Kết luận
Cấu trúc vốn doanh nghiệp vẫn là một trong
những chủ đề mà các nhà nghiên cứu quan
tâm để gia tăng giá trị doanh nghiệp. Tại
Việt Nam đã tồn tại nhiều nghiên cứu về
chủ đề này, tuy nhiên, hầu hết các nghiên
cứu ở nước ta mới chỉ phân tích một khía
cạnh về tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu nói
chung mà chưa phân tích cụ thể về các yếu
tố tác động đến cấu trúc vốn trong ngắn hạn
và dài hạn. Mục tiêu của nghiên cứu này
là làm sáng tỏ các yếu tố tác động đến cấu
trúc vốn của các doanh nghiệp trong ngắn
hạn và dài hạn để các nhà quản trị doanh
nghiệp có thêm thông tin nhằm gia tăng giá
trị doanh nghiệp.
Bài viết phân tích các yếu tố tác động đến
cấu trúc vốn của 148 doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại HOSE thông qua chỉ tiêu
tỷ lệ đòn bẩy tài chính ngắn hạn và tỷ lệ
đòn bẩy tài chính dài hạn trong giai đoạn từ
2011- 2018. Mô hình nghiên cứu được xây
dựng từ các lý thuyết hiện đại về cấu trúc
vốn doanh nghiệp và các nghiên cứu trước
thông qua hệ thống các biến gồm quy mô
doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận, cơ hội tăng
trường doanh nghiệp, cơ cấu tài sản doanh
nghiệp, thuế, thanh khoản. Nghiên cứu đã
tìm ra một số điểm thú vị, đặc biệt các yếu
tố tác động đến cấu trúc vốn là khác nhau
đối với đòn bẩy dài hạn và đòn bẩy ngắn
hạn. Trong ngắn hạn, tỷ lệ đòn bẩy chịu tác
động bởi các yếu tố quy mô, lợi nhuận, cấu
trúc tài sản, và thanh khoản doanh nghiệp.
Trong dài hạn, tỷ lệ đòn bẩy tài chính chịu
tác động bởi quy mô, lợi nhuận, cấu trúc
tài sản, cơ hội tăng trưởng và thanh khoản.
Thuế không tác động đến cấu trúc vốn cả
trong dài hạn và ngắn hạn.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 222- Tháng 11. 2020
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp
niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Như Quỳnh
Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Hoàng Vinh
Đại học Kinh tế- Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Đình Luân
Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận: 03/07/2020
Ngày nhận bản sửa: 26/08/2020
Ngày duyệt đăng: 22/09/2020
Tóm tắt: Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các yếu tố tác động đến cấu trúc
vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh (HOSE) trong ngắn hạn và dài hạn, sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 148
doanh nghiệp phi tài chính trong giai đoạn 2011- 2018. Thông qua ước lượng mô
hình hồi quy theo phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát khả thi (Feasible
Generalized Least Squares- FGLS) để đảm bảo tính hiệu quả của mô hình, kết quả
Determinants affecting on capital structure of listed companies on Ho Chi Minh Stock
Exchange
Abstract: The purpose of this paper is to investigate the determinants affecting the capital structure
of enterprises listed on the Ho Chi Minh Stock Exchange (HOSE) in the short term and long term.
Using a sample of 148 non-financial businesses during the 2011-2018 period. By estimating Feasible
Generalized Least Squares (FGLS) regression model to ensure the effectiveness of the models. The
research results show that the firm size, asset structure, growth opportunities, and liquidity are
positively correlated to the long-term financial leverage; profits are negatively correlated to this
indicator. In the short-term, the firm size, profits, structure of assets, and liquidity have a negative
correlation with financial leverage. The tax does not affect financial leverage both in the short and
long term.
Keywords: capital structure, financial leverage, non-financial businesses, HOSE.
Quynh Thi Nhu Nguyen
quynhntn@buh.edu.vn
Banking University Ho Chi Minh city
Vinh Hoang Le
vinhlh@buh.edu.vn
Banking University Ho Chi Minh city
Luan Dinh Le
luanld@buh.edu.vn
University of Economic of Law, Vietnam National University of Ho Chi Minh city
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hồ Chí Minh
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
nghiên cứu cho thấy, quy mô doanh nghiệp, cấu trúc tài sản, cơ hội tăng trưởng,
thanh khoản có quan hệ cùng chiều đến đòn bẩy tài chính dài hạn; lợi nhuận có
quan hệ ngược chiều với chỉ tiêu này. Trong ngắn hạn, quy mô doanh nghiệp, lợi
nhuận, cấu trúc tài sản và thanh khoản có tác động ngược chiều đến đòn bẩy tài
chính. Thuế không tác động đến đòn bẩy tài chính cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Từ khóa: cấu trúc vốn, đòn bẩy tài chính, doanh nghiệp phi tài chính, HOSE.
1. Giới thiệu
Cấu trúc vốn là sự kết hợp giữa các khoản
nợ phải trả và vốn chủ sở hữu để tài trợ
cho các hoạt động của doanh nghiệp (Ross,
Westerfield, & Jaffe, 2012). Đối với một
doanh nghiệp, quyết định tài trợ là một
trong các quyết định chiến lược, bất kỳ một
doanh nghiệp nào khi tiến hành các hoạt
động thương mại, sản xuất, mục tiêu quan
trọng nhất là đối đa hóa giá trị cổ đông, hay
tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp
(Ross, Westerfield, & Jordan, 2008). Hầu
hết các lý thuyết về cơ cấu vốn như quan
điểm truyền thống (lý thuyết cơ cấu vốn tối
ưu) hay lý thuyết M&M, đều cho rằng
cấu trúc vốn có tác động đến giá trị doanh
nghiệp. Do đó, xác định một cấu trúc vốn
hợp lý để tối đa hóa giá trị công ty là một
vấn đề quan trọng trong quản trị tài chính.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một lý
thuyết nào xác định được một cơ cấu vốn
hợp lý cho tất cả các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp có nên thay vì sử dụng vốn
chủ sở hữu bằng việc sử dụng nợ vay để
giảm thuế thu nhập phải nộp, từ đó giúp
doanh nghiệp gia tăng lợi nhuận và giá
trị doanh nghiệp? Tuy nhiên, khi sử dụng
quá nhiều nợ trong cơ cấu nguồn vốn, các
doanh nghiệp lại phải đối mặt với tình trạng
kiệt quệ tài chính (financial distress) từ đó
gia tăng khả năng phá sản doanh nghiệp
(Lê Mạnh Hưng và ctg, 2015).
Liên quan đến cấu trúc vốn, hiện nay đã
có khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này
như nghiên cứu của Taub (1975), Allen
and Mizuno (1989), Bennett and Donnelly
(1993), Bevan and Danbolt (2000), Booth et
al. (2001), Chen and Strange (2005), Huang
(2006), Pathak (2010), Bandyopadhyay
and Barua (2016), Vo (2017), ALmuaither
and Marzouk (2019). Các nghiên cứu
thường dựa trên dữ liệu của các quốc gia
trên thế giới như Trung Quốc, Anh, Ấn
Độ Tại Việt Nam, cũng đã tồn tại một số
nghiên cứu về cấu trúc vốn cho các doanh
nghiệp phi tài chính như nghiên cứu của
Chí (2013), Anh and Yến (2014), Dân and
Chung (2017). Tuy nhiên các nghiên cứu
trên thường chỉ sử dụng một chỉ tiêu để đại
diện cho cấu trúc vốn (như chỉ tiêu tỷ lệ nợ
trên vốn chủ sở hữu, hoặc chỉ tiêu giá trị
sổ sách của nợ trên giá trị sổ sách của tổng
tài sản). Vì vậy, hầu hết các nghiên cứu
này chỉ xác định được các yếu tố tác động
đến cấu trúc vốn nói chung, mà chưa phân
biệt được các yếu tố tác động đến cấu trúc
vốn trong ngắn hạn và dài hạn như thế nào,
liệu các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn
trong ngắn hạn và dài hạn có giống nhau
hay không. Do đó, bài viết này sẽ bổ sung
thêm bằng chứng thực nghiệm về các yếu
tố tác động đến cấu trúc vốn, trong đó, cấu
trúc vốn được đại diện bởi tỷ lệ đòn bẩy tài
chính ngắn hạn và tỷ lệ đòn bẩy tài chính
dài hạn để phân biệt các yếu tố tác động đến
nợ ngắn hạn và nợ dài hạn của các doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết trên HOSE.
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - LÊ HOÀNG VINH - LÊ ĐÌNH LUÂN
27Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Như vậy, mục tiêu của nghiên cứu này là
xác định các yếu tố tác động đến cấu trúc
vốn (cụ thể là tác động đến đòn bẩy tài
chính ngắn hạn và đòn bẩy tài chính dài
hạn) của 148 doanh nghiệp phi tài chính
niêm yết trên HOSE trong giai đoạn 2011-
2018 nhằm củng cố thêm bằng chứng thực
nghiệm đối với kết quả nghiên cứu trước
đây tại Việt Nam, đồng thời xác định được
các yếu tố tác động đến đòn bẩy tài chính
dài hạn và đòn bẩy tài chính ngắn hạn để
các nhà quản trị doanh nghiệp có cái nhìn
tổng quan về các yếu tố tác động cấu trúc
vốn doanh nghiệp. Phần tiếp theo của
nghiên cứu sẽ phân tích cơ sở lý thuyết và
tổng quan các nghiên cứu; phần 3 là mô
hình, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu;
phần 4 phân tích kết quả nghiên cứu; cuối
cùng là kết luận.
2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên
cứu
Trong phần này, nghiên cứu sẽ trình bày
các lý thuyết nền tảng về cấu trúc vốn, sau
đó làm rõ các yếu tố tác động đến cấu trúc
vốn của doanh nghiệp và tổng quan các
nghiên cứu trước.
2.1. Các lý thuyết nền tảng về cơ cấu vốn
Lý thuyết Modigliani & Miller, còn được
gọi là lý thuyết M&M, là công trình nghiên
cứu của hai giáo sư Franco Modigliani
và Merton Miller, với các giả định về thị
trường hoàn hảo, doanh nghiệp không có
chi phí kiệt quệ tài chính và không có thuế
doanh nghiệp được công bố lần đầu vào
năm 1958 (Chen & Strange, 2005). Tuy
nhiên, nghiên cứu này bị phê phán do một
số giả định đã đề ra, vì vậy, hai ông đã bổ
sung thêm bài nghiên cứu vào năm 1963,
trong đó nới lỏng về tiêu chuẩn thuế thu
nhập của doanh nghiệp. Năm 1977, lúc này
không còn Modigliani, Miller đã đưa tác
động của thuế thu nhập cá nhân vào trong
lý thuyết.
Nhìn chung, lý thuyết M&M được nghiên
cứu trong hai môi trường không thuế và
có thuế. Trong môi trường không thuế, lý
thuyết đã chứng minh rằng giá trị doanh
nghiệp không chịu tác động bởi cấu trúc
vốn, do đó không có cấu trúc vốn nào tối ưu
cho trường hợp này (Brigham & Houston,
2012). Ngược lại, trong môi trường có thuế,
giá trị công ty có sử dụng nợ cao hơn giá trị
công ty không sử dụng nợ đúng bằng hiện
giá của khoản tiết kiệm thuế từ lãi vay.
Lý thuyết đánh đổi: được đưa ra bởi nhiều
nhà nghiên cứu như Kraus and Litzenberger
(1973), Myers (1984) nhằm giải thích một
hiện tượng trong thực tế, doanh nghiệp chỉ
sử dụng nợ trong một giới hạn nhất định,
trong khi lý thuyết M&M cho rằng giá trị
công ty càng cao khi mức độ sử dụng nợ
càng lớn. Lý thuyết đánh đổi giả định về
mối quan hệ tích cực giữa thuế và đòn bẩy
tài chính. Một doanh nghiệp sử dụng nợ
vay sẽ được hưởng lợi ích lá chắn thuế từ
lãi vay, làm tăng lợi nhuận cho chủ sở hữu.
Tuy vậy, nếu sử dụng quá nhiều nợ, doanh
nghiệp dễ bị đối mặt với tình trạng kiệt
quệ tài chính (financial distress). Do đó, lý
thuyết đánh đổi giả định về tỷ lệ nợ tối ưu
trên vốn chủ sở hữu vì các doanh nghiệp
đã cố gắng cân bằng lợi ích của thuế và rủi
ro phá sản. Ooi (1999) cho rằng, có mối
quan hệ tích cực giữa thuế và giá trị doanh
nghiệp. Nghiên cứu đã chỉ ra, doanh nghiệp
thành công sẽ sử dụng nợ nhiều hơn vì mức
thuế đóng thấp hơn làm tăng dòng tiền nội
bộ của công ty sau thuế và rủi ro phá sản
thấp. Liên quan đến chi phí phá sản, Cassar
and Holmes (2003) cho rằng, doanh nghiệp
khi tăng các khoản nợ để tài trợ hoạt động,
có khả năng các khoản nợ không được trả
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hồ Chí Minh
28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
đúng hạn gây nên rủi ro phá sản, từ đó làm
cho doanh nghiệp phải chi trả chi phí tài
chính cao do chi phí thanh lý tăng. Theo
lý thuyết M&M, giá trị doanh nghiệp càng
cao khi mức sử dụng nợ càng lớn do lý
thuyết này dựa trên giả định không có tình
trạng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp,
điều này đã được khắc phục bởi lý thuyết
đánh đổi.
Lý thuyết trật tự phân hạng: Myers (1984)
và Myers and Majluf (1984) là những tác giả
phát triển lý thuyết trật tự phân hạng khi họ
cho rằng nhà quản trị doanh nghiệp là những
người biết nhiều thông tin hơn so với các
nhà đầu tư tiềm năng. Theo lý thuyết này,
các công ty sẽ lựa chọn cụ thể các nguồn
vốn để tài trợ cho hoạt động của doanh
nghiệp do sự khác biệt về chi phí của từng
nguồn. Nguồn tài trợ của doanh nghiệp được
sử dụng theo thứ tự ưu tiên: nguồn vốn nội
bộ (lợi nhuận giữ lại) được ưu tiên sử dụng
trước, nếu nguồn vốn này không đủ, doanh
nghiệp được tài trợ bằng nợ và sau cùng là
phát hành cổ phiếu mới. Thứ tự ưu tiên trên
không chỉ vì mục đích chi phí sử dụng vốn,
mà còn phản ánh mục tiêu của các nhà quản
trị tài chính muốn đảm bảo quyền kiểm soát
cho các chủ sở hữu hiện tại và tránh các
phản ứng tiêu cực của thị trường khi phát
hành thêm cổ phần mới.
Lý thuyết định thời điểm thị trường: Người
đầu tiên đề cập đến lý thuyết này là Myers
and Majluf (1984) cho rằng có những nhà
quản trị doanh nghiệp và nhà đầu tư hợp lý.
Lý thuyết tập trung vào cách các công ty tài
trợ cho hoạt động của mình bằng vốn chủ
sở hữu hoặc các công cụ nợ, phù hợp với
thời điểm thị trường. Các nhà quản trị doanh
nghiệp tin rằng, họ có thể tìm ra thời điểm
thích hợp để phát hành cổ phiếu khi giá cổ
phiếu tăng, đồng thời mua lại cổ phiếu khi
giá trị cổ phiếu thị trường xuống thấp.
2.2. Các nhân tố tác động đến cấu trúc
vốn của doanh nghiệp và tổng quan
nghiên cứu
Quy mô doanh nghiệp (Size): Quy mô
doanh nghiệp được tính bằng logarite tự
nhiên của tổng tài sản. Theo Huang (2006),
vấn đề bất cân xứng thông tin thường xảy ra
ít hơn tại các công ty lớn, do đó các công ty
này thường có xu hướng sử dụng vốn chủ
sở hữu nhiều hơn nợ và do đó, các công ty
lớn có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính
thấp. Ở một khía cạnh khác, theo lý thuyết
đánh đổi, các doanh nghiệp lớn thường có
khả năng đa dạng hóa tốt và dòng tiền ổn
định, do đó xác suất phá sản của các doanh
nghiệp này thường thấp hơn so với các
doanh nghiệp nhỏ. Từ các lập luận này,
nghiên cứu cho rằng quy mô doanh nghiệp
có quan hệ cùng chiều với đòn bẩy tài chính,
điều này cũng phù hợp với kết quả nghiên
cứu của ALmuaither and Marzouk (2019),
Oino and Ukaegbu (2014) Huang (2006),
Chen and Strange (2005), Taub (1975) trên
thế giới và kết quả các nghiên cứu trong
nước như Chí (2013), Anh and Yến (2014),
Dân and Chung (2017).
Lợi nhuận doanh nghiệp (Profittability):
Lợi nhuận là một trong những chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp,
tuy nhiên tác động của lợi nhuận đến đòn
bẩy tài chính không có các lý thuyết nhất
quán. Theo Brigham and Houston (2012),
thực tế các công ty có tỷ suất lợi nhuận cao
như Intel, Microsoft, Coca-Cola thường sử
dụng rất ít nợ vay, Myers (1984) đã chỉ ra
mối quan hệ ngược chiều giữa nợ và lợi
nhuận, tác giả cho rằng các công ty có lợi
nhuận cao thường sử dụng tỷ lệ nợ thấp vì
họ có thể dựa vào các nguồn vốn nội bộ thay
vì các nguồn vốn bên ngoài để tiết kiệm chi
phí. Tuy vậy, theo lý thuyết đánh đổi, các
công ty có lợi nhuận cao hơn sẽ sử dụng đòn
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - LÊ HOÀNG VINH - LÊ ĐÌNH LUÂN
29Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
bẩy tài chính lớn hơn để tận dụng khoản tiết
kiệm từ thuế. Ủng hộ quan điểm này, Bauer
(2004) cho rằng, các tổ chức có lợi nhuận
cao nên sử dụng nhiều nợ hơn, vì điều này
có thể giúp cho các nhà quản lý tránh đầu tư
vào các dự án không hiệu quả. Ooi (1999)
chỉ ra, một doanh nghiệp có lợi nhuận cao sẽ
sử dụng nhiều nợ hơn vì rủi ro phá sản thấp
hơn và giảm gánh nặng về thuế.
Cấu trúc tài sản (Asset structure): Cấu
trúc tài sản cho biết tỷ trọng tài sản cố định
hữu hình trên tổng tài sản. Theo Brigham
and Houston (2012), tài sản cố định là
một trong các tài sản để đảm bảo cho nợ
vay, do đó các công ty với nhiều tài sản
cố định có khuynh hướng sử dụng nợ vay
nhiều hơn, từ đó gia tăng đòn bẩy tài chính.
Theo lý thuyết đánh đổi, doanh nghiệp sử
dụng tài sản hữu hình làm tài sản thế chấp
sẽ giúp giảm rủi ro cho chủ nợ, đồng thời
tài sản hữu hình có thể hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc giảm các chi phí kiệt quệ tài
chính. Nghiên cứu của Booth et al. (2001),
ALmuaither and Marzouk (2019), Huang
(2006), Chí (2013) đã chỉ ra có mối quan
hệ tích cực giữa tài sản cố định hữu hình và
khả năng vay nợ của doanh nghiệp.
Cơ hội tăng trưởng của doanh nghiệp
(Growth opportunities): Cơ hội tăng
trưởng cho biết mức độ tăng trưởng doanh
thu qua các năm của doanh nghiệp (Huang,
2006). Brigham and Houston (2012) cho
rằng, khi các yếu tố khác không đổi, doanh
nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao sẽ dựa
vào nguồn vốn bên ngoài. Mặt khác phát
hành cổ phiếu sẽ tốn nhiều chi phí hơn so
với sử dụng vay nợ. Do đó, các công ty có
mức độ tăng trưởng nhanh, thường ưu tiên
sử dụng nợ. Trái ngược với quan điểm này,
Myers (1977) lại lưu ý các doanh nghiệp có
mức tăng trưởng tốt nên được tài trợ bằng
vốn chủ sở hữu vì xung đột lợi ích giữa chủ
sở hữu và chủ nợ. Khi cơ hội tăng trưởng
cao, tạo nên rủi ro đạo đức và các doanh
nghiệp nhỏ có động lực chấp nhận rủi ro
để tăng trưởng. Đồng ý với quan điểm này,
Fama and French (2002) đưa ra mối quan
hệ ngược chiều giữa cơ hội tăng trưởng và
đòn bẩy vì các công ty có nhiều cơ hội đầu
tư với tỷ suất sinh lời cao, thường không
sử dụng nợ là nguồn ưu tiên khi tìm kiếm
nguồn tài trợ cho các cơ hội này.
Thuế (Tax): Theo lý thuyết M&M, lợi ích
của việc sử dụng nợ so với sử dụng vốn
chủ sở hữu là lợi ích lá chắn thuế từ lãi vay
khi chi phí phá sản và chi phí kiệt quệ tài
chính là không đáng kể. Điều này nghĩa là
với giả định là thị trường hoàn hảo và có
sự hiện diện của thuế, giá trị tăng lên của
doanh nghiệp chính bằng tổng hiện giá của
lá chắn thuế. Đồng thời, kết quả nghiên cứu
của Almanaseer (2019), Oino and Ukaegbu
(2014) đã cho thấy chỉ tiêu thuế có quan hệ
cùng chiều giữa thuế và đòn bẩy tài chính.
Thanh khoản (Liquidity): Theo Vo (2017),
thanh khoản là một trong các yếu tố quan
trọng tác động đến cấu trúc vốn của doanh
nghiệp. Kết quả nghiên cứu của Vo (2017),
Salameh (2014), Almanaseer (2019) đã chỉ
ra, có mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ
thanh khoản và đòn bẩy tài chính vì nếu các
công ty có nhiều nợ hơn, thì nợ phải trả cao
hơn và tài sản hiện tại còn lại thấp hơn.
3. Mô hình, phương pháp và dữ liệu
nghiên cứu
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng (panel
data) với ba mô hình ước lượng truyền
thống là Pooled OLS, FEM (Fix effect
model), REM (Random effect model).
Sau đó, nghiên cứu sử dụng kiểm định
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hồ Chí Minh
30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
Hausman, Lagrange để lựa chọn mô hình
phù hợp. Để kiểm tra tính vững của mô
hình, nghiên cứu thực hiện các kiểm định
phương sai thay đổi và tự tương quan,
trong trường hợp mô hình được chọn xảy
ra các khuyết tật này, nghiên cứu sử dụng
ước lượng GLS để khắc phục.
3.2. Mô hình nghiên cứu
Dựa vào mô hình nghiên cứu của Vo (2017),
Huang (2006), Anh and Yến (2014), mô
hình của nghiên cứu như sau:
Capstructure
i,t
= α + β
1
SIZE
i,t
+
β
2
PROFIT
i,t
+ β
3
ASSETSTRUCTURE
i,t
+
β
4
OPPGROW
i,t
+ β
5
TAX
i,t
+ β
6
LIQ
i,t
+ ε
i,t
Trong đó, Capstructure đo lường cấu trúc
vốn, được đại diện bởi tỷ lệ đòn bẩy tài
chính dài hạn và tỷ lệ đòn bẩy tài chính
ngắn hạn. Việc tách biệt tỷ lệ đòn bẩy tài
chính dài hạn và đòn bẩy tài chính ngắn hạn
để phân biệt các yếu tố tác động đến nợ dài
hạn và nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp.
Trong đó, tỷ lệ đòn bẩy tài chính dài hạn
(long term leverage ratio) (LTDTA) được
định nghĩa là tỷ lệ các khoản nợ phải trả
dài hạn trên tổng tài sản; tỷ lệ đòn bẩy tài
chính ngắn hạn (short term leverage ratio)
(STDTA) được tính bằng tỷ lệ nợ ngắn hạn
trên tổng sản, đây chính là điểm khác biệt
của mô hình nghiên cứu này so với các
nghiên cứu trước đây tại nước ta. Việc đo
lường và giải thích các biến được chi tiết
tại Bảng 1.
3.3. Dữ liệu nghiên cứu
Bảng 1. Cách đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu
Ký hiệu Tên biến Kỳ vọng dấu Cách đo lường
Các nghiên cứu
trước
Biến phụ thuộc
LTDTA Tỷ lệ đòn bẩy tài chính dài hạn
(Nợ phải trả dài hạn)/
(Tổng tài sản) Vo (2017)
STDTA Tỷ lệ đòn bẩy tài chính ngắn hạn
(Nợ ngắn hạn)/(Tổng tài
sản) Vo (2017)
Biến độc lập
SIZE Quy mô doanh nghiệp + Logarite (tổng tài sản)
Vo (2017), Anh and
Yến (2014), Huang
(2006)
PROFIT Lợi nhuận doanh nghiệp +/-
ROA = (Lợi nhuận sau
thuế)/(Tổng tài sản)
Chen and Strange
(2005), Ooi (1999)
ASSETS Cấu trúc tài sản + (Tài sản cố định hữu hình)/(Tổng tài sản)
Vo (2017), Huang
(2006), Oino and
Ukaegbu (2014)
OPPGROW Cơ hội tăng trưởng +/- (Doanh thut ₋ Doanh thut-1)/Doanh thut-1
Huang (2006), Li
(2015), Chen and
Strange (2005).
TAX
Thuế (EBT: lợi nhuận
trước thuế và lãi vay
của doanh nghiệp)
+ (Chi phí thuế phải nộp)/EBT
Anh and Yến (2014),
ALmuaither and
Marzouk (2019),
LIQ Thanh khoản - (Tài sản ngắn hạn)/(Nợ ngắn hạn) Vo (2017)
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - LÊ HOÀNG VINH - LÊ ĐÌNH LUÂN
31Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo
cáo tài chính đã được kiểm toán của các
doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên
HOSE trong giai đoạn 2011- 2018. Số
lượng doanh nghiệp trong nghiên cứu gồm
148 doanh nghiệp. Vì trong giai đoạn 2011-
2018 có những doanh nghiệp mới thành
lập, có doanh nghiệp bị phá sản nên dữ liệu
nghiên cứu là dữ liệu không cân bằng.
Bảng 2 trình bày thống kê mô tả các biến
trong mô hình nghiên cứu. Bảng 2 cho thấy
các doanh nghiệp niêm yết trên HOSE
có xu hướng sử dụng nhiều nợ ngắn hạn
hơn so với các khoản nợ dài hạn. Nguyên
nhân được cho là do thị trường trái phiếu
tại Việt Nam chưa phát triển mạnh, do đó
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp
cận các nguồn tài chính dài hạn. Ngoài ra,
ở Việt Nam cũng như các nền kinh tế mới
nổi khác, việc thường xuyên thay đổi các
chính sách kinh tế cũng làm cho các ngân
hàng không “mặn mà” trong việc cung cấp
các khoản vay dài hạn cho doanh nghiệp.
4. Phân tích kết quả nghiên cứu
Bảng 3 trình bày ma trận tương quan của các
biến trong mô hình nghiên cứu. Bảng 3 cho
thấy mối tương quan giữa các biến độc lập
trong mô hình đều nhỏ hơn 70%, như vậy có
thể thấy các biến độc lập trong mô hình có
Bảng 2. Thống kê mô tả mẫu
Biến Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
Giá trị nhỏ
nhất
Giá trị lớn
nhất
LTDTA 1.118 0,118 0,148 0,000 0,829
STDTA 1.118 0,358 0,199 0,006 0,929
SIZE 1.118 28,044 1,373 25,456 33,294
PROFIT 1.118 0,067 0,092 -0,646 0,784
ASSETST 1.118 0,182 0,176 0,000 0,857
OPPGROW 1.118 0,347 1,867 -0,983 29,556
TAX 1.118 0,209 0,198 0,000 2,920
LIQ 1.118 2,514 3,007 0,265 35,336
Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata 16
Bảng 3. Ma trận tương quan các biến trong mô hình nghiên cứu
LTDTA STDTA SIZE PROFIT ASSETST OPPGROW TAX LIQ
LTDTA 1,000
STDTA -0,302 1,000
SIZE 0,327 0,076 1,000
PROFIT -0,217 -0,289 -0,092 1,000
ASSETST 0,114 -0,178 -0,116 0,088 1,000
OPPGROW 0,055 -0,031 0,047 -0,032 -0,063 1,000
TAX -0,005 0,056 0,041 -0,051 -0,035 0,000 1,000
LIQ 0,003 -0,505 -0,150 0,235 -0,138 0,051 -0,038 1,000
Nguồn: Kết xuất từ phần mềm Stata 16
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hồ Chí Minh
32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
tương quan với nhau ở mức thấp. Đồng thời
khi xem xét hiện tượng đa cộng tuyến (Bảng
4), giá trị VIF trung bình của các biến trong
mô hình bằng 1,04 và hệ số phóng đại VIF
của các biến đều nhỏ hơn 8. Do đó, mô hình
có hiện tượng đa cộng tuyến không nghiêm
trọng (Gujarati, 1995).
Bảng 5 tổng hợp kết quả của mô hình Pooled
OLS, FEM, REM cho từng biến phụ thuộc
tỷ lệ đòn bẩy ngắn hạn (STDTA), và tỷ lệ
đòn bẩy dài hạn (LTDTA).
Bảng 4. Kết quả sử dụng VIF để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
Biến VIF 1/VIF
LIQ 1,12 0.894
PROFIT 1,08 0.926
ASSETST 1,06 0.945
SIZE 1,05 0.954
GROWTH 1,01 0.991
TAX 1,01 0.995
Trung bình VIF 1,05
Nguồn: Kết xuất từ phần mềm Stata 16
Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình Pooled OLS, FEM, REM
Biến Pooled OLS FEM REM
LTDTA STDTA LTDTA STDTA LTDTA STDTA
SIZE 0,037***(0,03)
-0,006*
(0,004)
0,028***
(0,005)
0,009
(0,006)
0,031***
(0,004)
0,006
(0,005)
PROFIT -0,377***(0,045)
-0,330***
(0,055)
-0,129***
(0,037)
-0,224***
(0,044)
-0,156***
(0,036)
-0,248***
(0,043)
ASSETST 0,164***(0,023)
-0,270***
(0,028)
0,136***
(0,031)
-0,183***
(0,037)
0,136***
(0,028)
-0,197***
(0,033)
OPPGROW 0,003(0,02)
-0,002
(0,003)
0,002*
(0,001)
0,002
(0,001)
0,002*
(0,001)
0,002
(0,001)
TAX -0,014(0,020)
0,022
(0,025)
-0,015
(0,012)
-0,012
(0,014)
-0,015
(0,012)
-0,009
(0,014)
LIQ 0,007***(0,01)
-0,033***
(0,002)
0,005***
(0,001)
-0,016***
(0,001)
0,005***
(0,001)
-0,018***
(0,001)
Cons -0,950(0,085)
0,681
(0,103)
-0,682
(0,142)
0,194
(0,168)
-0,780
(0,118)
0,283
(0,141)
Số quan sát 1,118 1,118 1,118 1,118 1,118 1,118
F(6, 1111)
= 43,220
F(6, 1111)
= 95,69
F(6,964)
= 13,46
F(6,964)
= 27,23
Wald chi2(6)
= 115,33
Wald chi2(6)
= 228,57
Prob > F =
0,000
Prob > F
= 0,0000
Prob > F
= 0,0000
Prob > F
= 0,0000
Prob > chi2
= 0,0000
Prob > chi2
= 0,0000
R-squared
= 0,1892
R-squared
= 0,3407
R-sq: within
= 0,0773
R-sq: within
= 0,1449
R-sq: within
= 0,0768
R-sq: within
= 0,1444
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp (phần mềm Stata 16)
*,**,*** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - LÊ HOÀNG VINH - LÊ ĐÌNH LUÂN
33Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Kết quả hồi quy của Bảng 5 cho thấy,
với biến phụ thuộc LTDTA, R2 của 3 mô
hình Pooled OLS, FEM, REM là 18,92%,
7,73% và 7,68%. Điều này thể hiện được
các biến trong mô hình nghiên cứu giải
thích được 18,92%, 7,73% và 7,68% biến
phụ thuộc LTDTA. Đối với mô hình biến
phụ thuộc STDTA, R2 của 3 mô hình lần
lượt là 34,07%, 7,73% và 14,44% cho thấy
các biến độc lập giải thích được 34,07%,
7,73% và 14,44% biến phụ thuộc trong mô
hình. Ngoài ra, giá trị p-value của các mô
hình này đều là 0,000 < α = 0,01, chứng
tỏ phương pháp ước lượng của ba mô hình
trên có ý nghĩa thống kê.
Mặc dù vậy, khi ước lượng theo mô hình
Pooled OLS, mô hình không phản ánh được
đặc trưng cho từng doanh nghiệp. Do đó,
nghiên cứu tiến hành thực hiện kiểm định
lựa chọn mô hình FEM hoặc REM làm mô
hình phù hợp.
Với mô hình biến phụ thuộc LTDTA, kiểm
định Hausman ra p-value Prob > chi2 =
0,1501 ≥ α = 0,05, do đó mô hình phù hợp là
mô hình REM. Tiến hành kiểm định phương
sai thay đổi cho mô hình REM ra giá trị
Prob > chibar2 = 0,000 ≤ α= 0,05 do đó
mô hình xảy ra hiện tượng phương sai thay
đổi, đồng thời giá trị p-value của kiểm định
Wooldridge Prob > F = 0,000 ≤ α = 0,05 do
đó, mô hình có hiện tượng tự tương quan.
Với mô hình biến phụ thuộc STDTA, kiểm
định Hausman ra p-value Prob > chi2 =
0,000< α = 0,05, do đó, mô hình phù hợp
là mô hình FEM. Thực hiện kiểm định
phương sai thay đổi cho mô hình FEM ra
giá trị p-value = 0,000 ≤ α = 0,05, do đó
mô hình có hiện tượng phương sai thay
đổi, đồng thời giá trị p-value của kiểm định
Wooldridge Prob > F = 0,000 ≤ α = 0,05,
do đó mô hình có hiện tượng tự tương quan.
Như vậy, có thể thấy cả mô hình biến phụ
thuộc STDTA và LTDTA đều xảy ra hiện
tượng phương sai thay đổi và tự tương quan.
Để khắc phục hiện tượng này, nghiên cứu
tiến hành ước lượng theo phương pháp bình
phương tối thiểu tổng quát FGLS (Feasible
Generalized Least Squares- Bảng 6).
Cả hai mô hình ước lượng FGLS đều có
Bảng 6. Kết quả ước lượng mô hình FGLS
Biến Mô hình biến phụ thuộc LTDTA Mô hình biến phụ thuộc STDTA
SIZE 0,036***(0,002)
-0,004*
(0,002)
PROFIT -0,223***(0,024)
-0,236***
(0,025)
ASSETST 0,171***(0,013)
-0,266***
(0,013)
OPPGROW 0,005***(0,001)
-0,001
(0,002)
TAX 0,006(0,011)
0,018
(0,019)
LIQ 0,004***(0,001)
-0,043***
(0,002)
Cons -0,956(0,050)
0,612
(0,058)
Nguồn: Nhóm tác giả tổng hợp (Stata 16)
*,**,*** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hồ Chí Minh
34 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
p-value Prob> chi2= 0,000< α= 0,01, do
đó, mô hình có ý nghĩa ở mức 1%. Như
vậy, mô hình nghiên cứu sẽ có phương
trình như sau ở mức ý nghĩa 1%:
LTDTA= 0,036SIZE
it
– 0,223PROFIT
it
+0,171ASSETST
it
+0,005OPPGROW
it
+
0,004LIQ – 0,956
STDTA = -0,004SIZE
it
- 0,236PROFIT
it
-0,226ASSETST
it
– 0,043LIQ
it
+ 0,612
Thông qua mô hình nghiên cứu, ta thấy:
Một là, quy mô doanh nghiệp có quan
hệ cùng chiều với tỷ lệ đòn bẩy dài hạn
(LTDTA) với hệ số hồi quy 0,036 ở mức ý
nghĩa 1% và ngược chiều với tỷ lệ đòn bẩy
ngắn hạn (STDTA) với hệ số hồi quy âm
0,004 ở mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho
thấy các doanh nghiệp lớn có xu hướng sử
dụng nợ dài hạn trong khi các doanh nghiệp
nhỏ có xu hướng sử dụng nợ ngắn hạn để
tài trợ cho hoạt động sản xuất, đầu tư. Kết
quả này phù hợp với các nghiên cứu trước
đây như Vo (2017), Booth et al. (2001). Có
thể lý điều này như sau, nhờ lợi thế quy mô,
các doanh nghiệp lớn hơn có khả năng đàm
phán tốt hơn với các chủ nợ và ngân hàng
để thực hiện các khoản vay dài hơn so với
các doanh nghiệp nhỏ.
Hai là, lợi nhuận doanh nghiệp có quan hệ
ngược chiều với cả tỷ lệ đòn bẩy dài hạn
và ngắn hạn ở mức ý nghĩa 1% với hệ số
hồi quy lần lượt là âm 0,223 và âm 0,236.
Điều này phù hợp với lý thuyết đánh đổi
và quan điểm của Brigham and Houston
(2012), Stewart C Myers (1984). Điều
này cũng phù hợp tại Việt Nam, khi doanh
nghiệp có lợi nhuận cao, để đảm bảo quyền
kiểm soát cho các cổ đông hiện tại và thuận
tiện trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp
có xu hướng sử dụng nguồn vốn bên trong
như lợi nhuận giữ lại hoặc các tài sản có
tính thanh khoản đang dư thừa, hơn là huy
động từ nợ và vốn chủ sở hữu.
Ba là, cấu trúc tài sản doanh nghiệp có quan
hệ cùng chiều với tỷ lệ đòn bẩy dài hạn với
hệ số hồi quy 0,171 ở mức ý nghĩa 1% và
ngược chiều với tỷ lệ đòn bẩy tài chính
ngắn hạn với hệ số hồi quy âm 0,266 ở mức
ý nghĩa 1%. Nghĩa là các doanh nghiệp có
thể thực hiện vay thêm các khoản nợ dài
hạn sau khi họ gia tăng được lượng tài sản
hữu hình hơn để thế chấp. Theo Huang
(2006), tài sản hữu hình quan trọng trong
xác định cơ cấu vốn vì giá trị tài sản hữu
hình cao hơn giá trị tài sản vô hình trong
trường hợp doanh nghiệp có rủi ro phá sản.
Đồng thời, kết quả này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Vo (2017). Kết quả nghiên
cứu cũng xác nhận rằng, các doanh nghiệp
Việt Nam cần phải đưa ra các tài sản thế
chấp khi thực hiện các khoản vay dài hạn.
Bên cạnh đó, để có sự ổn định về cơ cấu tài
chính, các công ty với lượng tài sản cố định
hữu hình lớn sẽ sử dụng ít nợ vay ngắn hạn
để cơ cấu tài chính được linh hoạt.
Bốn là, cơ hội tăng trưởng (được đo lường
bằng tốc độ tăng trưởng doanh thu) có
quan hệ cùng chiều với tỷ lệ đòn bẩy dài
hạn ở mức ý nghĩa 1% với hệ số hồi quy
0,005- một mức xấp xỉ bằng 0, chứng tỏ
các doanh nghiệp ở Việt Nam khi có tốc độ
tăng trưởng doanh thu tốt không tận dụng
được lợi thế phát hành vốn chủ sở hữu mới
trên thị trường chứng khoán (Vo, 2017).
Năm là, thuế có tương quan dương nhưng
không có ý nghĩa thống kê đến đòn bẩy tài
chính cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Kết quả
này khác với kỳ vọng dấu ban đầu của nghiên
cứu, nhưng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của ALmuaither and Marzouk (2019), Chen
and Strange (2005). Điều này cho thấy rằng,
NGUYỄN THỊ NHƯ QUỲNH - LÊ HOÀNG VINH - LÊ ĐÌNH LUÂN
35Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng
tốt lợi thế lá chắn thuế từ lãi vay.
Cuối cùng là, thanh khoản có tác động cùng
chiều đến tỷ lệ đòn bẩy tài chính trong dài
hạn với hệ số hồi quy 0,04 ở mức ý nghĩa
1% và tác động ngược chiều đến tỷ lệ đòn
bầy tài chính trong ngắn hạn với hệ số hồi
quy âm 0,043 ở mức ý nghĩa 1%. Kết quả
nghiên cứu này phù hợp với kết luận trong
nghiên cứu của Vo (2017), điều này hàm
ý rằng vấn đề thanh khoản hạn chế doanh
nghiệp vay ngắn hạn và quản lý thanh
khoản là một vấn đề đáng quân tâm đối với
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
đang niêm yết trên HOSE.
5. Kết luận
Cấu trúc vốn doanh nghiệp vẫn là một trong
những chủ đề mà các nhà nghiên cứu quan
tâm để gia tăng giá trị doanh nghiệp. Tại
Việt Nam đã tồn tại nhiều nghiên cứu về
chủ đề này, tuy nhiên, hầu hết các nghiên
cứu ở nước ta mới chỉ phân tích một khía
cạnh về tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu nói
chung mà chưa phân tích cụ thể về các yếu
tố tác động đến cấu trúc vốn trong ngắn hạn
và dài hạn. Mục tiêu của nghiên cứu này
là làm sáng tỏ các yếu tố tác động đến cấu
trúc vốn của các doanh nghiệp trong ngắn
hạn và dài hạn để các nhà quản trị doanh
nghiệp có thêm thông tin nhằm gia tăng giá
trị doanh nghiệp.
Bài viết phân tích các yếu tố tác động đến
cấu trúc vốn của 148 doanh nghiệp phi tài
chính niêm yết tại HOSE thông qua chỉ tiêu
tỷ lệ đòn bẩy tài chính ngắn hạn và tỷ lệ
đòn bẩy tài chính dài hạn trong giai đoạn từ
2011- 2018. Mô hình nghiên cứu được xây
dựng từ các lý thuyết hiện đại về cấu trúc
vốn doanh nghiệp và các nghiên cứu trước
thông qua hệ thống các biến gồm quy mô
doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận, cơ hội tăng
trường doanh nghiệp, cơ cấu tài sản doanh
nghiệp, thuế, thanh khoản. Nghiên cứu đã
tìm ra một số điểm thú vị, đặc biệt các yếu
tố tác động đến cấu trúc vốn là khác nhau
đối với đòn bẩy dài hạn và đòn bẩy ngắn
hạn. Trong ngắn hạn, tỷ lệ đòn bẩy chịu tác
động bởi các yếu tố quy mô, lợi nhuận, cấu
trúc tài sản, và thanh khoản doanh nghiệp.
Trong dài hạn, tỷ lệ đòn bẩy tài chính chịu
tác động bởi quy mô, lợi nhuận, cấu trúc
tài sản, cơ hội tăng trưởng và thanh khoản.
Thuế không tác động đến cấu trúc vốn cả
trong dài hạn và ngắn hạn.■
Tài liệu tham khảo
Allen, D. E., & Mizuno, H. (1989). The determinants of corporate capital structure: Japanese evidence. Applied
Economics, 21(5), 569-585.
Almanaseer, S. R. (2019). Determinants of Capital Structure: Evidence from Jordan. Accounting and Finance Research,
8(4), 186-198.
ALmuaither, S., & Marzouk, M. (2019). Determinants of Capital Structure: Evidence from the UK. Journal of Modern
Accounting and Auditing, 15(6), 261-292.
Anh, Đ. T. Q., & Yến, Q. T. H. (2014). Các nhân tố tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE). Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 18(28), 34-39.
Bandyopadhyay, A., & Barua, N. M. (2016). Factors determining capital structure and corporate performance in India:
Studying the business cycle effects. The Quarterly Review of Economics and Finance, 61, 160-172.
Bauer, P. (2004). Determinants of capital structure: empirical evidence from the Czech Republic. Czech Journal of
Economics and Finance (Finance a uver), 54(1-2), 2-21.
Bennett, M., & Donnelly, R. (1993). The determinants of capital structure: some UK evidence. The British Accounting
Review, 25(1), 43-59.
Bevan, A. A., & Danbolt, J. (2000). Dynamics in the determinants of capital structure in the UK.
Booth, L., Aivazian, V., Demirguc‐Kunt, A., & Maksimovic, V. (2001). Capital structures in developing countries. The
journal of finance, 56(1), 87-130.
Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch
Chứng khoán Hồ Chí Minh
36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
Brigham, E. F., & Houston, J. F. (2012). Fundamentals of financial management: Cengage Learning.
Cassar, G., & Holmes, S. (2003). Capital structure and financing of SMEs: Australian evidence. Accounting & Finance,
43(2), 123-147.
Chen, J., & Strange, R. (2005). The determinants of capital structure: Evidence from Chinese listed companies. Economic
change and Restructuring, 38(1), 11-35.
Chí, L. Đ. (2013). Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hoạch định cấu trúc vốn của các nhà quản trị tài chính tại Việt Nam.
Tạp chí Phát triển và Hội nhập(9 (19)), 22-28.
Dân, Đ. V., & Chung, N. H. (2017). Các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Tạp chí
Kinh tế Đối Ngoại, 91(Số 91).
Fama, E. F., & French, K. R. (2002). Testing trade-off and pecking order predictions about dividends and debt. The
review of financial studies, 15(1), 1-33.
Gujarati, D. (1995). Basic Econometrics. International Edition, Prentice-Hall International, Inc.
Huang, G. (2006). The determinants of capital structure: Evidence from China. China economic review, 17(1), 14-36.
Kraus, A., & Litzenberger, R. H. (1973). A state-preference model of optimal financial leverage. The journal of finance,
28(4), 911-922.
Lê Mạnh Hưng và các tác giả. (2015). Giáo trình Tài chính doanh nghiệp. Nhà xuất bản tài chính.
Li, X. (2015). The determinants of capital structure. Journal of Computational and Theoretical Nanoscience, 12(7),
1266-1271.
Myers, S. C. (1977). Determinants of corporate borrowing. Journal of Financial Economics, 5(2), 147-175.
Myers, S. C. (1984). The capital structure puzzle. The journal of finance, 39(3), 574-592.
Myers, S. C., & Majluf, N. S. (1984). Corporate financing and investment decisions when firms have information
that investors do not have. Journal of Financial Economics, 13(2), 187-221. doi:https://doi.org/10.1016/0304-
405X(84)90023-0
Oino, I., & Ukaegbu, B. (2014). The determinants of capital structure: A comparison of financial and non-financial firms
in a regulated developing country–Nigeria. African Journal of Economic and Management Studies, 5(3), 341-368.
Ooi, J. (1999). The determinants of capital structure Evidence on UK property companies. Journal of Property Investment
& Finance, 17(5), 464-480. doi:10.1108/14635789910294886
Pathak, J. (2010). What Determines Capital structure of listed firms in India?: Some empirical evidences from the Indian
capital market. Some Empirical Evidences from The Indian Capital Market (April 21, 2010).
Ross, S., Westerfield, R., & Jaffe, J. (2012). Corporate finance: McGraw-Hill Higher Education.
Ross, S. A., Westerfield, R., & Jordan, B. D. (2008). Fundamentals of corporate finance: Tata McGraw-Hill Education.
Salameh, H. (2014). Testing Some Determinants of Capital Structure. Journal of King Abdulaziz University: Economics
& Administration, 28(1).
Taub, A. J. (1975). Determinants of the firm’s capital structure. The Review of Economics and Statistics, 410-416.
Vo, X. V. (2017). Determinants of capital structure in emerging markets: Evidence from Vietnam. Research in International
Business and Finance, 40, 105-113.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_tac_dong_den_cau_truc_von_cua_cac_doanh_nghiep_ni.pdf