội thành (3,1%) và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). So với kết quả tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010, kết quả này cũng khá phù hợp do chúng tôi so sánh 2 đối tượng trong cùng một TP do đó sự phân hóa về kinh tế không rõ rệt nên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tình trạng kinh tế gia đình Tình trạng kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của từng hộ gia đình do đó cũng góp phần không nhỏ quyết định TTDD của trẻ. Các nghiên cứu cho thấy ở khu vực nông thôn - nơi mà có mức thu nhập thấp và tỉ lệ hộ nghèo còn cao, thì tỉ lệ SDD còn ở mức cao(10). Ngược lại, ở thành thị - nơi có mức sống và thu nhập cao hơn thì tình trạng SDD giảm thấp và tỉ lệ TCBP gia tăng đáng báo động(9). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ hộ nghèo thấp (2%), phần lớn có mức thu nhập từ trung bình trở lên (91,9%). Trong đó tỉ lệ SDD thấp còi giảm khi tình trạng kinh tế gia đình càng cao. Tỉ lệ SDD thấp còi ở hộ nghèo cao nhất (11,1%), cận nghèo (7,3%), hộ có thu nhập trung bình (4,7%), hộ có thu nhập khá (3,1%) và thấp nhất ở hộ có thu nhập cao (2,3%). Tuy nhiên, sự Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 99 khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỉ lệ hộ nghèo (2,0%) và cận nghèo (6,1%) trong nghiên cứu của chúng tôi thấp nên tình trạng đói ăn và thiếu lương thực rất hiếm. Do đó không tìm thấy ảnh hưởng của sự phân hóa nền kinh tế đến tình trạng SDD thấp còi một cách có ý nghĩa trong nghiên cứu này. Nghề nghiệp Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh, nghề nghiệp của cha và mẹ đều ảnh hưởng đến TTDD của trẻ. Những trẻ có cha, mẹ làm nông nghiệp có tỉ lệ SDD cao hơn có ý nghĩa so với con của cha, mẹ làm nghề khác (p < 0,05) (8). Nghề nghiệp của cha Trong nghiên cứu chúng tôi, nghề nghiệp của cha không liên quan đến tình trạng SDD thấp còi. Tỉ lệ SDD thấp còi tăng dần theo các nhóm nghề của cha lần lượt là nhân viên - viên chức (2,8%), buôn bán (3,8%), lao động tay chân (4,1%), nội trợ (5,0%). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nghề nghiệp của mẹ Trong nghiên cứu chúng tôi, nghề nghiệp của mẹ liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng SDD thấp còi ở trẻ. Trẻ có mẹ thất nghiệp hoặc làm nội trợ có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn (4,2% và 5,6%) và thấp nhất ở nhóm trẻ có mẹ là nhân viên, buôn bán (1,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa p = 0,034. Mẹ thất nghiệp hoặc công việc không ổn định sẽ làm kinh tế gia đình khó khăn hơn, đời sống vật chất và tinh thần bị ảnh hưởng nên trẻ có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn. Trình độ học vấn Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh, trình độ văn hóa của mẹ và cha ảnh hưởng đến tình trạng SDD của trẻ (p < 0,05). Mẹ không biết chữ hoặc mới học hết cấp 1 thì con của họ có tỉ lệ SDD cao nhất lên đến 30%(8). Trình độ học vấn của cha Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, không có mối liên quan giữa trình độ học vấn của cha với tình trạng SDD thấp còi. Tỉ lệ SDD thấp còi ở nhóm trẻ có cha có trình độ học vấn dưới cấp 3, cấp 3, trên cấp 3 lần lượt là 4,0%, 4,9%, 2,0% và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Trình độ học vấn của mẹ Trong nghiên cứu của chúng tôi, trình độ học vấn của mẹ càng thấp thì tỉ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ tăng. Tỉ lệ SDD ở con của các bà mẹ có trình độ học vấn dưới cấp 3, cấp 3 và trên cấp 3 lần lượt là 4,4%, 3,8%, 1,6% và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Số bữa ăn chính trong ngày Để cung cấp đủ năng lượng cho mọi hoạt động, cơ thể chúng ta không những cần cung cấp đủ về số lượng mà còn về chất lượng thức ăn. Để đánh giá được vấn đề này phải thông qua điều tra khẩu phần, chế độ ăn của trẻ. Tuy nhiên, để đánh giá bước đầu, chúng tôi thực hiện điều tra khẩu phần theo tần số các bữa ăn trong ngày. Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mai Anh, trẻ có số bữa ăn chính thấp, không ăn bữa ăn phụ có nguy cơ SDD từ 3 - 3,6 lần so với trẻ có ăn thêm bữa ăn phụ (p < 0,05). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ trẻ ăn từ 2 lần/ngày trở lên là 95,1%, tỉ lệ trẻ ăn dưới 2 lần/ngày thấp (4,9%). Ở nhóm trẻ có tần suất ăn dưới 2 lần/ngày đều có tỉ lệ SDD thấp còi cao nhất (6,8%), trong khi đó trẻ ăn trên 3 lần/ngày có tỉ lệ SDD thấp nhất (3,7%). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Do đó bên cạnh số lượng bữa ăn thì chất lượng bữa ăn cũng là yếu tố cần quan tâm để có thể giảm tỉ lệ SDD một cách có ý nghĩa. Thói quen ăn sáng Bữa ăn sáng là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày vì nó cung cấp năng lượng cho cơ thể sau một đêm dài không thu nhận thức ăn. Chất lượng bữa ăn sáng quyết định hiệu quả làm việc của một ngày, do đó bữa ăn sáng có vai trò rất quan trọng. Theo tác giả Nguyễn Thị Mai Anh, trẻ không ăn sáng hàng ngày có Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Chuyên Đề Nhi Khoa 100 nguy cơ SDD thấp còi cao hơn 3,8 lần so với trẻ có ăn sáng (p < 0,001). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ trẻ luôn ăn sáng là khá cao (88,4%), tỉ lệ không ăn sáng là rất thấp (0,8%). Theo kết quả này, ở nhóm trẻ luôn ăn sáng có tỉ lệ SDD thấp còi thấp hơn (3,4%) nhóm trẻ không hoặc thỉnh thoảng ăn sáng (7,6%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,041). So với nghiên cứu của tác giả Lại Đức Trường trẻ không ăn sáng có nguy cơ SDD cao hơn so với trẻ có ăn sáng thì kết quả chúng tôi cũng phù hợp (4). Lượng sữa uống trong tuần Việc bổ sung sữa làm cải thiện đáng kể tình trạng SDD thấp còi ở trẻ, do đó đề án sữa học đường đã được nghiên cứu và đang áp dụng ở một số địa phương cho thấy hiệu quả tích cực. Trong nghiên cứu về khẩu phần và chế độ ăn của tác giả Lại Đức Trường cho thấy bữa ăn của trẻ ít có các thực phẩm giàu đạm, béo và ít sữa làm tăng nguy cơ SDD. Do đó việc bổ sung sữa cho trẻ là cần thiết. Xét về lượng sữa trung bình, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy lượng sữa uống trung bình trong tuần ở nhóm SDD thấp còi (667,7 ± 621,6 ml/tuần) thấp hơn nhóm không SDD thấp còi (1081,3 ± 938,8 ml/tuần) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,006). Do đó bổ sung sữa góp phần cải thiện chiều cao và giảm tỉ lệ SDD thấp còi của trẻ. Tình trạng chủng ngừa Chương trình tiêm chủng mở rộng đã và đang phát huy hiệu quả bảo vệ sức khỏe cho trẻ dưới 5 tuổi. Do đó chủng ngừa đầy đủ từ bé nhằm bảo vệ trẻ trong những năm đầu đời khỏi bệnh tật và góp phần giảm tình trạng SDD. Trong nghiên cứu chúng tôi, tỉ lệ trẻ được chủng ngừa đầy đủ, không đầy đủ và không chủng ngừa lần lượt là 91,2%, 5,3%, 3,5%. Trong đó tỉ lệ trẻ SDD thấp còi ở nhóm chủng ngừa đầy đủ thấp nhất (3,5%) và tăng dần ở nhóm chủng ngừa không đầy đủ (4,2%), cao nhất ở nhóm trẻ không chủng ngừa (12,9%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,029). Tình trạng chủng ngừa có mối liên quan và góp phần làm giảm tỉ lệ SDD của trẻ. Tình trạng mắc bệnh Có 9,2% số học sinh trong nghiên cứu chúng tôi mắc bệnh trên 2 lần trong năm Tỉ lệ SDD thấp còi ở nhóm trẻ này (8,4%) cao hơn ở nhóm mắc bệnh từ dưới 2 lần/năm (3,4%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,024). Vậy những trẻ mắc bệnh trên 2 lần/năm có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn so với những trẻ mắc bệnh từ dưới 2 lần/năm. Tình trạng tẩy giun Theo nhiều nghiên cứu tại nhiều địa phương cho thấy tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ em là rất cao lên đến 54,7%. Theo tác giả Lại Đức Trường, trẻ không tẩy giun đúng thời điểm làm tăng nguy cơ SDD gấp 2,9 lần so với nhóm trẻ có tẩy giun (p < 0,05). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ trẻ có tẩy giun trong 6 tháng là 81,8%, không tẩy giun là 18,2%. Kết quả cho thấy tỉ lệ SDD thấp còi ở trẻ không tẩy giun (7,3%) cao hơn nhóm có tẩy giun (3,1%) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,012. Vậy trẻ không được tẩy giun có tỉ lệ SDD thấp còi cao hơn so với trẻ được tẩy giun mỗi 6 tháng. Sau khi tiến hành phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến tình trạng SDD, chúng tôi nhận thấy chỉ còn 4 yếu tố liên quan có ý nghĩa (p < 0,05) đến tình trạng SDD thấp còi của trẻ bao gồm: tuổi của con, nghề nghiệp của mẹ, lượng sữa uống trong tuần, tình trạng tẩy giun của trẻ. KẾT LUẬN Tuổi Trẻ có độ tuổi càng nhỏ thì có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi càng thấp (p = 0,016). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 19 * Số 3 * 2015 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 101 Nghề nghiệp của mẹ Mẹ là nhân viên - viên chức, buôn bán thì con có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi thấp hơn mẹ là lao động tay chân hoặc nội trợ (p = 0,034). Lượng sữa uống trong tuần Trẻ uống ít sữa có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn (p = 0,006). Tẩy giun Trẻ không được tẩy giun định kỳ mỗi 6 tháng/lần có tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn so với trẻ có tẩy giun (p = 0,012). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế, Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2012), Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Nhà xuất bản Y học Hà Nội. 2. Đặng Văn Chính (2010), "Những nghiên cứu ban đầu về BMI ở trẻ em Việt Nam: những thay đổi trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế từ 1992-2000", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 14, phụ bản số 2, tr. 354-359. 3. Don B. et al (2002), School-Age Children: Their Nutrition and Health. The Partnership for Child Development. 4. Lại Đức Trường (2004), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố nguy cơ suy dinh dưỡng ở học sinh tiểu học huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên năm 2004, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y tế Công cộng. 5. Lê Thị Tuyết, Vũ Thị Bình Phương (2007), "Thực trạng nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo và hiệu quả can thiệp ở một số xã huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tập 11, phụ bản số 2, tr. 31-38. 6. Ngô Thị Kim Nhung (2006), Bệnh Suy dinh dưỡng, Nhi khoa Chương trình Đại học tập 1, Nhà xuất bản Y học TP. Hồ Chí Minh, tr. 132-147. 7. Nguyễn Thị Kim Vân (2005), Tình trạng dinh dưỡng và một số bệnh lý thường gặp ở học sinh trường tiểu học Nguyễn Tạo thành phố Cà Mau năm 2005, Luận văn Chuyên khoa Cấp II, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 8. Nguyễn Thị Mai Anh (2006), Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của học sinh 6 - 8 tuổi trường tiểu học Yên Thường thành phố Hà Nội năm 2006, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y tế Công cộng. 9. Trần Phương Bình (2012), Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến thừa cân béo phì ở các trẻ mẫu giáo 4 - 6 tuổi tại thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang năm 2012, Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 10. Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2010), Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010, Nhà xuất bản Y học Hà Nội. Ngày nhận bài báo: 09/02/15. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 13/02/15. Ngày bài báo được đăng: 22/06/15.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_yeu_to_lien_quan_den_suy_dinh_duong_the_thap_coi_cua_hoc.pdf
Tài liệu liên quan