Các yếu tố nguy cơ của các bệnh không lây (tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2) ở người lớn tỉnh Bình Dương, năm 2006-2007

KẾT LUẬN Nghiên cứu cho các kết quả sau: Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh THA các yếu tố có uống rượu bia trong 12 tháng qua và tần suất uống rượu bia thường xuyên, tỷ lệ béo phì và béo bụng, ăn mặn (được người khác cho là ăn mặn) là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhóm bệnh THA có uống rượu bia trong 12 tháng qua cao hơn nhóm chứng (OR=2,16 KTC 95% = 1,05-4,71, p=0,02). Nhóm bệnh THA có tần suất uống rượu bia thường xuyên cao hơn nhóm chứng (OR=3,5 KTC 95%=1,36-10,5, p=0,004). Nhóm bệnh THA có chỉ số BMI>= 23 cao hơn nhóm chứng (OR=3,5 KTC 95%=2,04-6,28, p=0,0001). Nhóm bệnh THA có chỉ số vòng eo/mông cao hơn nhóm chứng (OR=2,08 KTC 95%=1,24- 3,59, p=0,003). Nhóm bệnh THA ăn mặn hơn so với nhóm chứng (p=0,004). Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh ĐTĐ, các yếu tố uống rượu bia hàng ngày, béo phì là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhóm bệnh ĐTĐ có tỉ lệ uống rượu bia trong 12 tháng qua cao hơn nhóm chứng (OR=2,18 KTC 95%=1,02-4,9, p=0,02). Nhóm bệnh ĐTĐ có tần suất uống rượu bia thường xuyên cao hơn nhóm chứng (OR=7,5 KTC 95%=1,74-67,59, p=0,0016). Nhóm bệnh ĐTĐ có bị béo phì (BMI>=23) cao hơn nhóm chứng (OR=2,86 KTC 95% =1,7- 4,8, p= 0,0001). Nhóm bệnh ĐTĐ có chỉ số vòng eo/vòng mông cao hơn so với nhóm chứng (OR= 10,6 KTC 95%=4,2-33,9, p=0,00001).

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 210 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố nguy cơ của các bệnh không lây (tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2) ở người lớn tỉnh Bình Dương, năm 2006-2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA CÁC BỆNH KHÔNG LÂY (TĂNG HUYẾT ÁP, ÐÁI THÁO ÐƯỜNG TÝP 2) Ở NGƯỜI LỚN TỈNH BÌNH DƯƠNG, NĂM 2006-2007 Lê Hoàng Ninh*, Đinh Văn Khai**, Nguyễn Văn Hóa***, Nguyễn Thị Hiền****, Phùng Đức Nhật* và cộng sự, TÓM TẮT Đặt vấn đề: Bệnh mạn tính không lây đang tăng nhanh gồm các bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương và các bệnh liên quan sức khỏe tâm thần. Các yếu tố liên quan của các bệnh không lây là lối sống, thói quen ăn uống, vận động. Nghiên cứu này dùng thiết kế nghiên cứu phân tích (bệnh chứng) để xác định các yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường tại tỉnh Bình Dương, đại diện khu vực Đông Nam Bộ. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát mối liên quan của các yếu tố nguy cơ trên các bệnh mạn tính không lây (tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2) ở người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương năm 2006-2007. Đối tượng và Phương pháp: Nghiên cứu bệnh chứng bắt cặp theo tuổi và giới cho 704 trường hợp được chọn tại 3 bệnh viện điều trị tại tỉnh Bình Dương. Có 176 trường hợp tăng huyết áp và 176 ca chứng, 176 trường hợp đái tháo đường týp 2 và 176 ca chứng. Kết quả: Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh THA các yếu tố có uống rượu bia trong 12 tháng qua và tần suất uống rượu bia thường xuyên, tỷ lệ béo phì và béo bụng, ăn mặn (được người khác cho là ăn mặn) là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh ĐTĐ, các yếu tố uống rượu bia hàng ngày, béo phì là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy độ mạnh mối liên quan giữa các hành vi uống rượu bia, ăn mặn với nguy cơ bệnh tăng huyết áp, mối liên quan giữa hành vi uống rượu bia với nguy cơ bệnh đái tháo đường týp 2, mối liên quan chỉ số nhân trắc BMI với hai bệnh trên. ABSTRACT RISK FACTORS OF NON-COMMUNICABLE DISEASES (HYPERTENSION, TYPE-2 DIABETES) IN ADULT (≥ 30 YEARS OLD) IN BINH DUONG PROVINCE, IN 2006-2007 Le Hoang Ninh, Đinh Van Khai, Nguyen Van Hoa, Nguyen Thi Hien, Phung Đuc Nhat et al., * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 95 - 101 Introduction: Non-communicable diseases emerging fastly including vardio-vascular diseases, diabetes, cancer, osteomalacia and mental health related diseases. Risk factors for these diseases are lifestyle, eating habit, physical activity. This study is a case-control study aim to deteermine the strength of relationships between those risk factors with hypertension, type 2 diabetes in Binh Duong province in East Southern region. Objective: determine the relationships between risk fators and non-communicable diseases such as hypertension, type 2 diabetes in adult from and above 30 years old in Binh Duong province, in 2006-2007. Materials and Methodology: age and gender matched case control study recruited 704 individuals in three hospitals in Binh Duong province, including 176 hypertensives and controls, 176 type 2 diabetes cases and controls. * Viện Vệ sinh Y tế công cộng, TP. Hồ Chí Minh **.BV. Đa khoa tỉnh Bình Dương, *** BV. Điều dưỡng và Phục hồi chức năng tỉnh Bình Dương, ****.BV. Đa khoa huyện Thuận An Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Results: In hypertensives and controls alcohol consumption and high frequent of alcohol use, salty eating habit are risk factors, in type 2 diabetic cases and controls daily alcohol consumption is risk factor. In both types of diseases, overweight is a strong risk factor. Conclusion: The study determines the strength of relationship of alcohol consumption, salty eating habit and high risk of hypertension; alcohol consumption and high risk of type 2 diabetes and the relationship of overweight with both hypertension and type 2 diabetes. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh mạn tính không lây đang tăng nhanh trên toàn thế giới bao gồm các bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương và các bệnh liên quan sức khỏe tâm thần. Các bệnh mạn tính đang đã được tính toán là đóng góp vào khoảng 60% của 56,5 triệu ca tử vong được báo cáo trên khắp thế giới và khoảng 46% gánh nặng toàn cầu năm 2001(19). Tỷ lệ gánh nặng của các bệnh mạn tính được ước tính sẽ tăng lên tới 67% vào năm 2020. Gần một nửa tổng số ca tử vong do các bệnh mạn tính là do các bệnh tim mạch. Đái tháo đường cũng cho thấy một xu hướng đáng lo ngại, không chỉ bởi các bệnh này ảnh hưởng một bộ phân lớn dân cư, mà còn vì chúng đã được bắt đầu xuất hiện sớm hơn trong cuộc đời(1,(12). Tổ chức Y tế Thế giới cũng phát hiện các yếu tố liên quan của các bệnh không truyền nhiễm (bệnh tim, đột quị, tiểu đường, ung thư và bệnh hô hấp) đã được ghi nhận như lối sống, thói quen ăn uống, vận động ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trên thế giới(17,18). Trên thế giới hiện nay, bệnh đái tháo đường týp 2 phát triển rất nhanh. Bệnh có xu hướng tăng rõ rệt theo thời gian và sự tăng trưởng kinh tế, ở các nước công nghiệp phát triển, đái tháo đường týp 2 chiếm tới 70-90% tổng số bệnh nhân bị đái tháo đường. Tại châu Á, tuỳ thuộc vào tốc độ phát triển kinh tế mà tỷ lệ mắc bệnh khác nhau: Hàn quốc 2%, Malaysia 3%, Thái lan 3,5%, Philippinnes 4,2% ở người trên 30 tuổi. Tại Singapore năm 1975 tỷ lệ mắc bệnh là 1,9% đến năm 1984 là 4,7%, năm 1992 là 8,6% và đến năm 1998 tỷ lệ này lên tới 9%. Nguy cơ của các bệnh này cũng là do lối sống, thói quen ăn uống và vận động(3,15,16). Sự bùng nổ của các bệnh mãn tính không lây đang xảy ra ở các nước Nam Á trong đó có Việt nam. Trong hơn thập kỷ gần đây, các bệnh không nhiễm trùng mãn tính có chiều hướng gia tăng rõ rệt(5,6,7,9). Theo số liệu thống kê cuả Bộ Y tế, năm 2003, các bệnh này chiếm đến 64 % trong cấu hình bệnh tật tại Việt Nam. Xu thế gia tăng này so với các nước trong khu vực, các nước có điều kiện kinh tế giống Việt Nam, thì các bệnh không lây mãn tính tại Việt Nam có xu thế tăng rất nhanh(1,8). Sự gia tăng này do tỷ lệ người lớn tuổi ngày một gia tăng trong dân số, tình trạng kinh tế được cải thiện rõ rệt, một số hộ gia đình từ nghèo đói chuyển qua sung túc khá nhanh nhưng nhưng hành vi văn hoá về mặt sức khoẻ chuyển biến không theo kịp với những thay đổi do kinh tế mang lại, trở thành những rào cản, những yếu tố bất lợi về mặt sức khoẻ một bộ phận dân cư. Do vậy, các bệnh mãn tính sẽ là vấn đề sức khoẻ cộng đồng mà hệ thống y tế phải đối phó trong nhiều thập niên tới. Có khá nhiều nghiên cứu được thiết kế theo kiểu điều tra cắt ngang, nhằm xác định tầm vóc một số bệnh mãn tính không lây như huyết áp cao, tiểu đường(2,4,11,13). Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa tìm thấy nghiên cứu nào dùng thiết kế phân tích để xác định các yếu tố nguy cơ mắc các bệnh mãn tính, bệnh huyết áp cao và tiểu đường tại các tỉnh phía Nam. Ðây chính là nền tảng cho việc xác định vấn đề nghiên cứu này. Kết quả có được từ công trình này sẽ là chứng cứ khoa học cho những chương trình can thiệp về sau. Can thiệp trên những yếu tố nguy cơ này là cơ sở góp phần vào việc hạ thấp, khống chế các bệnh mãn tính không lây, làm tăng chất lượng cuộc sống Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học người dân nói chung đặc biệt là những người cao tuổi tại Việt Nam. Câu hỏi nghiên cứu Hút thuốc, uống rượu, thói quen ăn uống, thói quen vận động có là các yếu tố nguy cơ của các bệnh không lây Tăng huyết áp, Đái tháo đường týp 2? Các Chỉ số nhân trắc và Chỉ số sinh hóa có liên quan thế nào đến các bệnh không lây Tăng huyết áp, Đái tháo đường týp 2? Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Khảo sát vai trò cuả các yếu tố nguy cơ trên các bệnh mãn tính không lây (tăng huyết áp, tiểu đường týp 2) ở người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương năm 2006. Mục tiêu cụ thể Xác định vai trò cuả các yếu tố sau đây trên nguy cơ mắc bệnh tăng huyết áp ở người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương: hút thuốc, uống rượu, thói quen ăn uống, thói quen vận động, các chỉ số nhân trắc Xác định vai trò cuả các yếu tố sau đây trên nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở người lớn (≥ 30 tuổi) tại tỉnh Bình Dương: hút thuốc, uống rượu, thói quen ăn uống, thói quen vận động, các chỉ số nhân trắc ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu bệnh chứng được thực hiện tại tỉnh Bình Dương từ 12/2005-07/2007, 1 nghiên cứu bệnh - chứng với bệnh tăng huyết áp và 1 nghiên cứu bệnh chứng với bệnh đái tháo đường týp 2. Dân số nghiên cứu Người lớn (≥ 30 tuổi) có hộ khẩu cư trú (cho cả nhóm bệnh và nhóm chứng) đang điều trị và sinh sống tại tỉnh Bình Dương. Cách chọn mẫu Đây là một thiết kế nghiên cứu bệnh chứng. Trong đó: Ca Bệnh: Các ca bệnh sẽ được chọn từ các đối tượng đã khám, chẩn đoán và điều trị hoặc huyết áp, hoặc tiểu đường tại các cơ sở y tế của tỉnh Bình Dương (bao gồm cả nội và ngoại trú). Ca Chứng: Các trường hợp đến khám tổng quát tại các cơ sở y tế cuả tỉnh Bình Dương, được đưa vào nhóm chứng khi được xác định là không có tiền sử tiểu đường, huyết áp hiện đang dùng thuốc, hoặc không dùng thuốc. Mặt khác, các ca bệnh và chứng sẽ được bắt cặp theo tuổi và giới tính. Cỡ mẫu Áp dụng công thức tính mẫu cho kiểm định tæ số chênh OR với độ chính xác tương đối, OR ước tính =2. Với hai nhóm bệnh chứng ta có số lượng mẫu cần thiết là: Ðối với bệnh tăng huyết áp: 176 ca bệnh và 176 ca chứng Ðối với bệnh tiểu đường: 176 ca bệnh và 176 ca chứng. Tiêu chí chọn mẫu Tiêu chí chọn vào Ca bệnh: Các đối tượng đã khám, chẩn đoán và điều trị hoặc huyết áp, hoặc tiểu đường tại các cơ sở y tế của tỉnh Bình Dương (bao gồm cả nội và ngoại trú), được phát hiện bệnh lần đầu trong năm 2006 và đồng ý tham gia nghiên cứu. Ca chứng: Các trường hợp đến khám tổng quát tại các cơ sở y tế của tỉnh Bình Dương, được đưa vào nhóm chứng khi được xác định là không có tiền sử tiểu đường, huyết áp hiện đang dùng thuốc, hoặc không dùng thuốc. Công cụ thu thập Bảng câu hỏi cấu trúc soạn sẵn, đo ghi huyết áp, đo ghi các chỉ số huyết thanh về đường huyết, cholesterol và nồng độ lipid máu (bốn chỉ tiêu: cholesterol, triglycerides, LDLP, HDLP), đo ghi nhân trắc Xử lý và phân tích số liệu Số liệu sẽ được nhập bằng chương trình Epidata 3.02 và sau đó được phân tích bằng phần mềm Stata 8.0 và SPSS 10.0. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Đặc điểm dân số học của đối tượng nghiên cứu Điều tra triển khai tại 3 đơn vị: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Dương, bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi chức năng, bệnh viện huyện Thuận An (tỉnh Bình Dương). Thời gian từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 3 năm 2007, có 704 phiếu được đưa vào phân tích, đạt tỉ lệ là 100% tổng số phiếu. Tuổi của đối tượng từ 30 đến 86 tuổi, trung bình là 51,78±11,97 tuổi. Nhóm tuổi trên 45 chiếm tỉ lệ đa số là 75,57%. Nam chiếm tỉ lệ 42,05%, nữ chiếm tỉ lệ 57,95%. Về dân tộc, người Kinh chiếm đa số (97,2%), kế đến là người Hoa (2,7%), các dân tộc khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Về trình độ học vấn: Đa số có trình độ học vấn từ tiểu học trở xuống chiếm tỉ lệ 63,58%, tỉ lệ học vấn cấp 2-cấp 3 là 31,58%, tỉ lệ đại học, sau đại học là 4,84%. Thời gian đi học trung bình của nhóm đối tượng này là 8,0±5,1 năm. Thành phần dân tộc có khác so với nghiên cứu của tác giả Phạm Hùng Lực điều tra năm 2002 trên địa bàn đồng bằng sông Cửu Long trong đó người Kinh là 88,5%, người Khmer là 11% và người Hoa là 0,5%(10). Lý do là Phạm Hùng Lực điều tra ở các khu vực vùng ven trong khi người Hoa lại sống tập trung nhiều ở thị trấn. Phân tích liên quan giữa các yếu tố liên quan rượu bia với bệnh THA Bảng 1: Phân bố đặc điểm uống rượu bia với bệnh THA Tăng huyết áp Yếu tố tiếp xúc Bệnh Chứng OR (KTC 95%) P Có 60 (34,29) 46 (26,29) Uống rượu bia trong 12 tháng qua Không 115 (65,71) 129 (73,71) 2,16 (1,05- 4,71) 0,02 Thường xuyên 22 (12,57) 7 (4,0) Tần suất uống rượu bia Không thường xuyên 153 (87,43) 168 (96) 3,5 (1,36- 10,5) 0,004 So sánh giữa nhóm bệnh và nhóm chứng thì tỷ lệ uống rượu, bia trong 12 tháng qua của nhóm bệnh (34,29%) cao hơn nhóm chứng (26,29%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,02). Những đối tượng ở nhóm cao huyết áp có tỉ lệ uống bia rượu thường xuyên cao gấp 3,5 lần so với nhóm chứng (p=0,04). Điều này cùng kết quả với các nghiên cứu: Trong nghiên cứu của tác giả Phạm Hùng Lực tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2002 kết quả có mối liên quan giữa thói quen uống rượu và tình trạng THA, người có thói quen uống rượu có nguy cơ THA gấp 1,2 lần so với nhóm không có thói quen uống rượu(10). Tác giả Vũ Bảo Ngọc trong nghiên cứu ở quận 4, TP. Hồ Chí Minh năm 2004 cũng có phát hiện tương tự với người có uống rượu bia có nguy cơ THA gấp 2,82 lần và người nghiện rượu, uống thường xuyên hàng ngày có có nguy cơ THA gấp 4,87 lần so với người không uống rượu bia(14). Phân tích liên quan giữa yếu tố dinh dưỡng với bệnh THA Bảng 2: Tần suất sử dụng các loại thức ăn trong một tuần với bệnh THA Tăng huyết áp Yếu tố tiếp xúc Bệnh Chứng OR (KTC 95%) P <5 ngày/tuần 135 (77,14) 132 (75,43) Ăn đồ chiên xào >= 5ngày/tuần 40 (22,86) 43 (24,57) 0,9 (0,5-1,5) 0,7 <5 ngày/tuần 76 (43,68) 59 (33,71) Ăn đồ kho ram mặn >= 5ngày/tuần 98 (56,32) 116 (66,29) 0,64 (0,39- 1,03) 0,055 Có 83 (47,43) 56 (32,0) Mọi người cho là ăn mặn Không 92 (52,57) 119 (68,0) 1,9 (1,2- 3,06) 0,004 Kết quả nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa ăn nhiều đồ chiên xào và đồ kho ram mặn với THA (p>0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ người bị người khác cho là ăn mặn hơn những người trong gia đình ở nhóm THA cao gấp 1,9 lần so với nhóm chứng bắt cặp theo tuổi và giới với p=0,004. Điều này không khác với nghiên cứu của tác giả Phạm Hùng Lực tại đồng bằng sông Cửu Long năm 2002. Tác giả này không Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học tìm thấy mối tương quan giữa thói quen ăn mặn và tình trạng THA(10). Phân tích liên quan giữa yếu tố hoạt động thể lực với bệnh THA Bảng 3: Phân bố đặc điểm hoạt động thể lực trong công việc với bệnh THA Tăng huyết áp Yếu tố tiếp xúc Bệnh Chứng OR (KTC 95%) P Có 109 (62,29) 123 (70,29) Hoạt động thể lực nhẹ chung Không 66 (37,71) 52 (29,71) 0,65 (0,38- 1,09) 0,08 Có 118 (67,43) 123 (70,29) Hoạt động thể lực nhẹ trong công việc Không 57 (32,57) 52 (29,71) 0,86 (0,52-1,4) 0,55 Có 160 (91,43) 172 (98,29) Hoạt động thể lực nhẹ trong giải trí Không 15 (8,57) 3 (1,71) 0,2 (0,03-0,7) 0,005 Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê về hoạt động giải trí nhẹ với THA (p=0,005), nhóm THA có tỉ lệ giải trí chủ yếu là nằm ngồi thấp hơn đáng kể so với nhóm chứng là 0,2 lần. Đối với hoạt động thể lực nhẹ (chủ yếu là ngồi, đứng một chỗ) cả trong công việc và giải trí thì nhóm Tăng huyết áp có tỉ lệ hoạt động nhẹ thấp hơn bằng 0,65 lần so với nhóm chứng, chưa tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu với p=0,08. Không tìm thấy mối liên quan trong hoạt động thể lực nhẹ trong công việc với THA (p>0,05). Phân tích liên quan giữa chỉ số nhân trắc với THA Bảng 4: Phân bố tỉ lệ béo phì theo BMI và béo bụng với bệnh THA Tăng huyết áp Chỉ số nhân trắc Bệnh Chứng OR (KTC 95%) p >=23 87 (50) 42 (24,0) Chỉ số BMI < 23 87 (50) 133 (76,0) 3,5 (2,04- 6,28) 0,0001 Cao 72 (41,14) 47 (26,86) Chỉ số vòng eo/vòng mông Bình thường 103 (58,86) 128 (73,14) 2,08 (1,24- 3,59) 0,003 Chỉ số khối cơ thể là một trong những cách khá chính xác để xác định tình trạng cân nặng dư thừa. Tỉ lệ các đối tượng nghiên cứu có chỉ số BMI trên 23 trong nhóm bệnh (50%) cao gấp 3,5 lần so với nhóm chứng bắt cặp theo tuổi và giới với p=0,0001. Tích tụ mỡ trên eo (béo bụng) là yếu tố nguy cơ mạnh hơn tích tụ mỡ ở dưới eo (béo đùi). Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ chỉ số vòng eo/vòng mông cao ở nhóm THA cao gấp 2 lần nhóm chứng được bắt cặp theo tuổi và giới với p=0,003. Phân tích liên quan giữa yếu tố uống rượu bia với bệnh ĐTĐ Bảng 5: Phân bố đặc điểm các yếu tố liên quan uống rượu bia với bệnh ĐTĐ Đái tháo đường p Yếu tố tiếp xúc Bệnh Chứng OR (KTC 95%) Có 50 (28,25) 37 (20,9) Uống rượu bia trong 12 tháng qua Không 127 (71,75) 140 (79,1) 2,18 (1,02- 4,9) 0,02 Thường xuyên 17 (9,6) 4 (2,26) Tần suất uống rượu bia Không thường xuyên 160 (90,4) 173 (97,74) 7,5 (1,74- 67,59) 0,0016 Tỷ lệ uống rượu bia trong 12 tháng qua và tỷ tần suất uống rượu bia thường xuyên ở nhóm bệnh cao hơn nhóm chứng và sự liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Phân tích liên quan giữa tình trạng béo phì với bệnh ĐTĐ Bảng 6: Phân bố chỉ số BMI và tình trạng béo bụng với bệnh ĐTĐ Đái tháo đường Chỉ số nhân trắc Bệnh Chứng OR (KTC 95%) p >=23 90 (50,85) 47 (26,55) Chỉ số BMI < 23 87 (49,15) 130 (73,45) 2,86 (1,7- 4,8) 0,0001 Cao 102(57,63) 54 (30,51) Chỉ số vòng eo/vòng mông Bình thường 75 (42,37) 123 (69,49) 10,6(4,2- 33,9) 0,00001 Có sự khác biệt về tình trạng béo phì giữa nhóm bệnh và nhóm chứng. Nhóm bệnh có tỉ lệ béo phì cao hơn hẳn nhóm chứng và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p< 0,005). Có sự khác biệt về tình trạng béo bụng giữa nhóm bệnh ĐTĐ và nhóm chứng. Nhóm bệnh có tỉ lệ béo bụng cao hơn hẳn nhóm chứng. (p<0,05). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học KẾT LUẬN Nghiên cứu cho các kết quả sau: Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh THA các yếu tố có uống rượu bia trong 12 tháng qua và tần suất uống rượu bia thường xuyên, tỷ lệ béo phì và béo bụng, ăn mặn (được người khác cho là ăn mặn) là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhóm bệnh THA có uống rượu bia trong 12 tháng qua cao hơn nhóm chứng (OR=2,16 KTC 95% = 1,05-4,71, p=0,02). Nhóm bệnh THA có tần suất uống rượu bia thường xuyên cao hơn nhóm chứng (OR=3,5 KTC 95%=1,36-10,5, p=0,004). Nhóm bệnh THA có chỉ số BMI>= 23 cao hơn nhóm chứng (OR=3,5 KTC 95%=2,04-6,28, p=0,0001). Nhóm bệnh THA có chỉ số vòng eo/mông cao hơn nhóm chứng (OR=2,08 KTC 95%=1,24- 3,59, p=0,003). Nhóm bệnh THA ăn mặn hơn so với nhóm chứng (p=0,004). Trong nhóm bệnh và chứng của bệnh ĐTĐ, các yếu tố uống rượu bia hàng ngày, béo phì là các yếu tố nguy cơ làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nhóm bệnh ĐTĐ có tỉ lệ uống rượu bia trong 12 tháng qua cao hơn nhóm chứng (OR=2,18 KTC 95%=1,02-4,9, p=0,02). Nhóm bệnh ĐTĐ có tần suất uống rượu bia thường xuyên cao hơn nhóm chứng (OR=7,5 KTC 95%=1,74-67,59, p=0,0016). Nhóm bệnh ĐTĐ có bị béo phì (BMI>=23) cao hơn nhóm chứng (OR=2,86 KTC 95% =1,7- 4,8, p= 0,0001). Nhóm bệnh ĐTĐ có chỉ số vòng eo/vòng mông cao hơn so với nhóm chứng (OR= 10,6 KTC 95%=4,2-33,9, p=0,00001). KIẾN NGHỊ Đề xuất về vấn đề truyền thông Người bệnh cần được thông tin rõ ràng để thay đổi lối sống phù hợp nhằm trách các tác hại của bệnh. Nhất là các biện pháp không dùng thuốc như chế độ dinh dưỡng hợp lý trong bệnh ĐTĐ hoặc chế độ ăn giảm muối trong bệnh THA. Truyền thông trên nhiều kênh đa dạng nhất là các kênh truyền thông đại chúng để có thể tiếp cận người dân. Đề xuất về vấn đề tổ chức cơ sở y tế Cần có các chương trình quản lý bệnh nhân không lây thống nhất từ cấp trung ương đến cơ sở và có định kỳ trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ trong chương trình để tăng cường năng lực hệ thống. Kiến nghị cần soạn thảo các thông tin cốt lõi để tư vấn cho các trường hợp bệnh không lây và cập nhật thông tin đến tận các tuyến y tế cơ sở. Mục tiêu để các tuyến y tế có cùng một cách và cùng một thông điệp truyền thông đến người nghe. Cần mở rộng mạng lưới bảo hiểm y tế đến tận người dân sao cho các đối tượng bệnh mạn tính không lây được chăm sóc y tế tốt nhất. Chương trình khám sức khỏe định kỳ cho người từ tuổi 30 trở lên sẽ góp phần trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, trong đó có phát hiện sớm THA và ĐTĐ. Giám sát định kỳ các yếu tố nguy cơ cần được đặt ra. Việc sàng lọc đối với bệnh không lây như tăng huyết áp, đái tháo đường là ít tốn kém và có hiệu quả cao. Đề xuất về các hoạt động phòng chống bệnh không lây Chương trình giáo dục dinh dưỡng hợp lý: giảm muối là thông điệp quan trọng hiện nay vì các nghiên cứu khác đã cho thấy chế độ ăn của người Việt hiện nay có lượng muối cao hơn so với nhu cầu cơ bản như theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới. Đẩy mạnh xây dựng các câu lạc bộ sức khỏe cộng đồng, câu lạc bộ những người bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường để chia sẻ kinh nghiệm, thông tin giúp người bệnh hỗ trợ nhau. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y tế (2006), Tài liệu hướng dẫn đào tạo cán bộ chăm sóc sức khỏe ban đầu về phòng chống một số bệnh không lây nhiễm, Chương trình phòng chống một số bệnh không lây nhiễm, Nhà xuất bản Y học, 2006. 2. Cao Thị Yến Thanh, Nguyễn Công Khẩn, Đặng Tuấn Đạt (2005), Thực trạng và yếu tố liên quan đến tăng huyết áp ở người từ 25 tuối trở lên tại Tỉnh Đăklăk, năm 2005, Tạp chí dinh dưỡng & thực phẩm 2 (3+4) 2006 3. Đại học Y dược TP. HCM (2005), Tạp chí Thông tin Y học, Ngưỡng BMI dùng chẩn đóan béo phì cho người châu Á trưởng thành, tập 9, số 3, 2005, tr. 189. 4. Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Ðỗ Nguyên (2001), Tỉ suất hiện mắc THA và kiến thức-thái độ-thực hành về kiểm soát THA ở người từ 18 tuổi trở lên tại xã Tân Tiến-Ðầm Dơi-Cà Mau năm 2001. Tạp san Y học TP. Hồ Chí Minh. Tập 5. Phụ bản số 4. Trang 73-79. 5. Nguyễn Kim Hưng và Cs. (2001), Điều tra dịch tễ học bệnh đái tháo đường ở người trưởng thành > 15 tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001, Kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học Hội nghị Khoa học toàn quốc chuyên ngành nội tiết và chuyển hoá, Nhà xuất bản y học - Hà nội, 2004, tr 499-511 6. Nguyễn Mạnh Phan (2004), Kết quả chương trình khảo sát tình hình điều trị THA tại TP.HCM 2004. Tạp chí Thời sự tim mạch học.Số 78. Tháng 8. 2004.Trang 2-6. 7. Nguyễn Thị Đoan Trang (2007), Tỉ lệ bệnh đái tháo đường týp II trong đối tượng 45-64 tuổi tại vùng đô thị tỉnh Bình Thuận, năm 2007, Luận văn tốt nghiệp chuyên khoa cấp I. 8. Phạm Gia Khải và cộng sự (1998-1999), Ðặc điểm dịch tễ học THA tại Hà Nội năm 1998-1999. Toàn văn đại hội tim mạch học quốc gia lần thứ VIII, Trang 126-128. 9. Phạm Gia Khải, Nguyễn Lâm Việt, Phạm Thái Sơn, Nguyễn Ngọc Quang, Nguyễn Thị Bạch Yến và cộng sự (2003), Tần suất THA và các yếu tố nguy cơ ở các tỉnh phía bắc Việt Nam năm 2001-2002, Tạp chí tim mạch học Việt Nam, năm 2003. Số 33. Trang 9-33. 10. Phạm Hùng Lực (2002), Nghiên cứu sự liên quan giũa bệnh tăng huyết áp đối với môi trường sống khu vực đồng bằng sông Cửu Long và biện pháp can thiệp xã hội năm 2002, Luận án tiến sỹ y học 11. Phạm Thị Kim Lan (2002) Tìm hiểu một số yếu tố nguy cơ của người THA tại nội thành Hà Nội. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ chuyên khoa II. Ðại học Y Hà Nội. 2002. 12. Tạ văn Bình (2003), Thực hành quản lý và điều trị bệnh đái tháo đường, Nhà xuất bản y học – Hà nội, 2003. 13. Trần Hòa, Trương Phi Hùng, Lại Thị Thanh Thảo, Châu Ngọc Hoa (2006), Khảo sát tần suất tăng huyết áp và một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở người lớn trong cộng đồng dân cư huyện Mỏ Cày, Bến Tre- Tạp chí Y học TP. HCM – tập 10 – Phụ bản số 1 –2006, trang 39- 43. 14. Vũ Bảo Ngọc, Lê Hòang Ninh (2004), Tỷ lệ hiện mắc THA ở người trưởng thành tại quận 4 TP. Hồ Chí Minh năm 2004. Tạp san Y học TP. Hồ Chí Minh. Tập 9. Phụ bản số 1. Năm 2005. Trang 93-99. 15. WHO (2003), report on the workshop on the WHO STEPwise surveillance system, 16. WHO (2005), Risk factors profile of NCDS in the regions, 17. WHO (2005), The European Health report, Major cause of the burden of disease, pp. 21-29 18. WHO, STEPwise approach to risk factors – available resources, surveillance/steps/resources/en/print.html 19. WHO (2002), The world health report: reducing risks, promoting healthy life. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcac_yeu_to_nguy_co_cua_cac_benh_khong_lay_tang_huyet_ap_dai.pdf
Tài liệu liên quan