KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả khảo sát 120 hộ nông dân trồng lúa tại
huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh cho thấy người
dân trong vùng có khoảng thu nhập dao động rất
rộng, bình quân đạt 132 triệu đồng/hộ/năm, mức
cao nhất có thể lên đến 500 triệu đồng/hộ/năm.
Diện tích canh tác lúa trung bình đạt 1,37 ha/hộ.
Nghiên cứu đã xác định được các yếu tố chính góp
phần gia tăng thu nhập của nông hộ trồng lúa tại
địa bàn nghiên cứu bao gồm diện tích đất trồng lúa,
thu nhập phi nông nghiệp và tham gia vào tổ chức
xã hội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này đã một lần nữa
khẳng định giả thuyết: Mỗi vùng sản xuất với các đặc
trưng vùng khác nhau sẽ có nhóm yếu tố tác động
lên thu nhập của người dân trồng lúa khác nhau.
Ở đây, yếu tố “Thu nhập phi nông nghiệp” và “Tham
gia vào tổ chức xã hội” là 2 yếu tố tác động đặc
trưng cho vùng trồng lúa của huyện Châu Thành,
tỉnh Trà Vinh.
4.2. Đề nghị
Để nâng cao thu nhập, góp phần cải thiện đời
sống cho người nông dân trồng lúa tại Trà Vinh,
nghiên cứu đề xuất một số vấn đề cần được quan
tâm như sau:
- Đối với chính quyền địa phương: (1) tăng cường
tạo việc làm tại chỗ cho người nông dân thông qua
việc khuyến khích các tập thể, cá nhân mở các cơ sở
sản xuất, kinh doanh. để tận dụng lao động nông
thôn giúp gia tăng thu nhập cho nông hộ; (2) tăng
cường đầu tư, quan tâm đến hiệu quả hoạt động của
các tổ chức xã hội nông thôn để thu hút được sự
tham gia của người nông dân nhằm tăng hiệu quả
đầu tư của Nhà nước đồng thời cải thiện tính cạnh
tranh của nông sản.
- Đối với người nông dân trồng lúa: (1) chủ động
tìm kiếm và tham gia vào lao động phi nông nghiệp
để cải thiện thu nhập nhất là những hộ có diện tích
đất canh tác nhỏ; (2) việc tham gia vào các hợp tác
xã, tổ hợp tác sản xuất là rất cần thiết để gia tăng kiến
thức, kinh nghiệm sản xuất, thông tin thị trường, và
đồng thời gia tăng sức cạnh tranh khi sản xuất hàng
hóa số lượng lớn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tác động đến thu nhập của nông hộ trồng lúa tại huyện Châu Thành, Trà Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
84
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Tiêu chuẩn Việt Nam, 2012. TCVN 6862:2012 (ISO
11277:2009). Tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng đất
- Xác định thành phần cấp hạt trong đất khoáng -
Phương pháp rây và sa lắng.
Chan K.Y., Xu Z., 2009. Biochar Nutrient Properties
and their Enhancement. Biochar for Environmental
Managerment. Science and Technology (Eds. Lehmann J.
& Joseph S.) Earthscan.
Downie A., Crosky A. and Munroe P., 2009. Physical
properties of biochar. In: Biochar for Environmental
Management, Science and Technology. J. L. Lehmann,
and J. S. Joseph (eds.). Earthscan Publishers Ltd.,
London, pp. 13-32.
Glaser B., L. Haumaier, G. Guggenberger, and W.
Zech., 2001. The ‘Terra Preta’ phenomenon: A model
for sustainable agriculture in the humid tropics.
Naturwissenschaften 88: 37-41.
Glaser B., J. Lehmann, and W. Zech., 2002.Ameliorating
physical and chemical properties of highly weathered
soils in the tropics with charcoal VA review. Biol.
Fertil. Soils 35: 219-230.
Gokila B. and Baskar K., 2015. Characterization of
Prosopis juliflora L. biochar and its influence of soil
fertility on maize in alfsols. International Journal
of Plant, Animal and Environmental Sciences 5(1):
123-127.
Laird D. A., Fleming P., Davis D., Horton R., Wang B.,
and Karlen D. L., 2010. Impact of biochar
amendments on the quality of a typical Midwestern
agricultural soil. Geoderma 158: 443-449.
Liang B., Lehmann J., Solomon D., Kinyangi J.,
Grossman J., O’Neill B., Skjemstad J.O., Thies
J., Luiza F.J., Petersen J., Neves E G., 2006. Black
carbon increases cation exchange capacity in soils.
Soil Sci Soc Am J 70: 1719-1730.
Karhu K., Mattila T., Bergstrom I., and Regina K.,
2011. Biochar addition to agricultural soil increased
CH4 uptake and water holding capacityV Results
from a short-term field study. Agric. Ecosyst. Environ.
140: 309-313.
Shackley S., and S. Sohi., 2010. An assessment of the
benefits and issues associated with the application
of biochar to soil. Available from :
ed.ac.uk/homes/sshackle/SP0576_final_report.pdf.
Accessed on May 25, 2011.
Sohi S.P., Krull E., Lopez-Capel E., Bol R., 2010. A
review of biochar and its use and function in soil. In
D. L. Sparks (Ed.), Advances in agronomy Burlington:
Academic Press, 105: 47-82.
Effects of coffee husk biochar on coffee productivity and soil quality
Luong Huu Thanh, Vu Thuy Nga, Dam Trong Anh, Ngo Thi Ha,
Nguyen Ngoc Quynh, Hua Thi Son, Nguyen Kieu Bang Tam
Abstract
This study presents the results of using biochar produced from coffee husk for fertilizing coffee trees. The results
showed that using biochar with the amount from 0.5 - 1 tons/ha replaced 25% of NPK fertilizer and increased the
rate of fruiting from 2.24 to 8.85%, fruit weight from 0.11 to 1.07% and the yield of fresh fruits from 5.3 to 8.9%.
The use of biochar could immediately increase soil moisture by 5.33 - 7.02%; increase P2O5 by 21.80 - 42.8% and ion
exchange by 66.26 - 66.70% in comparison with the control; thereby showing the role of biochar in soil moisture
retention, and increasing the potential fertility and improving soil nutrition for coffee plantation .
Keywords: Biochar, coffee husk, soil quality, coffee productivity
Ngày nhận bài: 11/3/2020
Ngày phản biện: 18/3/2020
Người phản biện: PGS. TS. Phạm Quang Hà
Ngày duyệt đăng: 23/3/2020
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THU NHẬP CỦA NÔNG HỘ TRỒNG LÚA
TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH, TRÀ VINH
Lê Trúc Linh1, Phan Chí Hiếu1, Lê Thị Nghĩa1, Huỳnh Nga1,
Phan Quốc Nam1, Đặng Hòa Thái1, Lưu Thị Thúy Hải1
TÓM TẮT
Nghề sản xuất lúa của người dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và ở tỉnh Trà Vinh nói riêng đã
và đang đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức làm giảm đáng kể nguồn thu nhập của nông hộ. Vì vậy, nghiên
cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu những yếu tố có tác động lớn đến thu nhập của nông hộ trồng lúa tại huyện
Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Số liệu nghiên cứu được thu thập dựa trên bảng câu hỏi và được phân tích bằng phương
1 Khoa Nông nghiệp Thủy sản, Trường Đại học Trà Vinh
85
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
pháp hồi quy đa biến. Kết quả phân tích đã cho thấy khi gia tăng diện tích canh tác lên 1% thì thu nhập của nông hộ
gia tăng khoảng 0,43%. Hai yếu tố tham gia lao động khác ngoài hoạt động sản xuất nông nghiệp và là thành viên
của các tổ chức xã hội cũng góp phần giúp thu nhập của nông hộ trồng lúa tăng thêm 49% và 23% tương ứng. Do
vậy, để góp phần tăng thu nhập cho nông hộ trồng lúa, người nông dân cần chủ động tham gia các hoạt động ngoài
nông nghiệp cũng như khai thác hiệu quả tích cực của việc tham gia các tổ chức đoàn thể tại địa phương.
Từ khóa: Trà Vinh, thu nhập, thu nhập phi nông nghiệp, trồng lúa, nông dân
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những tỉnh duyên hải thuộc vùng Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thì Trà Vinh có chỉ số
tác động của lũ lụt, độ mặn và chỉ số dễ bị tổn thương
do biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất lúa cao
nhất do cao trình bình quân so với mực nước biển
chỉ khoảng 1 mét và tỉ lệ diện tích lúa dựa vào nước
mưa cao, và nếu không có những kế hoạch thích
ứng cũng như đối phó thích hợp thì việc sản xuất
lúa của các tỉnh trong vùng sẽ ngày càng khó khăn
hơn (Ngoc-Thuy và Ha-Anh, 2015). Tương tự, Tivet
và Boulakia (2017) cũng nhận thấy người trồng lúa
hiện nay phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong
sản xuất. Thứ nhất, họ giữ vai trò quan trọng trong
việc cung cấp lương thực và đảm bảo dinh dưỡng để
đáp ứng nhu cầu của dân số thế giới ngày càng tăng.
Ngoài ra, bản thân người trồng lúa còn phải đối phó
với sự tác động ngày càng khắc nghiệt của biến đổi
khí hậu, suy giảm độ phì nhiêu của đất canh tác, và
sự khan hiếm nước cho sản xuất. Tất cả các yếu tố
trên đều có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất
cũng như thu nhập của người dân trồng lúa.
Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến đặc điểm
nông hộ cũng như yếu tố kinh tế xã hội cũng có
ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập của người dân
trồng lúa. Việc đánh giá hiệu quả sản xuất của người
dân trồng lúa cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến
thu nhập của người nông dân thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở khu vực ĐBSCL và
nhiều địa phương trên cả nước như Huỳnh Thị Đan
Xuân và Mai Văn Nam (2011), Nguyễn Tiến Dũng
và cộng tác viên (2014), Nguyễn Lan Duyên (2014),
Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng (2015),
Võ Thành Khởi (2015) và Lê Đình Hải (2017). Các
nghiên cứu này rất cần thiết không chỉ cho bản thân
người nông dân để có những cải thiện phù hợp mà
còn rất hữu ích cho chính quyền địa phương trong
việc hỗ trợ cho người dân một cách kịp thời và hiệu
quả. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào phân
tích và đánh giá các yếu tố tác động đến thu nhập của
người nông dân trồng lúa ở tỉnh Trà Vinh. Nghiên
cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định thực
trạng thu nhập của người dân trồng lúa tại huyện
Châu Thành, Trà Vinh cũng như các yếu tố tác động
đến thu nhập của nông hộ.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được chọn trong nghiên cứu là các nông
hộ trồng lúa tại Huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Mô hình nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, các yếu tố như trình độ
học vấn của chủ hộ, kinh nghiệm sản xuất lúa, diện
tích đất trồng lúa, chi phí sản xuất lúa, sản lượng
lúa cả năm, thu nhập từ hoạt động phi nông nghiệp,
thành viên của tổ chức đoàn thể, tham gia tập huấn
về sản suất lúa, và tiếp cận vốn vay được đưa vào
mô hình ước lượng để xác định khả năng ảnh hưởng
đến thu nhập của nông hộ trồng lúa tại huyện Châu
Thành, tỉnh Trà Vinh.
Mô hình phân tích hồi quy tuyến tính logarit
được áp dụng trong phân tích như sau:
ln(Y) = β0 + β1 lnX1 + β2 lnX2 + β3 lnX3 + β4 lnX4 +
β5 lnX5 + β6 lnX6 + β7 X7 + β8 X8 + β9 X9
Trong đó: Y là biến phụ thuộc, các biến X là các
biến độc lập, và ln là logarit tự nhiên.
Tên các biến và diễn giải được thể hiện trong
bảng 1.
2.2.2. Thu thập số liệu
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu được thu thập
từ 120 nông hộ sản xuất lúa và khảo sát dựa vào bảng
câu hỏi được thiết kế sẵn. Phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên phân tầng được áp dụng trong nghiên
cứu. Trong đó, các xã thuộc vùng ven Thành phố Trà
Vinh và Thị trấn Châu Thành bao gồm Mỹ Chánh,
Đa Lộc, Song Lộc và Hòa Lợi được lựa chọn cho
nghiên cứu. Tại mỗi xã, có 30 hộ trồng lúa được lựa
chọn ngẫu nhiên để khảo sát về thu nhập, đặc điểm
của nông hộ, hiện trạng canh tác lúa cùng các đặc
điểm kinh tế xã hội.
Từ số liệu thu thập được, phương pháp thông kê
mô tả được áp dụng trong nghiên cứu để đánh giá
hiện trạng sản xuất lúa của các nông hộ khảo sát.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của các yếu tố đến thu nhập
của nông hộ trồng lúa được ước lượng bằng phương
pháp hồi quy đa biến.
86
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Bảng 1. Diễn giải các biến được sử dụng trong mô hình phân tích
Kí hiệu Tên biến Diễn giải
Y Thu nhập nông hộ Tổng thu nhập của nông hộ từ hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp
X1 Trình độ học vấn Số năm đi học của chủ hộ (năm)
X2 Kinh nghiệm Số năm chủ hộ tham gia trồng lúa tính tới thời điểm nghiên cứu (năm)
X3 Diện tích Diện tích đất hộ đang canh tác lúa (ha)
X4 Chi phí sản xuất Tổng chi phí cho việc sản xuất lúa cả năm (triệu đồng/năm)
X5 Sản lượng lúa Tổng sản lượng lúa mà hộ thu được trong năm (tấn)
X6 Thu nhập phi nông nghiệp
Biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ có nguồn thu khác ngoài thu từ hoạt động sản
xuất nông nghiệp; nhận giá trị 0 khi không có nguồn thu ngoài nông nghiệp
X7
Thành viên
tổ chức xã hội
Biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ là thành viên của hợp tác xã, tổ hợp tác, hội
nông dân, câu lạc bộ; nhận giá trị 0 khi không là thành viên của bất kỳ tổ chức nào
X8 Tham gia tập huấn
Biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ có tham gia tập huấn liên quan đến sản xuất
lúa; nhận giá trị 0 khi không tham gia tập huấn
X9 Vay vốn sản xuất
Biến giả, nhận giá trị 1 nếu chủ hộ có vay vốn để sản xuất lúa; nhận giá trị 0 khi
không vay
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 02 đến tháng
4 năm 2019 tại huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm của nông hộ trồng lúa
Một số đặc điểm của các nông hộ trồng lúa thuộc
mẫu điều tra tại huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
được trình bày tại bảng 2. Kết quả phân tích thống
kê mô tả cho thấy thu nhập của các nông hộ trong
nghiên cứu đạt bình quân hơn 132 triệu đồng/hộ/
năm và có khoảng dao động rất lớn từ chỉ khoảng
24 đến gần 500 triệu đồng/hộ/năm. Trình độ học
vấn của người nông dân đạt gần 8 năm đi học và
bình quân người dân đã trãi qua gần 22 năm gắn bó
với cây lúa. Nhìn chung, các hộ điều tra có diện tích
canh tác lúa ở mức khá bình quân 1,37 ha/hộ, cá biệt
có những hộ đang sản xuất đến 6 ha. Chỉ 33% số hộ
điều tra có tham gia vào các tổ chức xã hội tại địa
phương và có đến hơn 70% được tham gia các lớp
tập huấn trong quá trình canh tác.
Bảng 2. Thống kê mô tả những nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập nông hộ trồng lúa
tại huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, 2018
Biến số Đơn vị Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình Độ lệch
Tổng thu nhập Triệu đồng/năm 24,11 498,83 132,01 72,88
Trình độ học vấn Năm 2,00 12,00 7,91 2,78
Kinh nghiệm Năm 6,00 40,00 21,79 8,58
Diện tích ha 0,50 6,00 1,37 0,91
Chi phí sản xuất Triệu đồng/năm 6,76 300,15 70,48 50,27
Sản lượng lúa 1.000 kg 5,50 147,60 23,18 19,73
Thu nhập phi nông nghiệp Biến giả 0,00 1,00 0,68 0,47
Thành viên tổ chức xã hội Biến giả 0,00 1,00 0,33 0,47
Tham gia tập huấn Biến giả 0,00 1,00 0,70 0,46
Vay vốn sản xuất Biến giả 0,00 1,00 0,16 0,37
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm tác giả.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy có rất ít hộ được
tiếp cận với vốn vay trong quá trình sản xuất (16%)
nhưng có đến 68% nông hộ có nguồn thu nhập khác
ngoài nguồn thu từ các hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Trong đó, thu nhập ngoài nông nghiệp như
lương, lao động, tiểu thủ công nghiệp, đóng góp
khoảng 33% trong cơ cấu thu nhập của nông hộ
(Hình 1).
87
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Hình 1. Cơ cấu thu nhập nông hộ trồng lúa
tại huyện Châu Thành tỉnh Trà Vinh, 2018
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm tác giả.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông
hộ trồng lúa
Kết quả ước lượng các yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập của nông hộ trồng lúa được trình bày ở Bảng 3.
Mô hình hồi quy đạt mức ý nghĩa thống kê cao với
giá trị F của mô hình ước lượng đạt 10,62, cao hơn
giá trị F bảng với độ tự do 8 và cỡ mẫu 120 (2,51) ở
mức ý nghĩa 1%. Do đó, kết quả nghiên cứu đã cho
thấy thu nhập của nông hộ trồng lúa tại huyện Châu
Thành, tỉnh Trà Vinh chịu ảnh hưởng bởi một số yếu
tố được xác định trong mô hình hồi quy.
Bảng 3. Kết quả phân tích hồi quy những nhân tố ảnh hưởng
đến thu nhập nông hộ trồng lúa tại huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, 2018
Biến số Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Giá trị t Giá trị p
Hằng số 17,50** 0,74 23,78 0,00
Ln Trình độ học vấn 0,07 0,10 0,70 0,48
Ln Kinh nghiệm -0,05 0,10 -0,50 0,62
Ln Diện tích 0,43* 0,19 2,32 0,02
Ln Chi phí sản xuất -0,05 0,14 -0,36 0,72
Ln Sản lượng lúa 0,27 0,17 1,62 0,11
Thu nhập phi nông nghiệp (biến giả) 0,49** 0,10 5,06 0,00
Thành viên tổ chức xã hội (biến giả) 0,23** 0,09 2,69 0,01
Tham gia tập huấn (biến giả) 0,09 0,10 0,89 0,38
Vay vốn sản xuất (biến giả) -0,07 0,11 -0,63 0,53
Biến phụ thuộc: Ln (tổng thu nhập, triệu đồng/năm)
F = 10,62; Sig. = 0,00; Hệ số R2 = 0,47; Hệ số R2 hiệu chỉnh = 0,42; Dubin-Watson = 1,76
Ghi chú: ** và *: có ý nghĩa ở mức 1% và 5% tương ứng.
Nguồn: Số liệu điều tra của nhóm tác giả.
Diện tích đất là một trong những nguồn lực sản
xuất quan trọng đối với người nông dân. Kết quả ước
lượng từ mô hình cho thấy yếu tố này có ảnh hưởng
tích cực đến thu nhập của nông hộ ở mức ý nghĩa
5%. Cụ thể các hộ có diện tích đất trồng lúa càng lớn
thì có mức thu nhập càng cao. Giá trị của hệ số ước
lượng cho thấy khi gia tăng diện tích canh tác lên
1% thì thu nhập của nông hộ gia tăng khoảng 0,43%.
Những kết quả nghiên cứu trước đây của Nguyễn
Tiến Dũng và cộng tác viên (2014) và Karmini
(2017) cũng đã xác định vai trò của yếu tố này trong
việc gia tăng thu nhập người trồng lúa. Tuy nhiên,
theo nhận định của Nguyễn Tiến Dũng và cộng tác
viên (2014) nếu xét về lợi nhuận thu được trên mỗi
hecta đất canh tác thì không có sự chênh lệch nhiều
giữa các hộ khảo sát do người dân trong vùng áp
dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất tương đối giống nhau.
Yếu tố Thu nhập phi nông nghiệp cũng có đóng
góp nhất định vào thu nhập của người trồng lúa. Yếu
tố này có ảnh hưởng tích cực đến thu nhập của hộ ở
mức ý nghĩa 1%. Giá trị của hệ số ước lượng là 0,49
cho thấy thu nhập của hộ có tham gia lao động khác
ngoài hoạt động sản xuất nông nghiệp cao hơn 49%
so với những hộ không có nguồn thu khác. Có thể
do địa bàn sinh sống của người dân trong nghiên
cứu này thuộc vùng ven thành phố nên có nhiều
cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp. Điều này
giải thích tại sao yếu tố Thu nhập khác lại có đóng
góp quan trọng vào thu nhập chung của nông hộ.
Trong thực tế sản xuất lúa, có rất nhiều thời điểm
cây không cần quá nhiều đến việc chăm sóc, quản
lý, do đó nếu người dân tận dụng được khoảng thời
gian nhàn rỗi thì có thể tìm thêm thu nhập cho gia
đình. Theo Alam và Effendy (2017), để giúp cho hoạt
động sản xuất lúa có sự tăng trưởng và phát triển
88
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
bền vững về lâu dài thì việc gia tăng thu nhập cho
nông hộ trồng lúa là rất quan trọng.
Việc tham gia vào các tổ chức xã hội cũng có ảnh
hưởng tích cực ở mức ý nghĩa 1% vào thu nhập của
nông hộ. Trong đó, thu nhập của người nông dân
trồng lúa cao hơn 23% khi họ là thành viên của các
tổ chức xã hội. Điều này đã phần nào khẳng định
vai trò của các hoạt động tổ nhóm, đoàn thể tại địa
phương. Việc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm sản
xuất cũng như khả năng hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa
các thành viên sẽ tốt hơn khi sản xuất riêng lẻ.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả khảo sát 120 hộ nông dân trồng lúa tại
huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh cho thấy người
dân trong vùng có khoảng thu nhập dao động rất
rộng, bình quân đạt 132 triệu đồng/hộ/năm, mức
cao nhất có thể lên đến 500 triệu đồng/hộ/năm.
Diện tích canh tác lúa trung bình đạt 1,37 ha/hộ.
Nghiên cứu đã xác định được các yếu tố chính góp
phần gia tăng thu nhập của nông hộ trồng lúa tại
địa bàn nghiên cứu bao gồm diện tích đất trồng lúa,
thu nhập phi nông nghiệp và tham gia vào tổ chức
xã hội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài này đã một lần nữa
khẳng định giả thuyết: Mỗi vùng sản xuất với các đặc
trưng vùng khác nhau sẽ có nhóm yếu tố tác động
lên thu nhập của người dân trồng lúa khác nhau.
Ở đây, yếu tố “Thu nhập phi nông nghiệp” và “Tham
gia vào tổ chức xã hội” là 2 yếu tố tác động đặc
trưng cho vùng trồng lúa của huyện Châu Thành,
tỉnh Trà Vinh.
4.2. Đề nghị
Để nâng cao thu nhập, góp phần cải thiện đời
sống cho người nông dân trồng lúa tại Trà Vinh,
nghiên cứu đề xuất một số vấn đề cần được quan
tâm như sau:
- Đối với chính quyền địa phương: (1) tăng cường
tạo việc làm tại chỗ cho người nông dân thông qua
việc khuyến khích các tập thể, cá nhân mở các cơ sở
sản xuất, kinh doanh... để tận dụng lao động nông
thôn giúp gia tăng thu nhập cho nông hộ; (2) tăng
cường đầu tư, quan tâm đến hiệu quả hoạt động của
các tổ chức xã hội nông thôn để thu hút được sự
tham gia của người nông dân nhằm tăng hiệu quả
đầu tư của Nhà nước đồng thời cải thiện tính cạnh
tranh của nông sản.
- Đối với người nông dân trồng lúa: (1) chủ động
tìm kiếm và tham gia vào lao động phi nông nghiệp
để cải thiện thu nhập nhất là những hộ có diện tích
đất canh tác nhỏ; (2) việc tham gia vào các hợp tác
xã, tổ hợp tác sản xuất là rất cần thiết để gia tăng kiến
thức, kinh nghiệm sản xuất, thông tin thị trường, và
đồng thời gia tăng sức cạnh tranh khi sản xuất hàng
hóa số lượng lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Lan Duyên, 2014. Các yếu tố ảnh hưởng đến
thu nhập của nông hộ ở An Giang. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học An Giang, 3 (2): 63-69.
Nguyễn Tiến Dũng, Bùi Văn Trịnh và Phan Thuận,
2014. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người
nông dân trồng lúa ở Cần Thơ. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 31: 117-123.
Lê Đình Hải, 2017. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu
nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm
nghiệp, (4): 162-171.
Võ Thành Khởi, 2015. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu
nhập của hộ gia đình ở huyện chợ lách tỉnh Bến Tre.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Trà Vinh, 8: 59-65.
Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng, 2015. Ảnh
hưởng của nguồn lực đến thu nhập của nông hộ tỉnh
Thanh Hóa: nghiên cứu điển hình ở huyện Thọ Xuân
và Hà Trung. Tạp chí Khoa học và Phát triển, 13 (6):
1051-1060.
Lê Xuân Thái, 2014. Các yếu tố ảnh hưởng thu nhập
của nông hộ trong các mô hình sản xuất trên đất lúa
tại tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ, 35: 79-86.
Huỳnh Thị Đan Xuân và Mai Văn Nam, 2011. Phân
tích yếu tổ ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ chăn
nuôi gia cẩm ở đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ, 17: 87 - 96.
Alam, M. N., and Effendy, 2017. Identifying Factors
Influencing Production and Rice Farming Income
with Approach of Path Analysis. American Journal
of Agricultural and Biological Sciences, 12 (1): 39-43.
doi:10.3844/ajabssp.2017.39.43
Karmini, 2017. Factors affecting paddy farm income in
East Kalimantan, Indonesia. Biodiversitas, 18: 101-108.
Ngoc-Thuy, N. and Ha-Anh, H., 2015. Vulnerability
of rice production in Mekong River Delta
under impacts from floods, salinity and climate
change. International Journal on Advanced Science,
Engineering and Information Technology, 5 (4):
272-279.
Tivet, F., and S. Boulakia, S., 2017. Climate Smart Rice
Cropping systems in Vietnam. State of knowledge and
prospects. Montpellier, France: CIRAD, 41 p.
89
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 3(112)/2020
Factors influencing rice farming households’ income
in Chau Thanh district, Tra Vinh province
Le Truc Linh, Phan Chi Hieu, Le Thi Nghia, Huynh Nga,
Phan Quoc Nam, Dang Hoa Thai, Luu Thi Thuy Hai
Abstract
Farmers’ rice production in Tra Vinh in particular and in other provinces in general in the Mekong Delta has been
facing difficulties and challenges because of reducing farmers’ income. Therefore, this study was conducted to
identify factors influencing the total income of rice farms in Chau Thanh district, Tra Vinh province. The research
data were collected by interviewing the farmers using structured questionnaires and analyzed by applying the
multivariate regression method. The results of statistical analysis showed that when increasing 1% rice cultivated
area, the household income could be improved by about 0.43%. Participating in non-agricultural activities and social
organizations could also help the farmers enhancing their income by 49% and 23%, respectively. Hence, in order
to improve the income, the rice farmers should actively participate in non-agricultural activities, and explore the
positive effects of joining social organizations in their communities.
Keywords: Tra Vinh, income, non-agricultural income, rice, farmer
Ngày nhận bài: 10/3/2020
Ngày phản biện: 19/3/2020
Người phản biện: TS. Đoàn Mạnh Tường
Ngày duyệt đăng: 23/3/2020
1 Đại học Nông Lâm Bắc Giang; 2 Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN ĐIỀU CHỈNH
QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN NĂM 2020 THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU,
TỈNH QUẢNG NINH
Khương Mạnh Hà1, Nguyễn Hữu Hảo2, Nguyễn Văn Hoan2
TÓM TẮT
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) thị xã Đông Triều
đến năm 2020 tổng diện tích đất nông nghiệp chuyển mục đích sử dụng là 2.453,79 ha, trong đó chủ yếu chuyển sang
mục đích phi nông nghiệp, chuyển mục đích trong nội bộ đất nông nghiệp là 87,15 ha. Diện tích đất chưa sử dụng
được đưa vào sử dụng là 435,66 ha. Việc thực hiện phương án điều chỉnh QHSDĐ đến năm 2020 đã tác động đến các
mặt kinh tế, xã hội và môi trường của thị xã Đông Triều. Bên cạnh đó, phương án điều chỉnh QHSDĐ đã giúp chính
quyền địa phương sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên đất đai, tạo nguồn lực cho định hướng quy hoạch
theo đúng chiến lược kinh tế xã hội của Thị xã đề ra. Từ việc đánh giá tác động của phương án điều chỉnh QHSDĐ
thị xã Đông Triều đến năm 2020 nghiên cứu đã đề xuất một số nhóm giải pháp: Giải pháp về tổ chức thực hiện quy
hoạch; Giải pháp về chính sách đất đai; Giải pháp về nguồn lực; Giải pháp bảo vệ môi trường phù hợp với quá trình
phát triển của thị xã Đông Triều trong thời gian tới.
Từ khóa: Kinh tế - xã hội, phương án, quy hoạch sử dụng đất, thị xã Đông Triều
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quy hoạch sử dụng đất (Land Use Planning) là
một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp
chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đai đầy đủ
và hợp lý có hiệu quả cao thông qua việc phân phối
và tái phân phối quỹ đất của quốc gia, tổ chức sử
dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng với các tư
liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và
bảo vệ môi trường (Đoàn Công Quỳ, 2006).
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là
một yêu cầu đặc biệt để phân bổ quỹ đất cho các lĩnh
vực và đối tượng sử dụng hợp lý, có hiệu quả phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội (KTXH), giữ vững an ninh
quốc phòng, tránh được sự chồng chéo, gây lãng phí
trong sử dụng, hạn chế sự huỷ hoại đất đai, phá vỡ
môi trường sinh thái. Vì vậy, việc đánh giá chính
xác, khách quan các tác động tích cực, tiêu cực của
phương án QHSDĐ đến tình hình phát triển kinh tế -
xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đề ra các giải pháp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cac_yeu_to_tac_dong_den_thu_nhap_cua_nong_ho_trong_lua_tai_h.pdf