- Creatinine trung bình của nhóm tử vong
cao hơn nhóm sống (121,89 so với 98,84
(µmol/l)), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p=0,041. Nhưng khi chúng tôi đưa vào phân tích
đa biến thì đây không phải là yếu tố tiên lượng
tử vong độc lập.
- Tương tự chúng tôi cũng ghi nhận SGOT,
SGPT không là yếu tố tiên lượng độc lập khi đưa
vào phân tích đa biến.
- Mức độ hôn mê, tỉ lệ tử vong liên quan đến
thể tích ổ tổn thương não. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, thể tích ổ xuất huyết <30ml ở nhóm
sống cao hơn so với nhóm tử vong (99,5% so với
69,95), thể tích 30-60ml ở nhóm tử vong cao hơn
so với nhóm sống (26% so với 0,5%), những
bệnh nhân có thể tích ổ xuất huyết >60ml đều tử
vong, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Nhưng khi chúng tôi đưa vào phân tích đa biến,
thể tích ổ xuất huyết không là yếu tố tiên lượng
tử vong độc lập.
- Thang điểm ICH là thang điểm được xác
nhận trong nhiều dân số khác nhau, bao gồm cả
người Châu Á. Theo tác giả Gant(8) thang điểm
ICH liên quan chặt chẽ với tỉ lệ tử vong. Thang
điểm ICH là 5 thì 100% tử vong trong 30 ngày.
Ngoài ra thang điểm này cũng dùng để tiên
lượng hồi phục chức năng. Trong mẫu nghiên
cứu của chúng tôi chia thành 2 nhóm thang điểm
“thấp” và “cao”, kết quả cho thấy có sự liên
quan về thang điểm ICH cao với tiên lượng tử
vong, cụ thể thang điểm ICH (Nhóm cao) ở
nhóm tử vong 56,2% cao hơn nhóm sống 3,2% .
Như vậy thang điểm ICH (nhóm cao) là yếu tố
liên quan đến tiên lượng tử vong. Nhưng khi
chúng tôi đưa vào phân tích đa biến thì yếu tố
này không là yếu tố tiên lượng độc lập. Giải
thích điều này có thể là do cỡ mẫu nghiên cứu
chúng tôi chưa đủ lớn cần tiến hành với cỡ mẫu
lớn hơn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 418 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các yếu tố tiên lượng tử vong trên bệnh nhân xuất huyết não tại bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
8
CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG TRÊN BỆNH NHÂN
XUẤT HUYẾT NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH SÓC TRĂNG
Lý Ngọc Tú*, Lương Thị Quỳnh Hoa*
TÓM TẮT
Cơ sở: Xuất huyết não chiếm 10%-15% đột quỵ chung, gây tử vong và tàn tật cao hơn nhồi máu não và
xuất huyết khoang dưới nhện (5,6). Theo thống kê năm 2008 tại Bệnh Viện Đa Khoa Tỉnh Sóc Trăng, tỉ lệ tử vong
của nhồi máu não là 1,49%, xuất huyết não là 7,78%, xuất huyết khoang dưới nhện là 0%. Việc xác định các yếu
tố tiên lượng tử vong của xuất huyến não giúp ngăn chặn, can thiệp sớm, tiên lượng và điều trị kịp thời làm cải
thiện tử vong, giảm tải cho tuyến trên.
Phương pháp: Đây là nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang, đối tượng là những bệnh nhân xuất huyết não nhập
vào khoa nội II và khoa hồi sức cấp cứu nội Bệnh Viện Đa Khoa Tỉnh Sóc Trăng trong vòng 48 giờ đầu.
Kết quả: Trong 334 trường hợp xuất huyết não cấp có 146 ca tử vong (43,7%). Mạch ≥ 100l/phút, tăng
huyết áp giai đoạn II, nhiệt độ≥37,50C, nhịp thở bất thường, kiểu thở bất thường, Glasgow<8, đồng tử bất
thường, phản xạ mắt búp bê ngang mất, phản xạ mắt búp bê dọc mất, bạch cầu ≥10000/mm3, đường huyết
≥200mg%, Kali máu bất thường, Creatinine, SGOT, SGPT, thể tích ổ xuất huyết cao, thang điểm ICH cao, xuất
huyết não có tràn não thất là các yếu tố nguy cơ có liên quan đến tin lượng tử vong. Các yếu tố tiên lượng tử
vong độc lập trong XHN: nhịp thở bất thường, tăng huyết áp giai đoạn II, Glasgow<8 điểm, đường huyết
≥200mg%, vị trí xuất huyết não có tràn não thất.
Kết luận: Xác định các yếu tố nguy cơ tử vong của xuất huyết não là điều rất quan trọng vì nó giúp chúng
ta ngăn chặn, can thiệp sớm và điều trị những yếu tố nguy cơ cải thiện tỉ lệ tử vong.
Từ khóa: xuất huyết não, các yếu tố tiên lượng tử vong.
ABSTRACT
THE MORTAL PREDICTABLE FACTORS OF INTRACEREBRAL HAEMORRHAGE PATIENTS
AT SOC TRANG PROVINCE GENERAL HOSPITAL
Ly Ngoc Tu, Luong Thi Quynh Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 2 - 2014: 8 - 15
Background: Intracranial hemorrhage which was estimated about 10%-15% of stroke caused more mortal
and disable than cerebral infarction and subarachnoid hemorrhage. We counted the mortal rate of stroke (cerebral
infarction 1.49%, intracranial hemorrhage 7.78%, subarachnoid hemorrhage 0%) in 2008 at Soc Trang province
general hospital. Determination the mortal predictable factors of intracranial hemorrhage help us protect,
intervene early, anticipate and cure timely, so we can improve mortality and decrease overload of higher hospitals.
Method: This is prospective, cross-sectional study in intracranial hemorrhage patients who were
hospitalized into Department II of internal medicine, ICU at Soc Trang province general hospital within 48 first
hours.
Results: There were 146 mortal cases (43.7%) in 334 cases of intracranial hemorrhages. Mortal predictable
factors were pulse ≥ 100l/minute, second-stage hypertension, temperature ≥37.50C, abnormal breathing rate,
abnormal breathing shape, Glasgow < 8, abnormal pupils, lost vestibulo-ocular reflex, white blood cells
≥10000/mm3, Glycaemia ≥ 200mg%, abnormal blood Kali concentration, Creatinin, SGOT, SGPT, high volume
of hemorrhage, high ICH score, intracranial hemorrhage with ventricular hemorrhage. Independent- predicable
factors were abnormal breathing rate, second-stage hypertension, Glasgow < 8, Glicemie≥200mg%, intracranial
* BV Đa Khoa Tỉnh Sóc Trăng
Tác giả liên lạc: ThS Lý Ngọc Tú ĐT: 0918.259.808 Email: lyngoctust@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
9
hemorrhage with ventricular hemorrhage.
Conclusion: Determining risk factors of death in intracranial hemorrhage is an important thing because
they help us prevent, intervene early and treat risk factors to improve rate of death.
Key words: intracranial hemorrhage, mortal predictable factors.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đột quỵ là bệnh thường gặp trong thực hành
thần kinh. Hiện nay, đột quỵ là nguyên nhân
gây tử vong đứng hàng thứ ba trên thế giới chỉ
sau ung thư và tim mạch. Bên cạnh đó, ngoài
việc gây tử vong, đột quỵ còn là nguyên nhân
hàng đầu gây các phế tật từ nhẹ tới nặng(2,3), nó
để lại hậu quả nặng nề về thể chất, tinh thần và
phí tổn tài chính cho bản thân và xã hội.
Xuất huyết não (XHN) chiếm 10%-15% tỉ lệ
đột quỵ nói chung và có nguy cơ gây tử vong và
tàn tật cao hơn so với nhồi máu não và xuất
huyết khoang dưới nhện(5,6). BVĐK Sóc Trăng là
một bệnh viện loại hai của một tỉnh thuần nông
có ba đồng bào dân tộc Khmer, Kinh, Hoa cùng
chung sống, đời sống còn khó khăn. Theo thống
kê vào năm 2008 về tỉ lệ tử vong từng loại đột
quỵ não tại BVĐK Sóc Trăng, trong đó tỉ lệ tử
vong nhồi máu não là 1,49%, xuất huyết não là
7,78%, xuất huyết khoang dưới nhện là 0%. Do
đó, việc tìm những yếu tố tiên lượng tử vong đột
quỵ não đặc biệt xuất huyết não khi đang được
điều trị tại bệnh viện là một đóng góp thiết thực
cho tỉnh nhà.
Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại
khoa Nội Thần Kinh bệnh viện Chợ Rẫy cũng
như dựa trên thực tế làm việc của mình tại bệnh
viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng, chúng tôi nhận
thấy đột quỵ não tưởng chừng như tử vong
nhưng sau đó hồi phục tốt đến không ngờ và
ngược lại có trường hợp chúng tôi nghĩ là không
tử vong nhưng sau đó lại tử vong. Vấn đề đặt ra
là ngoài diễn tiến tự nhiên của bệnh còn lí do
nào khác? Vai trò của thầy thuốc, khả năng điều
trị và kĩ thuật chăm sóc điều dưỡng có đúng
mức chưa? Hay do nhận thức của người dân đối
với bệnh chưa tốt nên chậm trễ khi đưa bệnh
nhân vào viện?
Các yếu tố dự đoán sống còn có ý nghĩa cực
kì quan trọng và có thể ảnh hưởng đến thái độ
xử trí lâm sàng. Tại Việt Nam, trong các nghiên
cứu trước đây đã xác định các yếu tố tiên lượng
xuất huyết não(13,15). Nhưng để cụ thể hơn cho
việc nhận diện cũng như tiên lượng xuất huyết
não tại các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh thiết
nghĩ cần phải có công trình nghiên cứu cụ thể vì
đây là nơi góp phần hạ thấp tỉ lệ tử vong đột
quỵ não ở địa phương và cũng góp phần giảm
tải cho tuyến trung ương.
Vì các lí do nêu trên, chúng tôi tiến hành
thực hiện nghiên cứu đề tài: “Các yếu tố tiên
lượng tử vong trên bệnh nhân xuất huyết não tại
bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng” với các mục
tiêu sau:
- Đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm
sàng tại thời điểm nhập viện.
- Xác định tỉ lệ sống và tử vong, nguyên
nhân tử vong ở bệnh nhân xuất huyết não cấp.
- Xác định mối tương quan giữa kết quả điều
trị (sống, tử vong) với các yếu tố dịch tễ học, lâm
sàng, cận lâm sàng ở thời điểm nhập viện sau đó
xác định các yếu tố tiên lượng độc lập ở bệnh
nhân xuất huyết não.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa nội II và
ICU bệnh viện đa khoa tỉnh Sóc Trăng từ tháng
05/2010 đến 06/2011.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Tất cả bệnh nhân xuất huyết não lần đầu
(chưa từng bị tai biến mạch máu não (TBMMN)).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
10
- Tất cả bệnh nhân xuất huyết não cấp nhập
bệnh viện Sóc Trăng trong vòng 48 giờ đầu sau
khởi phát bệnh.
- Tất cả bệnh nhân xuất huyết não nhập viện
trong thời gian nghiên cứu, được chọn liên tiếp.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân xuất huyết não không phải xuất
huyết não trên nhồi máu não hoặc xuất huyết
não trong u não, bệnh về huyết học, trong chấn
thương.
- Bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch nội sọ,
nhồi máu não, xuất huyết khoang dưới nhện.
- Bệnh nhân có thời gian từ lúc khởi phát đột
quỵ đến khi nhập viện trễ hơn 48 giờ hay chết
trước nhập viện hay không điều trị trong thời
gian nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiền cứu.
Các yếu tố khảo sát
Tuổi, giới, nơi cư trú, thời gian nhập viện,
tiền căn bản thân, mạch, huyết áp, nhiệt độ, nhịp
thở, kiểu thở, Glasgow, đồng tử, vận nhãn, phản
xạ mắt búp bê, thang điểm ICH, xét nghiệm tại
thời điểm nhập viện, ECG, CT-Scan, kết quả
điều trị, nguyên nhân tử vong.
Phân tích thống kê
Các thu thập sẽ được xử lý và phân tích bằng
phần mềm thống kê SPSS 11.5.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tại khoa Nội II và ICU Bệnh Viện Đa Khoa
Tỉnh Sóc Trăng, từ tháng 05/2010 đến 06/2011
chúng tôi đã thu thập được 334 bệnh nhân xuất
huyết não thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu. Qua
thời gian theo dõi từ lúc nhập viện đến lúc xuất
viện có 146 bệnh nhân tử vong hay bệnh nặng
xin về và 188 bệnh nhân còn sống.
* Khi phân tích đơn biến, chúng tôi tìm
thấy các yếu tố nguy cơ liên quan đến tiên
lượng tử vong: tiền căn tăng huyết áp, mạch ≥
100l/phút, tăng huyết áp giai đoạn II, nhiệt
độ≥37,50C, nhịp thở bất thường, kiểu thở bất
thường, Glasgow<8, đồng tử bất thường, phản
xạ mắt búp bê ngang mất, phản xạ mắt búp bê
dọc mất, bạch cầu ≥10000/mm3, đường huyết
≥200mg%, Kali máu bất thường, Creatinine,
SGOT, SGPT, thể tích ổ xuất huyết cao, thang
điểm ICH cao, xuất huyết não có tràn não thất.
Bảng 1: Tương quan giữa đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị
Các yếu tố nguy cơ tử vong Kết quả điều trị p
Sống Tử vong
Huyết áp Bình thường 34 (18,1%) 15 (10,3%)
Tiền THA 11 (5,9%) 5 (3,4%)
THA giai đoạn I 30 (16%) 12 (8,2%) 0,007
THA giai đoạn II 113 (60,1%) 114 (78,1%)
Mạch <100l/phút
≥ 100l/phút
147 (78,2%)
41 (21,8%)
86 (58,9%)
60 (41,1%)
0,000
Nhiệt độ <37,5oC
≥37,5oC
160 (85,1%)
28 (14,9%)
94 (64,4%)
52 (35,6%)
0,000
Nhịp thở Bình thường
Bất thường
183 (97,3%)
5 (2,7%)
42 (28,8%)
104 (71,2%)
0,000
Kiểu thở Bình thường
Bất thường
180 (95,7%)
8 (4,3%)
35 (24%)
111 (76%)
0,000
Glasgow < 8 điểm
9-12 điểm
13-15điểm
18 (9,6%)
65 (34,6%)
105 (55,9%)
120 (82,2%)
21 (14,4%)
5 (3,4%)
0,000
Đồng tử Bình thường
Bất thường
188 (100%)
0 (0%)
100 (68,5%)
46 (31,5%)
0,000
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
11
Các yếu tố nguy cơ tử vong Kết quả điều trị p
Sống Tử vong
Phản xạ mắt búp bê
ngang
Còn
Mất
188 (100%)
0 (0%)
103 (70,5%)
43 (29,5%)
0,000
Phản xạ mắt búp bê
dọc
Còn
Mất
188 (100%)
0 (0%)
103 (70,5%)
43 (29,5%)
0,000
Bạch cầu <10000/mm3
≥10000/mm3
81 (43,1%)
107 (56,9%)
27 (18,6%)
118 (81,4%)
0,000
Ure máu (Trung bình, độ lệch chuẩn) 5,87 (3,57) 7,16 (11,64) 0,15
Creatinine (Trung bình, độ lệch chuẩn) 98,84 (73) 121,89 (129,93) 0,041
Đường huyết <200mg%
≥200mg%
168 (89,4%)
20 (10,6%)
93 (64,1%)
52 (35,9%)
0,000
Natri máu Bình thường
Bất thường
145(77,1%)
43(22,9%)
110(75,9%)
35(24,1%)
0,787
Kali máu Bình thường
Bất thường
174 (92,6%)
14 (7,4%)
113 (77,9%)
32 (22,1%)
0,000
SGOT (Trung bình, độ lệch chuẩn) 42,67 (45,6) 69,32 (132,87) 0,011
SGPT (Trung bình, độ lệch chuẩn) 29,94 (24,9) 38,93 (35,02) 0,007
ECG Bình thường
Bất thường
157 (83,5%)
31 (16,5%)
115 (79,3%)
30 (20,7%)
0,326
Thể tích ổ xuất huyết <30ml
30-60ml
>60ml
186 (99,5%)
1 (0,5%)
0 (0%)
102 (69,9%)
38 (26%)
6 (4,1%)
0,000
Thang điểm ICH Thấp (n=246)
Cao (n=88)
182 (96,8%)
6 (3,2%)
64 (43,8%)
82 (56,2%)
0,000
Vị trí xuất huyết XHN không tràn não thất
(n=170)
137 (72,95) 33 (22,6%) 0,000
XHN có tràn não thất
(n=164)
51 (27,1%) 113 (77,4%)
* Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố nguy
cơ liên quan đến tiên lượng tử vong trong XHN,
chúng tôi tìm thấy nhịp thở bất thường, tăng
huyết áp giai đoạn II, Glasgow<8 điểm, đường
huyết >200mg%, vị trí xuất huyết não có tràn não
thất là những yếu tố có giá trị tiên lượng độc lập.
Bảng 2: Các yếu tố tiên lượng tử vong độc lập trong XHN
Các yếu tố có liên quan tiên lượng Hệ số hồi quy P OR CI 95%
Mạch 0,206 0,631 1,229 0,53 – 2,852
Huyết áp 0,286 0,009 1,332 1,073-1,653
Nhiệt độ 0,234 0,641 0,792 0,296- 2,116
Nhịp thở 2,131 0,009 8,424 1,697- 41,824
Kiểu thở 0,007 0,986 0,993 0,426- 2,313
Glasgow 1,262 0,000 0,283 0,15- 0,535
Đồng tử 19,089 0,999 0 0
Phản xạ mắt búp bê ngang 0,77 0,989 0,463 0
Phản xạ mắt búp bê dọc 0,77 0,989 0,463 0
Bạch cầu 0,32 0,484 0,726 0,296-1,778
Đường huyết 1,475 0,003 4,373 1,671-11,441
Kali máu 1,106 0,067 0,331 0,101-1,08
Creatinine 0,003 0,071 1,003 1,000-1,006
SGOT 0,006 0,073 1,006 0,999-1,012
SGPT 0,006 0,263 1,006 0,996-1,016
Thể tích ổ xuất huyết 2,382 0,061 10,831 0,897-130,738
Thang điểm ICH 0,567 0,364 1,763 0,519-5,997
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
12
Các yếu tố có liên quan tiên lượng Hệ số hồi quy P OR CI 95%
Vị trí xuất huyết 1,209 0,007 3,35 1,399-8,019
BÀN LUẬN
- Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ chính của
TBMMN. Trong mẫu nghiên cứu tần suất bệnh
nhân xuất huyết não có tiền sử tăng huyết áp là
78,1%, trong đó không ai theo dõi điều trị triệt
để, chỉ khi nào tăng mới uống thuốc hạ áp. Khi
phân tích đơn biến cho thấy có sự khác biệt tỉ lệ
sống và tử vong, sự khác biệt này này có ý nghĩa
thống kê, với p=0,026.
- Ở bệnh nhân đột quỵ cấp, mạch nhanh là
biểu hiện phản ứng cấp với stress, biến chứng
tim ở bệnh nhân đột quỵ, phản ứng mạch nhanh
với tình trạng nhiễm trùng, Trong nghiên cứu
của chúng tôi, nhóm bệnh nhân tử vong có mạch
≥ 100l/phút khi nhập viện cao hơn nhóm sống và
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,000).
Trần Thanh Hùng(16) khảo sát mạch khi nhập
viện kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa 2 nhóm sống và tử vong.
Điều này có thể là do sự khác nhau về cở mẫu,
thời gian thực hiện nghiên cứu hoặc cũng có thể
là mạch khi nhập viện không có liên quan đến
kết cục điều trị. Vì vậy, cần có những nghiên cứu
lớn hơn để xác định. Tương tự, khi chúng tôi
đưa vào phân tích đa biến thì mạch không là yếu
tố tiên lượng độc lập.
- Nhóm THA giai đoạn II tử vong nhiều hơn
sống (78,1% so với 60,1%), sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p=0,007. Khi chúng tôi đưa
vào phân tích đa biến thì tìm thấy đây là yếu tố
tiên lượng tử vong độc lập với p=0,009, khoảng
tin cậy 95%=1,073-1,653; OR=1,332.
- Tăng thân nhiệt ở bệnh nhân đột quỵ cấp
có thể là do nguyên nhân trung ương do rối loạn
trung tâm điều nhiệt hay do nguyên nhân ngoại
vi như nhiễm trùng, mất nước,...Tăng thân nhiệt
làm tăng chuyển hóa ở não và làm tiên lượng
bệnh xấu đi. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
nhóm bệnh nhân tử vong có nhiệt độ ≥37,5oC cao
hơn nhóm sống (35,6% so với 14,9%). Các nghiên
cứu khảo sát trên đột quỵ não đều nhận thấy
tăng nhiệt độ làm tăng tỉ lệ tử vong đột quỵ
não(9,11,13). Như vậy, biện pháp giải quyết vấn đề
tăng thân nhiệt là ổn định tổn thương ở não, ổn
định tình trạng rối loạn thần kinh thưc vật hơn là
truy tìm nguồn gốc nhiễm trùng. Khi chúng tôi
đưa vào phân tích đa biến hồi quy logistic thì
yếu tố thân nhiệt cao không là yếu tố tiên lượng
độc lập. Kết quả này tương tự của tác giả Hanne
Christensen (7) cho thấy thân nhiệt tăng lúc nhập
viện (trong vòng 6 giờ tính từ lúc khởi phát
bệnh) không phải là yếu tố tiên lượng tử vong
độc lập trong phân tích đa biến.
- Bất thường nhịp thở, kiểu thở chỉ ra tổn
thương cấu trúc não hoặc tổn thương trực tiếp
tại phổi. Tổn thương cấu trúc não như kiểu thở
Cheyne-Stokes (tổn thương phần sâu bán cầu
đại não hoặc phần ngọn của thân não), kiểu thở
tăng thông khí thần kinh trung ương (thường
liên quan với những tổn thương lan rộng của
thân não), kiểu thở thất điều (tổn thương hành
não), Tổn thương trực tiếp tại phổi do viêm
phổi, phù phổi do thần kinh, hay do tình trạng
yếu cơ hô hấp do tổn thương thần kinh chi phối
cho cơ hô hấp. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
bất thường nhịp thở, kiểu thở gặp ở nhóm tử
vong cao hơn nhóm sống. Phan Trung Minh (13)
cũng cho thấy bất thường nhịp thở có liên quan
đến tiên lượng tử vong. Khi chúng tôi tiến hành
phân tích hồi quy đa biến logistic để tìm yếu tố
tiên lượng độc lập thì kết quả cho thấy bất
thường nhịp thở là yếu tố tiên lượng độc lập.
- Thang điểm hôn mê Glasgow xuất phát là
một thang điểm nhằm đánh giá tình trạng rối
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
13
loạn tri giác và tiên lượng trong chấn thương sọ
não. Ngày nay nhiều trung tâm nghiên cứu, các
khoa thần kinh và hồi sức nội khoa sử dụng
thang điểm Glasgow để đánh giá hôn mê do các
nguyên nhân khác trong đó có đột quỵ não. Ở
bệnh nhân đột quỵ, một số trường hợp bệnh
nhân tỉnh táo nhưng do mất ngôn ngữ nên có
thể làm giảm điểm lời nói, do đó giảm điểm
Glasgow. Một số trường hợp hội chứng khóa
trong, bệnh nhân cũng còn tỉnh táo nhưng
không thể giao tiếp được do tổn thương các
đường ly tâm. Những bệnh nhân này khi đánh
giá thang điểm hôn mê Glasgow sẽ được ghi chú
thêm, ví dụ mất ngôn ngữ, hội chứng khóa
trong. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm hôn mê
Glasgow khi nhập viện giữa 2 nhóm sống và tử
vong. Glasgow <8 thì tử vong nhiều hơn sống
(82,2% so với 9,6%). Về lý thuyết, rõ ràng mức độ
hôn mê của bệnh nhân khi khởi bệnh có liên
quan mật thiết đến kết cục của bệnh nhân. Lí do
là điểm hôn mê càng nặng thì tổn thương não
càng có khả năng đã xảy ra ở diện rộng hoặc ở
các cấu trúc quan trọng. Như vậy, thang điểm
Glasgow là một yếu tố liên quan đến tiên lượng
tử vong. Khi chúng tôi đưa vào phân tích đa
biến thì thang điểm Glasgow là yếu tố tiên lượng
độc lập của xuất huyết não.
- Đồng tử: khi khám chúng ta cần chú ý đến
kích thước, độ tròn méo, đáp ứng trực tiếp và
đồng cảm của đồng tử đối với kích thích ánh
sáng. Trong trường hợp tổn thương trung não
đồng tử không co không giãn và không đáp ứng
với ánh sáng. Đồng tử còn phản xạ với kích thích
ánh sáng thì chứng tỏ trung não còn nguyên
vẹn. Trong trường hợp dây sọ bị III bị chèn ép,
thí dụ như trong tụt não thùy thái dương, đồng
tử bên bị chèn ép giãn to và không đáp ứng với
ánh sáng. Hai đồng tử co nhỏ, còn đáp ứng với
kích thích ánh sáng thì gợi ý đến tổn thương cầu
não. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bất thường
đồng tử khi nhập viện có liên quan đến kết cục
điều trị. Theo tác giả Trần Thanh Hùng(16), tác giả
Steiner và cộng sự(14) cũng đều nhận thấy đồng
tử bất thường khi nhập viện có liên quan có ý
nghĩa thống kê với kết quả điều trị. Tuy nhiên
khi phân tích đa biến để tìm yếu tố tiên lượng
độc lập thì vai trò của đồng tử bất thường khi
nhập viện biến mất. Như vậy kích thước đồng tử
mặc dù có liên quan mức độ tổn thương não
nhưng mức độ tương quan chưa đủ mạnh để có
thể là yếu tố tiên lượng độc lập.
- Phản xạ mắt búp bê ngang mất biểu hiện
rối loạn chức năng cầu não, có thể do tổn thương
trực tiếp hay do chèn ép. Phản xạ mắt búp bê
dọc mất biểu hiện rối loạn chức năng trung não
có thể do tổn thương trực tiếp hay do thoát vị
hay chèn ép. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
phản xạ mắt búp bê ngang, phản xạ mắt búp bê
dọc mất trong nhóm tử vong cao hơn ở nhóm
sống. Điều này tương tự tác giả trong và ngoài
nước(14,16). Như vậy, phản xạ mắt búp bê ngang
mất và phản xạ mắt búp bê dọc mất là các yếu tố
có giá trị tiên đoán tử vong. Khi tiến hành phân
tích hồi quy đa biến logistic, chúng tôi nhận thấy
mất phản xạ mắt búp bê ngang và mất phản xạ
mắt búp bê dọc không phải là yếu tố tiên lượng
độc lập cho tử vong của bệnh nhân.
- Bạch cầu máu tăng khi cơ thể có tình trạng
nhiễm trùng hay phản ứng của cơ thể, nghiên
cứu của chúng tôi khảo sát khi bệnh nhân vừa
vào viện và loại bỏ những nguyên nhân nhiễm
trùng khi nhập viện, do đó các trường hợp tăng
bạch cầu là do phản ứng của cơ thể với
TBMMN. Trong 334 ca XHN có 225 ca (67,4%) có
số lượng bạch cầu ≥10000 tế bào/mm3 trong đó tử
vong nhiều hơn sống (81,4% so với 56,9%), sự
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
14
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,000.
Nhưng khi đưa vào phân tích đa biến thì Bạch
cầu cao không là yếu tố tiên lượng tử vong độc
lập. Kết quả này tương tự tác giả Bhatia(4), tác giả
Trần Thanh Hùng(16) ghi nhận bạch cầu máu tại
thời điểm nhập viện cho thấy không liên quan
đến kết cục sống còn trên phân tích đơn biến với
p=0,894.
- Tăng đường huyết lúc nhập viện là yếu tố
tiên lượng tử vong không mới lạ so với một số
nghiên cứu trước kia(1,10). Theo y văn thế giới, đã
xác định đường huyết tăng có liên quan diễn
tiến phù não nặng của đột quỵ cấp (12). Đường
huyết tăng khi nhập viện có thể xảy ra ở bệnh
nhân có đường huyết cao trước đây hay tăng
đường huyết do phản ứng. Tăng đường huyết
làm cho kết quả điều trị xấu và là kết quả của
phản ứng não do tăng Glucose gây cho tổn
thương não ngày càng trầm trọng hơn trên các
bệnh nhân không bị ĐTĐ. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, đường huyết ≥200 mg% lúc nhập viện
của nhóm tử vong (35,9%) cao hơn nhóm sống
(10,6%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p=0.000). Như vậy tăng đường huyết lúc nhập
viện là yếu tố có liên quan đến tiên lượng tử
vong. Do đó khi đường huyết tăng (cả bệnh
nhân ĐTĐ và không ĐTĐ) chúng ta cần chú ý
chỉnh mức đường huyết trong giới hạn không
làm tổn thương não nặng hơn (thường chỉnh
trong giới hạn 120-150mg%)(7,18). Khi chúng tôi
đưa vào phân tích đa biến nhận thấy đây là yếu
tố tiên lượng tử vong độc lập.
- Kali máu bất thường (tăng hoặc giảm Kali
máu) ở nhóm tử vong (22,1%) cao hơn nhóm
sống (7,4%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p=0,000. Nồng độ Kali máu lúc vào viện ít được
nghiên cứu, tác giả Trương Văn Luyện(17) ghi
nhận rối loạn Kali máu trong 250 trường hợp tử
vong chiếm tỉ lệ 20%. Khi chúng tôi đưa vào
phân tích đa biến thì đây không là yếu tố tiên
lượng tử vong độc lập.
- Creatinine trung bình của nhóm tử vong
cao hơn nhóm sống (121,89 so với 98,84
(µmol/l)), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p=0,041. Nhưng khi chúng tôi đưa vào phân tích
đa biến thì đây không phải là yếu tố tiên lượng
tử vong độc lập.
- Tương tự chúng tôi cũng ghi nhận SGOT,
SGPT không là yếu tố tiên lượng độc lập khi đưa
vào phân tích đa biến.
- Mức độ hôn mê, tỉ lệ tử vong liên quan đến
thể tích ổ tổn thương não. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, thể tích ổ xuất huyết <30ml ở nhóm
sống cao hơn so với nhóm tử vong (99,5% so với
69,95), thể tích 30-60ml ở nhóm tử vong cao hơn
so với nhóm sống (26% so với 0,5%), những
bệnh nhân có thể tích ổ xuất huyết >60ml đều tử
vong, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Nhưng khi chúng tôi đưa vào phân tích đa biến,
thể tích ổ xuất huyết không là yếu tố tiên lượng
tử vong độc lập.
- Thang điểm ICH là thang điểm được xác
nhận trong nhiều dân số khác nhau, bao gồm cả
người Châu Á. Theo tác giả Gant(8) thang điểm
ICH liên quan chặt chẽ với tỉ lệ tử vong. Thang
điểm ICH là 5 thì 100% tử vong trong 30 ngày.
Ngoài ra thang điểm này cũng dùng để tiên
lượng hồi phục chức năng. Trong mẫu nghiên
cứu của chúng tôi chia thành 2 nhóm thang điểm
“thấp” và “cao”, kết quả cho thấy có sự liên
quan về thang điểm ICH cao với tiên lượng tử
vong, cụ thể thang điểm ICH (Nhóm cao) ở
nhóm tử vong 56,2% cao hơn nhóm sống 3,2% .
Như vậy thang điểm ICH (nhóm cao) là yếu tố
liên quan đến tiên lượng tử vong. Nhưng khi
chúng tôi đưa vào phân tích đa biến thì yếu tố
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
15
này không là yếu tố tiên lượng độc lập. Giải
thích điều này có thể là do cỡ mẫu nghiên cứu
chúng tôi chưa đủ lớn cần tiến hành với cỡ mẫu
lớn hơn.
- Về vị trí xuất huyết não trên CT-Scanner,
chúng tôi thấy trong 334 bệnh nhân XHN có 122
ca hạch nền tràn não thất (36,5%) chiếm tỉ lệ cao
nhất, kế đến là hạch nền 99 ca (29,6%) và thấp
nhất là thùy não-tiểu não (0,3%); não thất (0,3%).
Khi khảo sát đơn biến, chúng tôi gộp nhóm lại
kết quả cho thấy trong 164 ca bệnh nhân XHN có
tràn não thất thì nhóm tử vong chiếm 77,4% cao
hơn nhóm sống 27,1%. Như vậy nhóm XHN có
tràn não thất liên quan đến tiên lượng tử vong.
Khi chúng tôi đưa vào phân tích đa biến thì yếu
tố này là yếu tố tiên lượng tử vong độc lập.
KẾT LUẬN
Xác định các yếu tố tiên lượng tử vong của
xuất huyết não cấp là điều rất quan trọng vì nó
giúp chúng ta ngăn chặn, can thiệp sớm và điều
trị những yếu tố nguy cơ cải thiện tỉ lệ tử vong.
Trong thực hành lâm sàng để làm giảm tỉ lệ tử
vong ở bệnh nhân đột quỵ não cấp cần phải
đánh giá bệnh nhân về lâm sàng và cận lâm sàng
lúc nhập viện để tiên lượng và điều trị kịp thời
nhằm hạn chế tử vong cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adams HP Jr, Brott T, Furlan AJ, Gomez CR, Grotta J,
Helgason CM, KwiatkowskiT, Lyden PD, Marler JR, Torner J,
et al. (1996), “Guidelines for thrombolytic therapy for acute
stroke: a supplement to the guidelines for the management of
patients with acute ischemic stroke. Statement for healthcare
professionals from a Special Writing Group of the Stroke
Council, American Heart Association”, Stroke, 27:1711-1718.
2. American Heart Association (2005). Heart disease and stroke
statistics.
3. American Heart Association statistics committee and stroke
statistics subcommittee (2006). Heart disease and stroke statistics.
4. Bhatia RS, Garg RK, Gaur SPS, Kar AM, Shukla R, Agarwal A,
Verma R (2004), “Predictive value of routine hematoiogical
and biochemical parameters on 30-day fatality in acute
stroke”, Neurol India,52:220-223.
5. Broderick JP, Brott T, Tomsick T, Miller R, Huster G. (1993).
Intracerebral hemorrhage more than twice as common as
subarachnoid hemorrhage. J Neurosurg, 78, 188-191.
6. Caplan LR (1992). Intracerebral haemorrhage. Lancet, 339, 656-
658.
7. Christensen H (2007). Acute stroke– a dynamic process.
Doctor of medical Science, 54:210-250.
8. Gan RN, Ramani NV (2008). The Stroke Clinician's handbook:
a practical guide to the care stroke patients.
9. Hàn Tiểu Sảo (2000), Một số yếu tố tiên lượng tử vong sớm
trong xuất huyết não, Luận văn thạc sĩ y học, Đại Học Y Dược
Thành Phố Hồ Chí Minh.
10. Lindsberg PJ, Roine RO (2004). Hyperglycaemia in acute
stroke, Stroke; 35:363-4.
11. Mai Nhật Quang (2008), “Tần suất các yếu tố nguy cơ và tỉ lệ
tử vong tai biến mạch máu não tại bệnh viện đa khoa trung
tâm An Giang”, luận văn thạc sĩ y học, Đại Học Y Dược
Thành Phố Hồ Chí Minh.
12. Mitchell BE, Sobel HL, Alexander MH (1999). The adverse
health effect of tobaco and tobaco related product, Primary
Care, 26:463-99.
13. Phan Trung Minh (2008), Khảo sát các yếu tố nguy cơ tử vong
trên bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện đa khoa
Trà Vinh, Luận văn chuyên khoa cấp II, Đại học y dược
Thành Phố Hồ Chí Minh
14. Steiner T, Mendoza G, Georgia MD, Schellinger P, Holle R,
Hacke W (1997) Prognosis of stroke patients requiring
mechanical ventilation in a neurological critical care unit,
Stroke, 28:711-5.
15. Trần Công Thắng (1999), Sử dụng các dữ liệu lâm sàng và CT
Scan lúc nhập viện để tiên lượng xuất huyết não, Luận văn tốt
nghiệp nội trú, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
16. Trần Thanh Hùng (2004), “Các yếu tố tiên lượng sống và tử
vong sớm ở bệnh nhân đột quỵ cấp có đặt nội khí quản”, luận
văn tốt nghiệp nội trú Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh.
17. Trương Văn Luyện (2002), “Đánh giá các nguyên nhân gây tử
vong của đột quỵ não cấp”, luận văn chuyên khoa cấp II, Đại
Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
18. Vũ Anh Nhị (2007). Tai biến mạch máu não. Nhà xuất bản Y
Học Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 3-18; 106-119; 122-135.
Ngày nhận bài báo: 20/05/2013
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 06/06/2013
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_yeu_to_tien_luong_tu_vong_tren_benh_nhan_xuat_huyet_nao.pdf