Nhà nước cần đầu tư phát triển hạ tầng
viễn thông và chính phủ điện tử đáp ứng nhu cầu
thực hiện
Cần xây dựng và phát triển hạ tầng viễn thông trở
thành nền tảng phát triển kinh tế chung; xây dựng
và mở rộng hạ tầng băng rộng hiện đại đạt tốc độ
truy cập cao, đáp ứng nhu cầu về dung lượng đang
ngày càng tăng lên của người dùng, đồng thời mở
rộng vùng phủ sóng; cung cấp các dịch vụ băng rộng
chất lượng cao phù hợp và giá thành thấp; tập trung
phát triển các nền tảng ứng dụng, đa dạng hóa dịch
vụ như e-Government, e-Commerce, e-Banking,
e-Learning, e-Health/Telemedicine; ứng dụng công
nghệ băng rộng trong phòng chống thiên tai, an toàn,
an ninh xã hội.
Hiện nay việc thực hiện Nghị quyết 36a/NQ-CP
về xây dựng Chính phủ điện tử cũng gặp không ít
những rào cản để cải thiện chỉ số dịch vụ công trực
tuyến (OSI) và hạ tầng viễn thông. Theo bảng xếp
hạng Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc (LHQ)
công bố về chính phủ điện tử (EGDI), Việt Nam chỉ
được xếp hạng 99 năm 2014 và hạng 89/193 năm
2016. So với các nước trong ASEAN, Việt Nam xếp
thứ 6 sau Singapore, Malaysia, Philippines, Thái
Lan và Brunei. Vì vậy, ứng dụng công nghệ thông
tin, xây dựng Chính phủ điện tử không chỉ gắn kết
chặt chẽ với cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm
an toàn, an ninh thông tin mà còn phải đẩy mạnh
thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ
3, mức độ 4.
Một giám đốc công nghệ thông tin kiến nghị:“Quét
nhà thì phải quét từ trên cao xuống chứ không ai
quét từ dưới lên. Chính quyền phải 4.0 trước, tức
là phải có con người 4.0, hệ thống pháp lý 4.0, mọi
thứ vận hành trơn tru không còn nhũng nhiễu người
dân và doanh nghiệp thì các doanh nghiệp mới 4.0
được” ( HL, 2018).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam: Tiềm năng, rào cản và vai trò của nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 260 tháng 02/2019 2
Ngày nhận: 24/12/2018
Ngày nhận bản sửa: 20/01/2019
Ngày duyệt đăng: 05/02/2019
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Ở VIỆT NAM:
TIỀM NĂNG, RÀO CẢN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
Hồ Quế Hậu
Trường Đại học kinh tế TP Hồ Chí Minh
Email: hauqueho57@gmail.com
Tóm tắt:
Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra bước đột phá cho một nước đang phát triển như Việt
Nam, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước trên thế giới. Bài viết này đánh giá:(i)
tiềm năng;(ii) rào cản;(iii) vai trò của Nhà nước trong cách mạng công nghiệp 4.0. Kết quả
nghiên cứu cho thấy Việt Nam có tiềm năng đáng kể trong cách mạng công nghiệp 4.0: (i)
Quyết tâm của Đảng và Nhà nước; (ii) Có lợi thế của nước đi sau; (iii) Dân số tương đối
lớn và trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng; (iv) Lực lượng lao động dồi dào, chi phí thấp, năng
động và sáng tạo; (v) Hạ tầng viễn thông tương đối tốt . Tuy nhiên cũng có nhiều rào cản
cho cách mạng công nghiệp 4.0: (i) Hạn chế nhận thức về cách mạng công nghiệp 4.0; (ii)
Số đông doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu vốn và trình độ công nghệ thấp; (iii) Chất lượng
nguồn nhân lực hạn chế; (iv) Nhà nước chưa thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong phát
huy tiềm năng và khắc phục các tác động tiêu cực của những rào cản thực hiện cách mạng
công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Công nghiệp; cách mạng công nghiệp 4.0; vai trò của Nhà nước trong cách mạng
công nghiệp 4.0.
Mã JEL: G38, M15, L96, O14, O15.
Industrial Revolution 4.0 in Vietnam: Potential, Barriers and the Role of State
Abstract:
The Industrial Revolution 4.0 (IR 4.0) will create a breakthrough in developing country like
Vi-etnam, shortening the development gap compared to other countries in the world. This
article aims to assess: (i) the potential, (ii) barriers, (iii) the role of the state in the IR 4.0.
The results show that Vietnam has significant potential in the IR 4.0: (i) The determination
of the Party and the State; (ii) The advantage of latecomer country; (iii) The relatively large
population and the golden demographic structure; (iv) The plentiful, cheap, dynamic and
creative labor force; (v) The relatively good telecommunications infrastructure. However,
there are many barriers to the IR 4.0: (i) The limited awareness on the IR 4.0; (ii) The large
number of small and medium enterpris-es, lack of capital and low level of technology; (iii)
The limited quality of human resources; (iv) The State has not yet fully implemented its role
in promoting the potential and overcoming the negative impact of barriers on implementing
the IR 4.0.
Keywords: Industry; industrial revolution 4.0; the role of the state in the IR 4.0.
JEL code: G38, M15, L96, O14, O15.
Số 260 tháng 02/2019 3
1. Giới thiệu
Chỉ thị số 16/CT-TTg về tăng cường năng lực
tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 24/10/2017 khẳng định
thế giới đang trải qua những thay đổi chưa từng có
với nhịp độ ngày càng nhanh và qui mô ngày càng
sâu rộng. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với xu
hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ
hệ thống kết nối: số hóa - vật lý - sinh học với sự
đột phá của internet vạn vật (IoT) và trí tuệ nhân
tạo (AI) đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất,
làm thay đổi thương mại, y tế, giáo dục. Trong bối
cảnh đó, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3
năm 2018 của Bộ chính trị TW Đảng về định hướng
xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia
đến năm 2030 chủ trương đẩy nhanh tích hợp công
nghệ thông tin và tự động hóa trong sản xuất công
nghiệp nhằm tạo ra các quy trình sản xuất thông
minh, mô hình nhà máy thông minh, phát triển sản
xuất các sản phẩm, thiết bị thông minh. Thêm vào
đó, Việt Nam đang ở vào thời kỳ đầu của quá trình
cách mạng công nghiệp 4.0 nhưng có tiềm năng lớn
để phát triển nền kinh tế số, với hạ tầng mạng phát
triển khá bền vững, phát triển nhanh về số lượng
người sử dụng internet; lực lượng lao động trẻ, hiểu
biết về kỹ thuật số.
Tuy nhiên, Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26
tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về chính sách ưu
đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công
nghệ thông tin tại Việt Nam cho rằng ngành công
nghệ thông tin Việt Nam vẫn đang ở quy mô nhỏ
(Chính phủ, 2016). Công nghiệp phần mềm - nội
dung số còn manh mún. Đội ngũ nhân lực còn thiếu
về số lượng và yếu về các kỹ năng chuyên sâu. Do
đó Việt Nam chỉ được Diễn đàn Kinh tế Thế giới
(WEF) xếp vào nhóm quốc gia chưa chuẩn bị cho
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (Nguyễn Văn Tuấn,
2018). Vì vậy, việc nghiên cứu tiềm năng, rào cản và
vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện cách
mạng công nghiệp 4.0 là rất cần thiết. Để thực hiện
mục tiêu nghiên cứu, bài viết thực hiện phương pháp
phân tích, tổng hợp từ văn bản của Đảng và Nhà
nước, bài viết của các tác giả nước ngoài, tài liệu là
kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước và các
bài viết trên các báo phổ thông. Bài viết sẽ trình bày
cơ sở lý thuyết, đánh giá tiềm năng, rào cản và vai
trò của nhà nước trong cách mạng công nghiệp 4.0
ở Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết về cách mạng công nghiệp 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 thực hiện công nghệ
tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ
sản xuất (Lasi & cộng sự, 2014). Cách mạng công
nghiệp 4.0 tạo ra những “nhà máy thông minh” có
cấu trúc mô-đun, hệ thống cảm biến theo dõi các
quá trình vật lý, tạo ra một bản sao ảo của thế giới
vật chất và đưa ra các quyết định phi tập trung. Qua
internet vạn vật (IoT), các hệ thống máy móc thiết bị
giao tiếp và hợp tác với nhau và với con người trong
thời gian thực và sử dụng bởi những tổ chức kinh tế
tham gia chuỗi giá trị (Hermann & cộng sự, 2016).
Cách mạng công nghiệp 4.0 về cơ bản khác với ba
cuộc cách mạng trước đây. Trong cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất thực hiện công nghiệp cơ
khí hóa với đầu máy hơi nước và xe lửa. Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ hai ra đời năng lượng điện
và điện tử với kỹ thuật radio, điện tín và dây chuyền
sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ ba với máy tính, mạng internet và tự động hóa
trong dây chuyền sản xuất. Các cơ sở cơ bản cho
cách mạng công nghiệp 4.0 nằm trong những tiến bộ
trong giao tiếp và kết nối hơn là công nghệ sản xuất.
Công nghệ thông tin trong cách mạng công nghiệp
4.0 có tiềm năng lớn có thể kết nối hàng tỷ người với
nhau và cải thiện đáng kể hiệu quả của doanh nghiệp
và tổ chức và giúp tái tạo môi trường tự nhiên thông
qua quản lý tài sản tốt hơn (Schwab, 2016).
Nội dung của cách mạng công nghiệp 4.0 bao
gồm những tiến bộ trong công nghệ trên ba lĩnh vực:
kỹ thuật số, vật lý và công nghệ sinh học. Những yếu
tố cốt lõi của kỹ thuật số là: Trí tuệ nhân tạo (AI),
internet kết nối vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn (Big
Data). Lĩnh vực vật lý với robot thế hệ mới, máy in
3D, xe tự lái, các vật liệu mới và công nghệ nano và
lĩnh vực công nghệ sinh học, ứng dụng trong nông
nghiệp, thủy sản, y dược, chế biến thực phẩm, bảo
vệ môi trường, năng lượng tái tạo (Schwab, 2016).
Cách mạng công nghiệp 4.0 có tác động sâu rộng
đến sản xuất và dịch vụ (Müller & cộng sự , 2018).
Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra sự khác biệt giữa
một nhà máy truyền thống và một nhà máy công
nghiệp 4.0 cung cấp dịch vụ hoặc sản phẩm chất
lượng cao với chi phí thấp (Lasi & cộng sự, 2014).
Sự tích hợp internet vạn vật (IoT) và công nghệ dịch
vụ (IoTS) tạo ra giá trị gia tăng trong công nghiệp.
Mô hình mới của số hoá và kết nối sản xuất được gọi
là “Công nghiệp 4.0” và sự chuyển đổi công nghệ
với các nhà máy thông minh và tự chủ (Hercko &
Hna, 2015).
Số 260 tháng 02/2019 4
Các nhân tố ảnh hưởng đến cách mạng công
nghiệp 4.0 ở tầm vi mô bao gồm chiến lược, hoạt
động, khả năng cạnh tranh, sự phù hợp của tổ chức
và tiến trình sản xuất của doanh nghiệp cũng như
môi trường xã hội là động lực tích cực của công
nghiệp 4.0 (Müller & cộng sự, 2018). Dữ liệu, kết
nối và khách hàng là những thứ quan trọng nhất giúp
ngành công nghiệp 4.0 đi nhanh hơn (Immerman,
2017). Ở tầm quản lý vĩ mô của Nhà nước, các chính
sách ưu đãi về kinh tế; sự đầu tư thích đáng vào công
nghệ và giáo dục, đào tạo kỹ năng sẽ ảnh hưởng
đến tốc độ thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 (Immerman, 2018). Nhận thức về các cơ hội và
thách thức liên quan đến công nghiệp 4.0 là tiền đề
cho việc triển khai công nghiệp 4.0 (Müller và cộng
sự, 2018).
3. Tiềm năng của Việt Nam trong thực hiện
cách mạng công nghiệp 4.0
Khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ
Công nghệ Thông tin (VINASA) cho thấy cách
mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam phụ thuộc 77,7%
vào nguồn nhân lực, 70,4% vào quyết tâm của Nhà
nước, 59,1% hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT)
và viễn thông. Theo nhận định của Viện Nghiên
cứu Topology (Đài Loan), trong thị trường sản xuất
thông minh toàn cầu, Việt Nam là thị trường nhỏ
nhưng triển vọng (Viễn Thông, 2018b).
Ông Nguyễn Lưu Dũng, giám đốc của
Vinamachines cho biết “Công nghiệp nội địa vẫn
còn dùng hàng cũ nhiều. Nhưng bóng dáng của 4.0
là rất tích cực. Tuy nhiên, hãy xem các tín hiệu như
Samsung, GE hay Boeing đã và có ý định vào Việt
Nam. Điều đó phản ánh rằng sự tin tưởng thế hệ
công nghệ mới của Việt Nam sẽ sớm được nâng tầm”
(Viễn Thông, 2018b). Sáu điểm quan trọng sau đây
cho thấy tiềm năng của Việt Nam trong thực hiện
cách mạng công nghiệp 4.0.
3.1. Đảng và Nhà nước đã sớm đưa ra nhiều
chủ trương, giải pháp thực hiện cách mạng công
nghiệp 4.0, là tiềm năng hàng đầu của Việt Nam
Văn kiện của Đại hội Đảng từ Đại hội IX (2001)
đến Đại hội XII (2016) đã nhận định: “Kinh tế tri
thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất”; “Việt Nam phải vươn lên
trình độ tiên tiến thế giới, lấy khoa học, công nghệ,
trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động
lực chủ yếu của nền kinh tế”. Nghị quyết số 26-NQ/
TW ngày 30/03/1991 của Bộ Chính trị về khoa học
và công nghệ đã nêu: “Tập trung sức phát triển một
số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn như điện tử,
tin học”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương (khoá VII) xác định “Ưu tiên ứng
dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, như công
nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin
học hoá nền kinh tế quốc dân”.
Để thể chế hoá chủ trương của Đảng, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 49/CP ngày 04 tháng
8 năm 1993 về “Phát triển công nghệ thông tin ở
Việt Nam trong những năm 90”. Ngày 14 tháng 10
năm 2015 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết
số 36a/NQ-CP về chính phủ điện tử (Chính phủ,
2015), Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26 tháng 5
năm 2016 về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc
phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và Chỉ
thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận cách
mạng công nghiệp 4.0.
Theo đánh giá của Chính phủ tại Nghị quyết số
36a/NQ-CP, hầu hết các bộ, ngành và địa phương
2
và thách thức liên quan đến công nghiệp 4.0 là tiền đề cho việc triển khai công nghiệp 4.0 (Müller và cộng sự,
2018).
3. Tiềm năng của Việt Nam trong thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0
Khảo sát của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ Thông tin (VINASA) cho thấy cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam phụ thuộc 77,7% vào nguồn nhân lực, 70,4% vào quyết tâm của Nhà nước, 59,1% hạ
tầng công nghệ thông tin (CNTT) và viễn thông. Theo nhận định của Viện Nghiên cứu Topology (Đài Loan),
trong thị trường sản xuất thông minh toàn cầu, Việt Nam là thị trường nhỏ nhưng triển vọng (Viễn Thông,
2018b).
Hình 1: Những nhân tố tiềm năng của Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0
Nguồn: Anh Minh & Phương Hiền (2017).
Ông Nguyễn Lưu Dũng, giám đốc của Vinamachines cho biết “Công nghiệp nội địa vẫn còn dùng hàng cũ
nhiều. Nhưng bóng dáng của 4.0 là rất tích cực. Tuy nhiên, hãy xem các tín hiệu như Samsung, GE hay
Boeing đã và có ý định vào Việt Nam. Điều đó phản ánh rằng sự tin tưởng thế hệ công nghệ mới của Việt
Nam sẽ sớm được nâng tầm” (Viễn Thông, 2018b). Sáu điểm quan trọng sau đây cho thấy tiềm năng của Việt
Nam trong thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0.
3.1. Đảng và Nhà nước đã sớm đưa ra nhiều chủ trương, giải pháp thực hiện cách mạng công ng iệp 4.0,
là tiềm năng hàng đầu của Việt Nam
Văn kiện của Đại hội Đảng từ Đại hội IX (2001) đến Đại hội XII (2016) đã nhận định: “Kinh tế tri thức có vai
trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”; “Việt Nam phải vươn lên trình độ tiên
tiến thế giới, lấy khoa học, công nghệ, trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu của
nền kinh tế”. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/03/1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ đã nêu:
"Tập trung sức phát triển một số ngành khoa học công nghệ mũi nhọn như điện tử, tin học". Nghị quyết Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) xác định "Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công
nghệ tiên tiến, như công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân".
Để thể chế hoá chủ trương của Đảng, Chín phủ đã ban hành Nghị quyết số 49/CP ngày 04 tháng 8 năm 1993
về "Phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam trong những năm 90". Ngày 14 tháng 10 năm 2015 Chính phủ
tiếp tục ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP về chính phủ điện tử (Chí h phủ, 2015), Nghị quyết số 41/NQ-
CP ngày 26 tháng 5 năm 2016 về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin và Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận
cách mạng công nghiệp 4.0.
Số 260 tháng 02/2019 5
đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giải quyết
các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian, giảm chi
phí, tăng tính minh bạch, tạo thuận tiện cho người
dân và doanh nghiệp; tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện
kê khai thuế điện tử đã tăng từ 97% năm 2014 lên
98% năm 2017. Thủ tục hải quan điện tử đã giảm
thời gian thông quan hàng hóa cho doanh nghiệp.
So với khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đang có
tốc độ tăng cao trong ứng dụng điện toán đám mây.
Khảo sát của VINASA năm 2017 cho thấy, quyết
tâm hành động của Chính phủ chính là lợi thế quan
trọng nhất để Việt Nam tiếp cận với cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 (Anh Minh & Phương Hiền, 2017).
3.2. Việt Nam có lợi thế của người đi sau trong
thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0.
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm
2018 chủ trương Việt Nam phải “tận dụng hiệu quả
lợi thế của nước đi sau trong thực hiện cách mạng
công nghiệp 4.0, để có cách tiếp cận ‘đi tắt, đón
đầu’ một cách hợp lý trong phát triển các ngành
công nghiệp”. Theo Trưởng ban Kinh tế Trung ương
Nguyễn Văn Bình, cách mạng công nghiệp 4.0
mang lại cơ hội cho các nước đang phát triển, giúp
rút ngắn quá trình công nghiệp hoá bằng cách đi tắt
đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn
(Trọng Đạt, 2018).
3.3. Người Việt có tố chất sáng tạo, Việt Nam có
cơ cấu dân số vàng và nguồn nhân lực trẻ
Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI năm 2016 đã
nêu rõ nhiệm vụ sớm xây dựng chiến lược tiếp cận
và chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4, tận dụng tối đa lợi thế một nước còn đang
trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng với dân số gần
100 triệu người, tầng lớp trung lưu phát triển rất
nhanh. Theo báo cáo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế
giới (WIPO) năm 2017, Việt Nam được xếp hạng
thứ 47/127 về đổi mới sáng tạo toàn cầu. Bà Nirupa
Chander của Tập đoàn ABB cho rằng Việt Nam có
lợi thế để bắt kịp cách mạng công nghiệp 4.0.
Ông Nguyễn Tử Quảng, Tổng Giám đốc Tập đoàn
Công nghệ BKAV cho biết: “Về nguồn nhân lực, có
càng nhiều thì càng tốt, nhưng tôi không nghĩ đang
thiếu ở điểm đó. Tôi có thể lấy ví dụ: Chúng tôi chỉ
có 1.500 nhân viên nhưng chúng tôi có thể sản xuất
ra smartphone. Về an ninh mạng thì chúng tôi có thị
phần nhiều hơn so với những phần mềm diệt virus
khác, đều là những phần mềm có thứ hạng cao trên
thế giới” (HL, 2018).
3.4. Việt Nam có hạ tầng viễn thông tương đối tốt
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn
Mạnh Hùng cho rằng thuận lợi lớn nhất là chúng ta
có hạ tầng viễn thông tốt, có một số doanh nghiệp
viễn thông mạnh, có hạ tầng phủ sóng toàn quốc.
Năm 2007, số người sử dụng internet ở Việt Nam
là 17,7 triệu người, đến năm 2017 đã tăng lên mức
64 triệu người, xấp xỉ 67% dân số, đứng thứ 13
trong top 20 quốc gia sử dụng internet đông nhất
thế giới. Việt Nam cũng là nước có nhịp độ tăng chi
tiêu cho điện toán đám mây cao với 64,4%/năm, cao
hơn mức bình quân của ASEAN (49,5%). Đến năm
2018, Việt Nam đạt 41/100 điểm đứng thứ 14 trong
bảng xếp hạng về độ phủ dịch vụ Cloud. Giá cước
3G, 4G nằm trong top rẻ nhất thế giới.
Bà Sarah Pearson, Bộ Ngoại giao và Thương mại
Australia, cho rằng: “Trong xu thế của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam có cơ hội và tiềm
năng rất lớn để xây dựng một nền kinh tế ngày càng
hiện đại, hiệu quả, hội nhập” (HL, 2018).
3.5. Việt Nam có lợi thế trong việc thực hiện
cách mạng công nghiệp 4.0 trên nhiều lĩnh vực
và tác động tích cực đến cải thiện khả năng cạnh
tranh của quốc gia
Báo cáo đánh giá mức độ sẵn sàng cho cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 của WEF, Việt Nam mặc dù
vẫn ở nhóm sơ khởi nhưng khá gần với nhóm tiềm
năng cao trong cách mạng công nghiệp 4.0 (HL,
2018). Đánh giá về các ngành kinh tế có lợi thế
trong cách mạng công nghiệp 4.0, với 89,9% những
người được hỏi cho rằng đó là ngành công nghệ
thông tin; 45,7% ngành du lịch; 44,9% ngành nông
nghiệp; 47% ngành tài chính - ngân hàng và 28,3%
ngành logistics (Anh Minh & Phương Hiền, 2017).
Mặt khác, quá trình từng bước áp dụng cách mạng
công nghiệp 4.0 vào các ngành có tác động qua lại
với việc cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Chỉ
số năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam đứng
thứ 60/138 nước năm 2017 (WEF, 2017) lên 56/139
nước năm 2018 (WEF, 2018).
3.6. Việt Nam có khả năng thu hút đầu tư của
các doanh nghiệp công nghệ và ứng dụng công
nghệ 4.0
Việt Nam có khả năng thu hút đầu tư vào các lĩnh
vực sản xuất và lắp ráp thiết bị, linh kiện kỹ thuật
số với ngành cơ khí, thiết bị điện, sản phẩm điện tử.
Ba công nghệ được sử dụng nhiều nhất trong công
nghiệp là kết nối thiết bị, công nghệ đám mây và
công nghệ cảm biến, với tỷ lệ doanh nghiệp áp dụng
là 18%, 17% và 16%. Không chỉ thế, các ứng dụng
Số 260 tháng 02/2019 6
để phục vụ chuyển đổi số khá phong phú trong một
số DN như VNPT, Sao Bắc Đẩu, Lạc Việt, MISA...
là ví dụ (Viễn Thông, 2018a).
Ông Phạm Thế Trung - Phó giám đốc Trung tâm
VNPT- IT khu vực 2 cho biết:“Sao Bắc Đẩu chọn
hướng đi dùng thế mạnh vốn có là các nền tảng
quản trị các nguồn lực doanh nghiệp kết hợp thêm
với những nền tảng về thương mại điện tử, mang
đến giải pháp tổng thể từ nguồn lực nội bộ doanh
nghiệp đến những nền tảng tiếp cận khách hàng”
(Viễn Thông, 2018a)
MISA đạt doanh thu 678 tỷ đồng, tăng trưởng
60% năm 2017, trong đó ứng dụng AI đóng góp
quan trọng. Tương tự, đại diện Lạc Việt cũng tỏ ra
lạc quan các doanh nghiệp ICT khác đã sẵn sàng
cung cấp giải pháp chuyển đổi số. Ông Phạm Thế
Trung - Phó giám đốc Trung tâm VNPT- IT khu vực
2 cho biết: “Chúng tôi đã cung cấp ra thị trường
nhiều giải pháp dịch vụ áp dụng các xu hướng công
nghệ mới, trong đó hệ sinh thái hạ tầng số gồm 4 trụ
cột: Hạ tầng kết nối số, Trung tâm dữ liệu và hạ tầng
dịch vụ công nghệ thông tin, hạ tầng dữ liệu và hạ
tầng ứng dụng số” (Viễn Thông, 2018a).
Một số doanh nghiệp nhà nước đã có chiến lược
tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như:
Tập đoàn điện lực, tập đoàn dầu khí, tập đoàn than-
khoáng sản Việt Nam đẩy mạnh ứng dụng tin học
hóa, tự động hóa vào sản xuất quản lý. Viettel đã tiếp
cận công nghệ cốt lõi của cách mạng công nghiệp
4.0, ứng dụng tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một số
doanh nghiệp tư nhân đã tổ chức triển khai 4.0 như:
VinFast với sản xuất ôtô, FPT với IoT. FPT tuyên bố
có đủ khả năng cạnh tranh ngang ngửa các cường
quốc về công nghệ thông tin. Thêm nữa, ngành công
nghiệp sản xuất các thiết bị cho thành phố thông
minh tại TP Hồ Chí Minh đã bắt đầu hình thành trong
khoảng một năm trở lại đây (Viễn Thông, 2018b).
4. Những rào cản thực hiện cách mạng công
nghiệp 4.0 ở Việt Nam
4.1. Nhận thức về sự cần thiết và tính chất của
cách mạng công nghiệp 4.0 chưa rõ ràng, chưa
đúng mức
Hầu hết các doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn sàng
cho cách mạng công nghiệp 4.0, họ không hiểu bản
chất của nó, không sẵn sàng tiếp cận công nghệ mới.
Theo khảo sát của VINASA, có tới 58,7% cơ quan,
đơn vị đã tìm hiểu nhưng chưa biết chuẩn bị gì để
thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0 (Anh Minh &
Phương Hiền, 2017).
Theo đánh giá của bà Vũ Kim Hạnh - Chủ tịch
Hội doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao, có
3 điều doanh nghiệp thường băn khoăn khi nghĩ đến
câu chuyện chuyển đổi số: “Thứ nhất là mọi người
sợ tốn tiền. Thứ hai, họ sợ bảo mật. Họ sợ rằng ‘đưa
lên đám mây thì mây nó bay lung tung’, không biết
có ai ‘thò’ lấy mất không. Cái thứ ba là nhân lực. Họ
lo người ở đâu để làm mấy chuyện phức tạp này. Họ
sợ cả những nhân sự nếu lấy dữ liệu công ty đi thì
kiểm soát sao. Có tìm được người giỏi thì không lâu
nơi khác lại kéo mất”.
Các doanh nghiệp còn ngại ứng dụng công nghệ
này bởi đội ngũ nhân viên chưa đủ khả năng (20%),
thiếu kinh phí (44%) và chưa chắc chắn vào lợi ích
đối với doanh nghiệp (48%) (Viễn Thông,2018b).
4.2. Hạ tầng viễn thông tuy là điểm mạnh của
Việt Nam nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0
Theo bảng xếp hạng của WEF năm 2016, hạ tầng
viễn thông của Việt Nam chỉ đứng thứ 110/193 nước,
tức ở mức dưới trung bình. Trên thực tế, những thay
đổi về công nghệ mới chỉ thể hiện khá ít ỏi ở một số
tập đoàn công nghệ thông tin và viễn thông, khi họ
bắt buộc phải gia công phần mềm, ứng dụng, quản
lí internet, hệ thống bảo mật như FPT, VNPT hay
Viettel (Hương Lan, 2108).
Theo Nguyễn Văn Tuấn (2018), mức chi tiêu về
điện toán đám mây tính trên đầu người của Việt
Nam còn rất thấp, chỉ bằng 1/100 so với Singapore
và 1/50 so với Hàn Quốc. Hơn nữa, rào cản cho triển
khai thương mại điện tử là 90% giá trị thanh toán
dùng tiền mặt. Báo cáo của WEF cho thấy các chỉ số
về giáo dục, khoa học và công nghệ của Việt Nam bị
xếp vào nhóm thấp nhất thế giới. Do đó, họ xếp Việt
Nam vào nhóm chưa chuẩn bị cho cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0.
4.3. Nguồn nhân lực của Việt Nam có tác động
2 mặt vừa là tiềm năng lại vừa là rào cản cho cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0
Rào cản lớn nhất của Việt Nam hiện nay chính là
yếu tố con người, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng
cấp, chứng chỉ mới đạt 20,2% trên tổng số lao động
(Anh Minh & Phương Hiền, 2017). Thêm vào đó,
theo công ty FPT, kỹ sư IT mới ra trường cần ít nhất
thêm 1 năm đào tạo lại mới làm được việc. Báo cáo
gần đây của WEF cho thấy hạ tầng nhân lực của Việt
Nam đứng thứ 127/193 nước. Tại khu vực Đông Nam
Á, Việt Nam chỉ tương đương Campuchia, thua kém
Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia (Khánh
Số 260 tháng 02/2019 7
Vy, 2018).
Ông Đinh Duy Linh, Giám đốc Trung tâm Đào
tạo bưu chính viễn thông 2, Học viện Công nghệ
bưu chính viễn thông cảnh báo: “Nguồn nhân lực
đang là một lực cản lớn. Con số 200.000 cử nhân
thất nghiệp mỗi năm, nhiều trong số đó là ngành
công nghệ thông tin là một thực trạng. Dù bất cứ
lý do gì nữa, những con người đó “được đẩy” ra
trường, ngày tốt nghiệp cũng là ngày thất nghiệp vì
không đủ năng lực làm việc” (Kim Yến, 2018).
4.4. Qui mô của đa số doanh nghiệp là vừa và
nhỏ, thiếu vốn và trình độ công nghệ thấp
Hơn 31% GDP của Việt Nam là từ kinh tế hộ gia
đình qui mô nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp nhỏ
sử dụng công nghệ lạc hậu từ 2-3 thế hệ cũng là một
rào cản đưa công nghệ 4.0 vào các ngành sản xuất.
Báo cáo của WEF cho thấy việc đổi mới công nghệ
của Việt Nam chỉ đứng ở vị trí 90/100 nước (Khánh
Vy, 2018). Ông Nguyễn Lưu Dũng, giám đốc của
Vinamachines nhận định: “Đa số doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư lớn thì dùng máy mới của Đài Loan,
Âu Mỹ. Còn doanh nghiệp nhỏ thường dùng máy
bãi. Máy bãi tức là máy vẫn hoạt động bình thường
nhưng quá niên hạn sử dụng theo quy định tại nước
đó. Ngành gia công cơ khí chúng ta khá lạc hậu với
tầm 70% đang dùng máy cũ nên công suất thấp,
những chuyển động tích cực về hướng 4.0 chưa phải
là đa số trong các nhà máy cơ khí”(Viễn Thông,
2018b).
5. Vai trò của Nhà nước trong việc phát huy
tiềm năng và xóa bỏ rào cản để thực hiện cách
mạng công nghiệp 4.0
Với các nước đang phát triển như Việt Nam, Nhà
nước có vai trò rất lớn trong chiến lược thực hiện
cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy vậy, một trong
những nguyên nhân hình thành những rào cản thực
hiện cách mạng công nghiệp 4.0 là do Nhà nước
chưa phát huy đầy đủ vai trò của mình trong ban
hành định hướng chiến lược, xây dựng và thực thi
các chính sách hỗ trợ để thực hiện cách mạng công
nghiệp 4.0.
5.1. Nhà nước cần nâng cao nhận thức của xã
hội về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Tư duy và nhận thức về vai trò, tầm quan trọng
của công nghệ thông tin của chính quyền, doanh
nghiệp và người dân chưa thực sự đầy đủ, chậm
và thiếu quyết liệt. Có ý kiến cho rằng Việt Nam
nên tập trung thực hiện các nội dung của cuộc cách
mạng 2.0; đến khi nào đủ tiền đề mới thực hiện cách
mạng công nghiệp 4.0. Vì vậy mỗi người cần hiểu
cách mạng 4.0 là gì, tác động đến ngành nghề nào
để tham dự vào cách mạng công nghiệp 4.0 hoặc
trực tiếp kinh doanh hoặc sử dụng chính thành quả
công nghệ do cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại.
Nhà nước cần tăng cường thông tin, truyền thông tạo
hiểu biết và nhận thức đúng về bản chất, đặc trưng,
các cơ hội và thách thức của cách mạng công nghiệp
4.0. Các cơ quan thông tin báo chí, truyền thông cần
định hướng dư luận, giúp cho các tổ chức và người
dân, có nhận thức đúng về của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 (Nguyễn Mại, 2018)
5.2 Nhà nước cần xây dựng và thực hiện khung
pháp lý về an toàn thông tin mạng trong quá trình
thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0
Với bước tiến của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, con người đang phải đối mặt với một mối đe
dọa mới xuất phát từ các nền tảng AI. Do đó, phòng
chống tấn công an ninh mạng là một vấn đề toàn cầu
và cần phải có sự hợp tác giữa các quốc gia. Trong
khi đó, Việt Nam hiện đứng 101/193 nước và đứng
thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á về chỉ số an
toàn thông tin mạng. Vì thế, Nhà nước cần có những
5
Theo Nguyễn Văn Tuấn (2018), mức chi tiêu về điện toán đám mây tính trên đầu người của Việt Nam còn rất
thấp, chỉ bằng 1/100 so với Singapore và 1/50 so với Hàn Quốc. Hơn nữa, rào cản cho triển khai thương mại
điện tử là 90% giá trị thanh toán dùng tiền mặt. Báo cáo của WEF cho thấy các chỉ số về giáo dục, khoa học
và công nghệ của Việt Nam bị xếp vào nhóm thấp nhất thế giới. Do đó, họ xếp Việt Nam vào nhóm chưa
chuẩn bị cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
4.3. Nguồn nhân lực của Việt Nam có tác động 2 mặt vừa là tiềm năng lại vừa là rào cản cho cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0
Rào cản lớn nhất của Việt Nam hiện nay chính là yếu tố con người, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp,
chứng chỉ mới đạt 20,2% trên tổng số lao động (Anh Minh & Phương Hiền, 2017). Thêm vào đó, theo công ty
FPT, kỹ sư IT mới ra trường cần ít nhất thêm 1 năm đào tạo lại mới làm được việc. Báo cáo gần đây của WEF
cho thấy hạ tầng nhân lực của Việt Nam đứng thứ 127/193 nước. Tại khu vực Đông Nam Á, Việt Nam chỉ
tương đương Campuchia, thua kém Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia (Khánh Vy, 2018).
Ông Đinh Duy Linh, Giám đốc Trung tâm Đào tạo bưu chính viễn thông 2, Học viện Công nghệ bưu chính
viễn thông cảnh báo: “Nguồn nhân lực đang là một lực cản lớn. Con số 200.000 cử nhân thất nghiệp mỗi
năm, nhiều trong số đó là ngành công nghệ thông tin là một thực trạng. Dù bất cứ lý do gì nữa, những con
người đó “được đẩy” ra trường, ngày tốt nghiệp cũng là ngày thất nghiệp vì không đủ năng lực làm việc”
(Kim Yến, 2018).
Bảng 1: Một số chỉ số về giáo dục và khoa học của Việt Nam so với các nước trong khu vực
Quốc gia Phẩm chất đại học
Phẩm chất
toán và khoa
học
Công bố bằng sáng
chế
(tính trên triệu dân)
Công bố khoa học
(tính trên triệu dân)
Khả năng thu
hút và giữ nhân
tài
Việt Nam 75 68 73 74 44
Thái Lan 28 66 60 67 35
Malaysia 23 16 36 50 12
Indonesia 23 35 83 97 24
Philippines 47 60 68 92 50
Nguồn:Nguyễn Văn Tuấn (2018).
4.4. Qui mô của đa số doanh nghiệp là vừa và nhỏ, thiếu vốn và trình độ công nghệ thấp
Hơn 31% GDP của Việt Nam là từ kinh tế hộ gia đình qui mô nhỏ và siêu nhỏ. Các doanh nghiệp nhỏ sử
dụng công nghệ lạc hậu từ 2-3 thế hệ cũng là một rào cản đưa công nghệ 4.0 vào các ngành sản xuất. Báo cáo
của WEF cho thấy việc đổi mới công nghệ của Việt Nam chỉ đứng ở vị trí 90/100 nước (Khánh Vy, 2018).
Ông Nguyễn Lưu Dũng, giám đốc của Vinamachines nhận định: "Đa số doanh nghiệp Việt Nam đầu tư lớn
thì dùng máy mới của Đài Loa , Âu Mỹ. Còn doanh nghiệp nhỏ thường dùng máy bãi. Máy bãi tức là máy
vẫn hoạt động bình thường nhưng quá niên hạn sử dụng theo quy định tại nước đó. Ngành gia công cơ khí
chúng ta khá lạc hậu với tầm 70% đang dùng máy cũ nên công suất thấp, những chuyển động tích cực về
hướng 4.0 chưa phải là đa số trong các nhà máy cơ khí”(Viễn Thông, 2018b).
5. Vai trò của Nhà nước trong việc phát huy tiềm năng và xóa bỏ rào cản để thực hiện cách mạng công
nghiệp 4.0
Với các nước đang phát triển như Việt Nam, Nhà nước có vai trò rất lớn trong chiến lược thực hiện cách
mạng công nghiệp 4.0. Tuy vậy, một trong những nguyên nhân hình thành những rào cản thực hiện cách
mạng công nghiệp 4.0 là do Nhà nước chưa phát huy đầy đủ vai trò của mình trong ban hành định hướng
chiến lược, xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ để thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0.
Số 260 tháng 02/2019 8
biện pháp để bảo vệ sự an toàn và riêng tư, tính bảo
mật trong kinh doanh và đời sống xã hội (Nguyễn
Phan Anh, 2018). Mặt khác, khung pháp lý của Việt
Nam “chưa mở” với các luồng dữ liệu xuyên biên
giới so với các quốc gia trong khu vực. Vì vậy Nhà
nước cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý tạo
môi trường thuận lợi cho cách mạng công nghiệp
4.0 (Chu Văn, 2018). Theo đó, Việt Nam cần thực
hiện tốt “Luật an toàn thông tin mạng” ban hành
năm 2015; “Luật an ninh mạng” ban hành năm
2018; “Luật giao dịch điện tử” ban hành năm 2005;
cũng như các qui định đã ban hành của Nhà nước về
văn bản điện tử và chữ ký số.
5.3. Nhà nước cần huy động nhiều nguồn vốn
đầu tư và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực
hiện cách mạng công nghiệp 4.0 nhất là với doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ
tướng Chính phủ về tăng cường năng lực tiếp cận
cách mạng công nghiệp 4.0 đánh giá công nghệ
thông tin của Việt Nam vẫn đang ở quy mô nhỏ,
công nghiệp phần mềm - nội dung số còn manh mún
mà một trong những nguyên nhân là nguồn vốn từ
các ngân hàng thương mại chưa đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp, còn ngân sách nhà nước đầu tư
cho lĩnh vực công nghệ thông tin chưa được bố trí
tập trung. Ông Nguyễn Tử Quảng, Tổng Giám đốc
Tập đoàn Công nghệ BKAV đặt vấn đề:“Nếu như
có chính sách tốt hơn nữa thì tôi tin rằng chúng tôi
sẽ có thị phần tốt trong mảng smartphone này và có
thị phần tốt trong nước thì chúng tôi có thể vươn ra
thị trường quốc tế. Đó là tiền đề rất tốt để Việt Nam
tận dụng cách mạng công nghiệp 4.0” ( HL, 2018).
Để thực hiện cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà
nước cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp
đầu tư, phát triển, kinh doanh công nghệ mới. Tuy
nhiên, Việt Nam chưa xây dựng được hệ sinh thái
đổi mới sáng tạo, hỗ trợ ý tưởng và tài chính cho các
doanh nghiệp khởi nghiệp. Rất nhiều startup Việt
Nam đã tìm ra nước ngoài hoạt động và điểm đến
thường là Singapore.
Một người sáng lập một startup cho biết: “Ngoài
nguồn vốn dồi dào, nguồn nhân lực tốt, chính phủ
Singapore hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp. Như đăng ký kinh doanh chỉ cần một vài
tiếng, doanh nghiệp chỉ cần báo thuế khi doanh thu
trên 100.000 đô la Singapore, vì họ cho rằng làm
điều này sẽ giảm phiền hà cho doanh nghiệp và khi
đến thời điểm đó doanh nghiệp mới đủ chi phí hoạt
động.” (Nguyễn Đình Đạt, 2018).
Do đó, để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp hoạt động
thời cách mạng 4.0, đòi hỏi thị trường vốn, hoạt
động quản lý ngoại hối phải cởi mở hơn và tạo thuận
lợi hơn cho dòng vốn đầu tư mạo hiểm. Điều này đòi
hỏi cách ứng xử của các hệ thống pháp lý, cơ quản
lý phải có những thay đổi thì mới phù hợp với tính
sáng tạo, thay đổi nhanh trong kinh doanh thời 4.0.
5.4. Nhà nước cần đầu tư phát triển hạ tầng
viễn thông và chính phủ điện tử đáp ứng nhu cầu
thực hiện
Cần xây dựng và phát triển hạ tầng viễn thông trở
thành nền tảng phát triển kinh tế chung; xây dựng
và mở rộng hạ tầng băng rộng hiện đại đạt tốc độ
truy cập cao, đáp ứng nhu cầu về dung lượng đang
ngày càng tăng lên của người dùng, đồng thời mở
rộng vùng phủ sóng; cung cấp các dịch vụ băng rộng
chất lượng cao phù hợp và giá thành thấp; tập trung
phát triển các nền tảng ứng dụng, đa dạng hóa dịch
vụ như e-Government, e-Commerce, e-Banking,
e-Learning, e-Health/Telemedicine; ứng dụng công
nghệ băng rộng trong phòng chống thiên tai, an toàn,
an ninh xã hội.
Hiện nay việc thực hiện Nghị quyết 36a/NQ-CP
về xây dựng Chính phủ điện tử cũng gặp không ít
những rào cản để cải thiện chỉ số dịch vụ công trực
tuyến (OSI) và hạ tầng viễn thông. Theo bảng xếp
hạng Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc (LHQ)
công bố về chính phủ điện tử (EGDI), Việt Nam chỉ
được xếp hạng 99 năm 2014 và hạng 89/193 năm
2016. So với các nước trong ASEAN, Việt Nam xếp
thứ 6 sau Singapore, Malaysia, Philippines, Thái
Lan và Brunei. Vì vậy, ứng dụng công nghệ thông
tin, xây dựng Chính phủ điện tử không chỉ gắn kết
chặt chẽ với cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm
an toàn, an ninh thông tin mà còn phải đẩy mạnh
thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ
3, mức độ 4.
Một giám đốc công nghệ thông tin kiến nghị:“Quét
nhà thì phải quét từ trên cao xuống chứ không ai
quét từ dưới lên. Chính quyền phải 4.0 trước, tức
là phải có con người 4.0, hệ thống pháp lý 4.0, mọi
thứ vận hành trơn tru không còn nhũng nhiễu người
dân và doanh nghiệp thì các doanh nghiệp mới 4.0
được” ( HL, 2018).
5.5. Nhà nước cần nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo nguồn nhân lực cho cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0
Lao động trình độ cao sẽ trở thành nhân tố quan
Số 260 tháng 02/2019 9
trọng nhất trong cạnh tranh và phát triển, đặc biệt
trong cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, chất
lượng giáo dục khoa học và toán của Việt Nam
đứng hạng 68/100 nước, thấp hơn các nước như
Thái Lan hạng (66), Malaysia (16), Indonesia (35)
và Philippines (60) (Nguyễn Văn Tuấn, 2018). Bên
cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong
các cơ quan hành chính còn thiếu về số lượng và yếu
kém về chuyên môn (Trịnh Xuân Thắng, 2018). Vì
vậy nhà nước cần tập trung thúc đẩy phát triển, tạo sự
bứt phá về nhân lực công nghệ thông tin (Thủ tướng
Chính phủ, 2017). Nền giáo dục phát triển không chỉ
cung cấp kiến thức mà còn hình thành kỹ năng sáng
tạo mà giáo dục truyền thống không thể đáp ứng.
Vì vậy cần đổi mới nội dung, phương thức đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại
học và giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng
đào tạo một số trường đại học, một số nghề tiếp cận
trình độ các nước phát triển trong ASEAN và thế
giới. Thêm vào đó, Nhà nước cần có chính sách kết
nối cộng đồng khoa học và công nghệ người Việt
Nam ở nước ngoài và cộng đồng trong nước.
Tài liệu tham khảo:
Anh Minh & Phương Hiền (2017), ‘Lợi thế nào cho Việt Nam tiếp cận cách mạng công nghiệp 4.0’? tainangviet, truy
cập lần cuối ngày 20 tháng 10 năm 2018 từ <
cong-nghiep-40-dar1810/>
Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP về chính phủ điện tử, ban hành ngày 14 tháng 10 năm 2015.
Chính phủ (2016), Nghị quyết Số: 41/NQ-CP về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ
thông tin’, ban hành ngày ngày 26 tháng 5 năm 2016.
Chu Văn (2018), ‘Việt Nam có thể bứt phá trong cách mạng công nghiệp 4.0’, baoquocte, truy cập lần cuối ngày 15
tháng 10 năm 2018 từ <
html>
Hercko, J. & Hna, J. (2015),‘Industry 4.0 as a factor of productivity increase’, researchgate, truy cập lần cuối ngày
30 tháng 9 năm 2018 từ < https://www.researchgate.net/ publication/ 285597330_ Industry_40_as_a_factor_of_
productivity_increase&prev=search>.
HL (2018), ‘Cách mạng Công nghiệp 4.0: Bài 1 - Cơ hội và thách thức’, baomoi, truy xuất lần cuối ngày 10 tháng
10 năm 2018 từ
Hương Lan (2108),‘Việt Nam có nhiều thuận lợi trong cách mạng công nghiệp 4.0’, Doanh nhan Viet, truy lần cuối
ngày 25 tháng 10 năm 2018 từ nhan Viet.Net.vn/y-kien/viet-co-nhieu-thuan-loi-trong-cach-mang-
cong-nghiep-40-3692.html.
Immerman,G. (2017), These three things are driving Industry 4.0, truy cập lần cuối ngày 25 tháng 10 năm 2018 từ <
https://www.machinemetrics.com/blog/3-factors-driving-industry-4-0&prev=search>.
Immerman,G. (2018), ‘Factors affecting the industrial revolution 4.0’, machinemetrics, truy cập lần cuối ngày 30 tháng
9 năm 2018 từ
Khánh Vy (2018), ‘Việt Nam tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 một cách thận trọng’, congankhanhhoa, truy
cập lần cuối ngày 28 tháng 9 năm 2018 từ <
mang-cong-nghiep- Truy xuất từ 4-0-mot-cach-than- trong_202610_63_2_article.html>
Kim Yến (2018), ‘Cách mạng công nghiệp 4.0, cuộc đấu trí lực giữa máy và người’, brandsvietnam, truy cập lần cuối
ngày 29 tháng 9 năm 2018 từ <
luc-giua-may-va-nguoi>.
Lasi, H., Fettke,P., Feld,T., Hoffmann,M.(2014), ‘Industry 4.0’, Business & Information Systems Engineering, 4 (6),
239-242
Mario, H.,Tobias,P. & Boris, O. (2016), ‘Design Principles for Industrie 4.0’, thiagobranquinho, truy cập lần cuối ngày
30 tháng 9 năm 2018 từ <https://www.thiagobranquinho.com/wp-content/uploads/2016/11/Design-Principles-
for-Industrie-4_0-Scenarios.pdf>
Müller, J. M. , Kiel, D. & Voigt, K.I.(2018), ‘What Drives the Implementation of Industry 4.0? The Role of Opportunities
Số 260 tháng 02/2019 10
and Challenges in the Context of Sustainability’, researchgate.net, truy cập lần cuối ngày 25 tháng 10 năm 2018
từ https://www.researchgate.net/publication/322505680_What_ Drives_ the_Implementation_of_Industry_40_
The_Role_of_Opportunities_and_Challenges_in_the_Context_of_Sustainability
Nguyễn Đình Đạt (2018), ‘Công nghiệp 4.0 và startup: Việt Nam cần học từ đâu?’, BBC , truy cập lần cuối ngày 27
tháng 9 năm 2018 từ
Nguyễn Mại (2018), ‘Cách mạng công nghiệp 4.0 với Việt Nam’, baodautu, truy cập lần cuối ngày 28 tháng 9 năm
2018 từ
Nguyễn Phan Anh (2018), ‘Cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu đối với hệ thống giáo dục Việt Nam’, tapchitaichinh,
truy cập lần cuối ngày 28 tháng 9 năm 2018 từ
cach-mang-cong-nghiep-40-va-yeu-cau-doi-voi-he-thong-giao-duc-viet-nam-144016.html.
Nguyễn Văn Tuấn (2018), ‘Vì sao Việt Nam xếp vào nhóm chưa sẵn sàng cho cách mạng công nghiệp 4.0 ?’, thanhnien,
truy cập lần cuối ngày 28 tháng 9 năm 2018 từ https://thanhnien.vn/giao-duc/vi-sao-viet-nam-xep-vao-nhom-
chua-san-sang-cho-cach-mang-cong-nghiep-40-942461.html.
Schwab, K.(2016), ‘Fourth Industrial Revolution World’ Economic Forum, 91–93 route de la Capite CH-1223 Cologny/
Geneva Switzerland, truy cập lần cuối ngày 27 tháng 9 năm 2018 từ
The World Economic Forum-WEF(2017),The Global Competitiveness Index 2017–2018 Rankings,
weforum.org/docs/GCR2016-2017/05FullReport/TheGlobalCompetitiveness Report2016-2017_FINAL.pdf
The World Economic Forum-WEF(2018), The Global Competitiveness Index 2017–2018 Rankings,
weforum.org/docs/GCR2017-2018/05FullReport/TheGlobalCompetitiveness Report 2017 %E2%80%932018.
pdf
Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng lực tiếp nhận cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4, ban hành ngày 04 tháng 05 năm 2017.
Trịnh Xuân Thắng (2018),Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến sự phát triển của nền hành chính nhà
nước, truy cập lần cuối ngày 20 tháng 9 năm 2018 từ
tu-lieu/2028-ddd.html.
Trọng Đạt (2018), ‘Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ giúp Việt Nam phát triển nhảy vọt’, vietnamnet, truy cập lần cuối
ngày 21 tháng 10 năm 2018 từ nghe /cach-mangse-giup-viet-nam--
cong-nghiep-4-0-phat-trien-nhay-vot-462803.html
Viễn Thông (2018a),‘Chi phí để doanh nghiệp lên 4.0 ngày càng giảm’, vnexpress, truy cập lần cuối ngày 24 tháng 10
năm 2018 từ https://vnexpress.net/tin-tuc/wef-asean/chi-phi-de- doanh-nghiep-len-4-0-ngay-cang- giam3786619.
html?vn_source= rcm_detail&vn_medium=kinh doanh &vn_campaign=rcm&ctr=rcm_detail_env_4_click_
kinhdoanh.
Viễn Thông (2018b),‘4.0 sau cánh cửa nhà máy’, vnexpress, truy cập lần cuối ngày 24 tháng 10 năm 2018 từ https://
vnexpress.net/kinh-doanh/4-0-sau-canh-cua-nha-may-3772858.html.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_mang_cong_nghiep_4_0_o_viet_nam_tiem_nang_rao_can_va_va.pdf