Cuộc CMCN 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên
nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa với
sự đột phá của Internet vạn vật và Trí tuệ nhân tạo mà
đặc điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa
của số hóa với đặc trưng là CNTT. Thực tế này mở ra
những cơ hội và cả thách thức rất lớn cho các cơ sở đào
tạo nhằm đáp ứng nguồn nhân lực lao động có trình độ,
có năng lực nghề nghiệp và khả năng tiếp cận, làm việc
và vận hành các hệ thống thông minh trong thời kì công
nghệ số.
Sự bùng nổ của CMCN 4.0 sẽ tác động tích cực làm
thay đổi mô hình và phương thức đào tạo tiên tiến, trong
đó giáo dục trực tuyến là một lựa chọn phù hợp với thời
đại và cần được triển khai rộng khắp đối với các cơ sở
đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 714 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách mạng công nghiệp 4.0-Xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 43-46; 19
43
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 -
XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC TRỰC TUYẾN
Phan Chí Thành - Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị
Ngày nhận bài: 24/10/2017; ngày sửa chữa: 31/10/2017; ngày duyệt đăng: 01/12/2017.
Abstract: The Fourth Industrial Revolution, which is the trend based on a highly integrated
platform of digital connectivity and information technology, has led to inevitable changes in almost
fields, including education. Along with the development of technology, the trend of modern online
education will be the appropriate model for education institutions. The article discusses the trend
of technology development with Industrial revolution 4.0 and its impact on the modern teaching
model in which online education is one of the potential models.
Keywords: Virtual school, Internet of Things - IoT, Artificial Intelligence - AI, Augmented
Reality - AR, cloud computing, big data.
1. Mở đầu
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0)
với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao
độ của hệ thống kết nối số hóa - vật lí - sinh học với sự
đột phá của Internet vạn vật và Trí tuệ nhân tạo mà đặc
điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa của
số hóa. Thực tế này mở ra những cơ hội và cả thách thức
rất lớn cho các cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng nguồn nhân
lực trong thời kì công nghệ số.
Giáo dục trực tuyến mang nhiều ưu điểm vượt trội
trong đào tạo đã làm thay đổi mạnh mẽ quá trình tự học
do khả năng cá nhân hóa cũng như đáp ứng hiệu quả các
hoạt động học tập của người học. Giáo dục trực tuyến và
xây dựng môi trường học tập trực tuyến hiện đang được
quan tâm chú ý và đưa vào triển khai trong nhiều trường
đại học, các cơ sở đào tạo ở Việt Nam với phạm vi, mức
độ khác nhau.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, việc xây dựng
môi trường học tập trực tuyến hiện đại, xây dựng các nội
dung dạy học trực tuyến được phát triển theo hướng ngày
càng tiếp cận gần hơn với người học; người học có thể
khai thác nội dung học tập trực tuyến từ thiết bị di động,
thiết bị công nghệ thông tin (CNTT), hay học tập trong
mô hình trường “trường học ảo” ở bất kì đâu, bất kì lúc
nào khi công nghệ truyền thông được kết nối, đặc biệt
với nền tảng công nghệ của CMCN 4.0 đang bùng nổ
hiện nay là xu thế tất yếu trong giáo dục hiện đại.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Xu thế phát triển công nghệ với CMCN 4.0
Khác với các cuộc CMCN trước đây, CMCN 4.0
không gắn với sự ra đời của một công nghệ nào cụ thể
mà là kết quả hội tụ của nhiều công nghệ khác nhau,
trong đó trọng tâm là công nghệ nano, công nghệ sinh
học và CNTT - truyền thông (ICT - Information
Communication Technology).
Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra từ những năm 2000
gọi là cuộc cách mạng số, là xu hướng hiện thời trong
việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản
xuất. Thông qua các công nghệ như: internet vạn vật (IoT
- Internet of Things), trí tuệ nhân tạo (AI - Artificial
Intelligence), thực tế ảo (VR - virtual reality), tương tác
thực tại ảo (AR - Augmented Reality); mạng xã hội, điện
toán đám mây, di động, phân tích dữ liệu lớn (SMAC -
Social Mobile Analytics Cloud)... để chuyển hóa toàn bộ
thế giới thực thành thế giới số.
Với những nhà máy thông minh (hình 1) được vận
hành tự động hóa hay những nhân lực lao động là những
người máy (Robot) sẽ đặt ra những thách thức không hề
nhỏ đối với thị trường lao động và nhu cầu đào tạo nhân
lực lao động để có thể tiệm cận và đáp ứng môi trường
công nghệ trước cuộc CMCN 4.0 đang hiện hữu trên thế
giới và Việt Nam. Thực tế đã có những thay đổi việc làm
trên thị trường lao động, người máy bắt đầu thực hiện các
công việc phổ thông thay cho con người.
Hình 1. Công nghiệp 4.0 tạo ra những Smart Factory
(nhà máy thông minh)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 43-46; 19
44
Đặc trưng của CMCN 4.0 là sự hợp nhất các loại
công nghệ làm xóa nhòa ranh giới giữa lĩnh vực vật lí, kĩ
thuật số và sinh học với trung tâm là phát triển trí tuệ
nhân tạo, robot hóa, Internet vạn vật, khoa học vật liệu,
sinh học, công nghệ di động không dây liên ngành sâu
rộng cho tự động hóa sản xuất chế tạo [1].
Theo báo cáo của VietnamWorks, trong 3 năm gần
đây, số lượng công việc của ngành CNTT đã tăng trung
bình 47%/năm, nhưng số lượng nhân lực chỉ tăng ở mức
8% (năm 2016). Những sự lựa chọn “lạc hướng” của
người học khi bước vào đại học sẽ là một rào cản lớn
khiến nguồn nhân lực của Việt Nam khó đáp ứng yêu cầu
của CMCN 4.0 hiện nay.
2.2. Tác động của CMCN 4.0 với mô hình dạy học
hiện đại
Trước những tác động tiềm năng của CMCN 4.0, để
làm tốt vai trò của ngành GD-ĐT là nơi cung cấp nguồn
nhân lực cho nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu
hóa càng sâu rộng như hiện nay, khi mà trong một số lĩnh
vực nhất định, lao động có thể di chuyển giữa các nước
theo những cam kết của cộng đồng kinh tế ASEAN
(ASEAN Economic Community - AEC), GD-ĐT Việt
Nam cần có những chính sách quyết liệt và mạnh mẽ hơn.
Nền tảng của CMCN 4.0 là sự kết nối giữa thế giới
thật và ảo thông qua phần mềm CNTT, kĩ thuật số và kết
nối mạng, do vậy kiến thức và kĩ năng về CNTT và kĩ
thuật số có vai trò rất quan trọng đối với nhà thiết kế bài
học và người học trong GD-ĐT.
Các cơ sở giáo dục đang đối diện với nhiều cơ hội và
thách thức của cách mạng số. Đó là vì cơ sở giáo dục phải
thực hiện nhiều chức năng khác nhau: dạy học, nghiên
cứu và dịch vụ giáo dục đều bị tác động bởi công nghệ
số có sẵn để sử dụng [2].
Với những điện toán đám mây (Cloud Computing),
công nghệ số kết nối toàn cầu và giao tiếp trong không
gian rộng và thời gian đa chiều, bởi trong thế giới “ảo”
lại hóa thật rất gần và hữu ích với việc học và là điều kiện
thuận lợi cho phương thức học tập hướng đến người học
mà giáo dục trực tuyến là một mô hình phù hợp.
Trong xã hội dựa trên tri thức và số hóa, giáo dục
phải đương đầu với thách thức to lớn chuyển từ học
truyền thống sang đổi mới phương pháp học. Nó đặt ra
yêu cầu lớn biến đổi vai trò người dạy truyền thụ kiến
thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều
phối. Sự biến đổi này buộc người dạy đối diện với
nhiệm vụ mới một cách linh hoạt hơn và cần được đào
tạo bồi dưỡng lại cho các nhiệm vụ rất mới mẻ này. Vai
trò người dạy đã và đang tiếp tục thay đổi từ địa vị
người dạy sang người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và
tạo ra môi trường học tập.
Ngày nay, người dạy phải giúp người học điều chỉnh
chất lượng và độ giá trị nguồn thông tin, kiến thức mới,
phải là nhà chuyên nghiệp có đầu óc mở, biết phê phán
độc lập, hợp tác, cộng tác tích cực và điều giải giữa người
học với những gì họ muốn biết, là người cung cấp cách
hiểu theo kiểu “dàn giáo” bắc cầu [3].
Khả năng gần như vô tận của internet đã từng bước
làm chuyển đổi hoạt động đào tạo từ dạy (teaching) sang
huấn luyện (coaching). Điều này cũng thúc đẩy đội ngũ
người dạy xâm nhập thực tế để có thể hướng dẫn người
học giải quyết từng trường hợp cụ thể trong đời sống sản
xuất dựa trên nền tảng kiến thức đã được trang bị; góp
phần tăng tính ứng dụng, hữu dụng của người học thích
ứng với sự thay đổi nhanh chóng trong môi trường sản
xuất dưới tác động của CMCN 4.0.
Khi áp dụng ICT và các công nghệ số khác, một số
cơ sở giáo dục đại học đã gặt hái kết quả lợi ích, sự ra đời
của học tương tác kêu gọi và chấp nhận các công cụ dạy
học và các vai trò mới của người dạy [4].
Đổi mới các kịch bản giảng dạy áp dụng khái niệm
giáo viên 4.0 để theo kịp bối cảnh công nghệ số với
CMCN 4.0. Các kịch bản theo khái niệm này được phân
tích so với các phương pháp giảng dạy truyền thống dưới
dạng “tư duy kịch bản” hoặc được gọi là phương pháp
“phân tích kịch bản” nhằm xác định những thách thức và
yêu cầu chính cho người dạy trong áp dụng khái niệm
giáo viên 4.0 dựa trên con người, về khoa học, công nghệ
và tổ chức. Đưa ra một cái nhìn về các bước cần thiết tiếp
theo cho người dạy để thích ứng với các công nghệ mới
trong giáo dục đại học [5].
Các cơ sở đào tạo thực hiện hoạt động đào tạo theo
hai hướng: một mặt phải đáp ứng tính định hướng xã hội,
mặt khác đào tạo cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu của thị trường lao động. Tuy nhiên, áp lực đối với
các cơ sở đào tạo càng lớn khi chương trình đào tạo vừa
đáp ứng tính chuyên môn cao trong lĩnh vực nhất định,
vừa đáp ứng tính liên ngành và các kĩ năng khác không
thể thiếu, như: khả năng suy nghĩ có hệ thống, khả năng
tổng hợp, khả năng liên kết giữa thế giới thực và ảo, khả
năng sáng tạo, kĩ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác
liên ngành... Trong bối cảnh kiến thức về công nghệ thay
đổi rất nhanh, việc trang bị cách thức tự học và ý thức
học tập suốt đời càng quan trọng hơn kiến thức của
chương trình đào tạo.
Một vấn đề khác đặt ra cho các cơ sở đào tạo là cách
thức tổ chức để chuyển tải nội dung chương trình đào tạo
đến người học. CMCN 4.0 đòi hỏi phương thức và
phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng dụng mạnh mẽ
của CNTT, công nghệ kĩ thuật số, hệ thống mạng và các
hệ thống thông minh. Và các hình thức đào tạo trực
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 43-46; 19
45
tuyến, đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng,... sẽ là xu
hướng đào tạo nghề nghiệp trong tương lai.
Việc xác định vai trò của người dạy trong học tập nối
mạng, giá trị của người dạy không phải là thông qua
giảng dạy mà thông qua hướng dẫn và tạo điều kiện
người học trở thành những người học tự định hướng [6].
Sự đa dạng hóa các mô hình dạy học, đa dạng hóa các
phương pháp và tiêu chuẩn tuyển chọn là rất quan trọng
đối với cả việc đáp ứng nhu cầu và việc cung cấp cho
người học một nền tảng để lựa chọn và sự chiếm lĩnh
kiến thức. Chất lượng trong giáo dục là một khái niệm đa
chiều, bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nó:
giảng dạy và các chương trình đào tạo, nghiên cứu và học
thuật, cấu trúc hạ tầng và môi trường học thuật [7].
Trong xã hội đa dạng, người dạy phải coi mỗi người
học là một cá nhân và xúc tác việc học của họ dựa trên
hứng thú của từng người. Người làm công tác dạy học
phải là chuyên gia kiến thức, biết lắng nghe và giao tiếp
hiệu quả, kèm cặp huấn luyện, xúc tác, giải quyết vấn đề,
thiết kế, hỗ trợ và điều phối các nguồn lực học tập.
Như vậy, CMCN 4.0 đang đặt ra những yêu cầu mới
cho nguồn nhân lực tương lai. Điều này đòi hỏi hệ thống
giáo dục Việt Nam cần đổi mới để có thể tạo ra những
nguồn nhân lực có năng lực chuyên môn và năng lực nghề
nghiệp vượt trội, có khả năng làm việc, vận hành với công
nghệ thông minh để có thể đáp ứng thị trường việc làm và
tận dụng tốt các cơ hội của thời kì công nghiệp 4.0. Các cơ
sở giáo dục cần xây dựng nền tảng trong đào tạo theo
hướng đổi mới và tiếp cận những công nghệ số, đổi mới
mô hình và phương thức dạy học, đồng thời cần trang bị
cho người dạy những kiến thức và kĩ năng cần có về công
nghệ để thiết lập và triển khai các khóa học với nền tảng
công nghệ số nhằm tạo ra nguồn nhân lực lao động có
khuynh hướng được đào tạo với những kiến thức và năng
lực chuyên môn sát với thực tiễn của môi trường lao động
trong thời kì công nghiệp 4.0.
2.3. Giáo dục trực tuyến - Mô hình tiềm năng
Sự ra đời của internet cùng với bước ngoặt của cuộc
CMCN 4.0, giáo dục trực tuyến có thể xóa đi mọi rào
cản. Bất cứ ai có kiến thức, khả năng truyền đạt tốt đều
có thể trở thành người đi dạy và bất cứ ai có nhu cầu học
tập đều có thể đi học.
Theo nghiên cứu của Global Industry Analysts, thị
trường giáo dục trực tuyến toàn cầu đạt hơn 100 tỉ USD
(năm 2016). Theo The Economist, số người đăng kí học
trực tuyến trên thế giới đạt 60 triệu (năm 2016) người và dự
báo đạt 70 triệu người trong năm nay (hình 2). Với nhiều đại
học danh tiếng trên thế giới, Mĩ hiện là quốc gia có nhiều
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ các khóa học trực tuyến quy
mô lớn (MOOC - Massive Online Open Course) nổi tiếng
nhất, có thể kể đến như: Coursera, edX và Udacity.
Hình 2. Quy mô của thị trường giáo dục trực tuyến
thế giới (nguồn: The Economist)
Giáo dục trực tuyến được du nhập vào Việt Nam từ
khá sớm. Trước năm 2010, đã có các đơn vị tiên phong
tìm kiếm cơ hội kinh doanh với mô hình này như:
Violet.vn, Hocmai.vn, TOPICA..., phần lớn đi theo mô
hình e-learning (hình 3). Đến năm 2012, Bộ GD-ĐT khởi
động dự án đại học ảo, tuy nhiên dự án này đang được
đánh giá về tính khả dụng trong thực hiện.
Hình 3. Mô hình giáo dục trực tuyến
CMCN 4.0 cùng các thiết bị thông minh đã hình
thành mô hình trường học trực tuyến với những ưu điểm
nổi bật với chương trình luôn thay đổi và được cập nhật
thường xuyên hoàn toàn tương thích với sự phát triển của
CMCN 4.0.
2.3.1. Thời cơ và thách thức với giáo dục trực tuyến
Giáo dục là một trong những lĩnh vực chịu sự tác
động này nhanh hơn cả bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra
những phiên bản mới của các cuộc CMCN tiếp theo.
Công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong
hoạt động đào tạo, thay đổi mục tiêu đào tạo, mô hình
đào tạo truyền thống bằng cách chuyển tải và đào tạo kiến
thức hoàn toàn mới. Sự phát triển CNTT, công cụ kĩ thuật
số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những
công cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức
và phương pháp giảng dạy.
Các lớp học truyền thống với những nhược điểm như:
chi phí tổ chức cao, không gian phục vụ hạn chế, không
thuận lợi cho một số đối tượng... sẽ được thay thế bằng
các lớp học trực tuyến, lớp học ảo. Chất lượng đào tạo
trực tuyến được kiểm soát dễ dàng bằng các công cụ hỗ
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 43-46; 19
46
trợ, như các cảm biến và kết nối không gian mạng.
Không gian học tập cũng sẽ đa dạng hơn, thay vì những
phòng thí nghiệm hay phòng mô phỏng truyền thống, thì
người học có thể trải nghiệm học tập bằng không gian ảo,
có thể tương tác trong điều kiện như thật thông qua các
phần mềm và hệ thống mạng. Dữ liệu lớn (Big Data) sẽ
là nguồn dữ liệu vô tận để học tập trải nghiệm về phân
tích, nhận dạng xu hướng ở mức chính xác cao. Tài
nguyên học tập số trong điều kiện kết nối không gian thật
và ảo sẽ vô cùng phong phú, không gian thư viện không
còn là địa điểm cụ thể nữa, mà thư viện có thể khai thác
ở mọi nơi với một số thao tác đơn giản. Chương trình học
cũng được thiết kế đa dạng hơn, cụ thể hơn và đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của người học.
Đi cùng với sự phát triển của CMCN 4.0 sẽ kéo theo
sự thay đổi chính sách đầu tư về nền tảng, trang thiết bị,
máy móc và công nghệ để các lĩnh vực có thể vận hành
được trong đó giáo dục nói chung và giáo dục trực tuyến
nói riêng cũng không là ngoại lệ.
Bản chất của mô hình giáo dục trực tuyến được triển
khai dựa trên nên tảng của khoa học công nghệ mà cốt lõi là
CNTT và truyền thông hướng đến nhu cầu tự học của người
học với sự hỗ trợ và tương tác của các sản phẩm phần mềm
dạy học. Chính vì vậy, khi cuộc CMCN 4.0 đã kích hoạt sẽ
tạo đà cho việc ứng dụng các sản phẩm công nghệ hướng tự
động hóa và bản thân giáo dục trực tuyến là một mô hình
tiềm năng được triển khai trên nền tảng đó.
Trong đào tạo trực tuyến, việc thẩm định chương
trình đào tạo là cần thiết để xây dựng nội dung và kịch
bản cho các khóa học và các bài giảng; tạo ra môi trường
học tập tương tác đa chiều với nền tảng của công nghệ
mà cốt lõi là ICT, người học được khai phá, lĩnh hội
những kiến thức, được thực hành, thí nghiệm thông qua
các mô hình mô phỏng, được đánh giá năng lực học tập,...
Tuy nhiên, hình thức này khi triển khai cũng có những
khó khăn nhất định, đó chính là khối lượng đầu tư và
công nghệ khá tốn kém về cả công sức và giá thành, bởi
công nghệ lạc hậu và thay đổi rất nhanh.
2.3.2. Xã hội hóa trong giáo dục trực tuyến
Trên thực tế, giáo dục trực tuyến đã không còn mới
mẻ ở các nước trên thế giới, song ở Việt Nam mới chỉ bắt
đầu phát triển một số năm gần đây, đồng thời với việc kết
nối internet băng thông rộng được triển khai mạnh mẽ tới
tất cả các trường học. Sự hữu ích, tiện lợi của giáo dục
trực tuyến đã được khẳng định nhưng để đạt được thành
công, các cấp quản lí cần có những quyết sách hợp lí.
Việt Nam đã gia nhập Mạng E-learning châu Á
(Asia E-learning Network - AEN) với sự tham gia của
Bộ GD-ĐT, Bộ Khoa học - Công nghệ, Bộ Bưu chính -
Viễn thông,... Điều này cho thấy, tình hình nghiên cứu
và ứng dụng loại hình đào tạo này đang được quan tâm
ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới,
giáo dục trực tuyến (e-learning) ở Việt Nam mới chỉ ở
giai đoạn đầu và còn rất nhiều việc phải làm để có thể
tiến kịp các nước. Sự ra đời của CMCN 4.0 sẽ tạo đà
cho phát triển mô hình dạy học trực tuyến mạnh mẽ hơn
cho các trường học.
Chủ trương của Bộ GD-ĐT trong giai đoạn tới là tích
cực triển khai các hoạt động xây dựng một xã hội học
tập, mà ở đó mọi công dân (từ học sinh phổ thông, người
học, các tầng lớp người lao động,...) đều có cơ hội được
học tập, hướng tới việc: học bất kì thứ gì (any things), bất
kì lúc nào (any time), bất kì nơi đâu (any where) và học
tập suốt đời (life long learning). Để thực hiện được các
mục tiêu nêu trên, giáo dục trực tuyến nên có một vai trò
chủ đạo trong việc tạo ra một môi trường học tập ảo.
Như vậy, CMCN 4.0 đã góp phần tác động đến hoạt
động đào tạo đối với các cơ sở giáo dục đã làm thay đổi
trong lựa chọn mô hình, phương thức đào tạo theo
hướng “trường học ảo”, “lớp học kết nối” kéo theo sự
thay đổi từ thiết lập nền tảng mô hình, xây dựng chương
trình, cập nhật nội dung các khóa học cho đến đào tạo
năng lực, kĩ năng cho người học để đáp ứng yêu cầu về
nguồn lực với thị trường công nghiệp trong thời kì số
hóa mà đặc trưng của mô hình giáo dục trực tuyến có
thể cung ứng hiệu quả hơn hẳn mô hình giáo dục truyền
thống. Khả năng tương tác của mô hình đào tạo trực
tuyến được đẩy mạnh, với sự kết nối giữa người dạy và
người học với phương thức cá nhân hóa người học trong
phát triển năng lực, kĩ năng, tính sáng tạo, khả năng vận
dụng tạo ra nguồn lực lao động có tay nghề đáp ứng môi
trường công việc hướng tự động hóa trong kỉ nguyên
công nghệ số hiện nay.
3. Kết luận
Cuộc CMCN 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên
nền tảng tích hợp cao độ của hệ thống kết nối số hóa với
sự đột phá của Internet vạn vật và Trí tuệ nhân tạo mà
đặc điểm là tận dụng một cách triệt để sức mạnh lan tỏa
của số hóa với đặc trưng là CNTT. Thực tế này mở ra
những cơ hội và cả thách thức rất lớn cho các cơ sở đào
tạo nhằm đáp ứng nguồn nhân lực lao động có trình độ,
có năng lực nghề nghiệp và khả năng tiếp cận, làm việc
và vận hành các hệ thống thông minh trong thời kì công
nghệ số.
Sự bùng nổ của CMCN 4.0 sẽ tác động tích cực làm
thay đổi mô hình và phương thức đào tạo tiên tiến, trong
đó giáo dục trực tuyến là một lựa chọn phù hợp với thời
đại và cần được triển khai rộng khắp đối với các cơ sở
đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
(Xem tiếp trang 19)
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19
19
GD-ĐT, theo chúng tôi các nhóm giải pháp mà chúng tôi
đề xuất trong bài viết là cơ sở để các trường đại học sư
phạm nghiên cứu và áp dụng một cách cụ thể, linh hoạt
góp phần nâng cao chất lượng ĐTGV THPT trong bối
cảnh hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Tennessee - Dallas (2012). Introduction: From
Quality Assurance to Quality Culture. In Quality
Assurance and Teacher Education, ed J.
[2] Quốc hội (2009). Luật Giáo dục. NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật.
[3] Phạm Kim Anh (2016). Thực trạng năng lực đội ngũ
giáo viên phổ thông trung học trước yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông. Kỉ yếu hội thảo quốc tế, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, 12/2016, tr 58-65.
[4] Bộ GD-ĐT (2015). Những vấn đề chung về phát
triển chương trình đào tạo giáo viên (Tài liệu tập
huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên
phổ thông về phát triển chương trình đào tạo).
[5] Đặng Thành Hưng (2012). Năng lực và giáo dục
theo tiếp cận năng lực. Tạp chí Quản lí giáo dục, số
43, 12/2012, tr 18-26.
[6] Chính phủ (2005). Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP
ngày 2/11/2005 về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
[7] Nguyễn Cảnh Toàn (1998). Tự giáo dục, tự học, tự
nghiên cứu. NXB Giáo dục.
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC...
(Tiếp theo trang 21)
Suốt đời phải gắn liền lí luận với công tác thực tế.
Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”
[1; tr 215]. Lênin, trong tác phẩm “Thà ít mà tốt” cũng
đã đề cao vai trò của việc học tập khi nhấn mạnh rằng:
“Không có cách nào khác ngoài việc học tập,... học tập,...
học tập mãi và phải làm sao cho việc học tập thực sự ăn
sâu vào tiềm thức của mỗi người, hoàn toàn và thực tế
trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống” [2].
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997). Hồ Chí Minh toàn
tập (tập 8). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[2] Đỗ Tư (2001). Thà ít mà tốt - Di chúc chính trị cuối
cùng của Lênin. Tạp chí Lí luận Chính trị, số 4, tr 3.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[4] Nguyễn Thanh (2005). Phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[5] Vũ Minh Mão - Hoàng Xuân Hoà (2004) . Dân số và
chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong quá trình
phát triển kinh tế. Tạp chí Cộng sản, số 709, tr 65.
[6] Trần Khánh Đức (2004). Quản lí và kiểm định chất lượng
đào tạo nhân lực theo ISO&TQM. NXB Giáo dục.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0...
(Tiếp theo trang 46)
Mỗi khi mô hình giáo dục tiên tiến được vận dụng sẽ
kéo theo những thay đổi về thiết kế hệ thống mang tính tổng
thể với chương trình linh động hơn, kiến thức cập nhật hơn,
hướng tới phát triển các kĩ năng, năng lực phát triển tư duy
hệ thống và liên ngành theo hướng số hóa tạo ra nguồn nhân
lực lao động chất lượng đáp ứng xu thế của thị trường công
nghiệp 4.0 với những công nghệ vuợt trội của trí tuệ nhân
tạo, của người máy và internet vạn vật.
Tài liệu tham khảo
[1] Hermann, Pentek - Otto (2016). Design Principles
for Industrie 4.0. Scenarios IEEE: 10.1109/
HICSS.2016.488.
[2] Weller - Anderson (2013). Digital resilience in
higher education. European Journal of Open,
Distance and E-Learning, Vol 16 (1), pp. 53-66.
[3] Weinberger - Fischer - Mandl (2002). Fostering
individual transfer and knowledge convergence in
text-based computer-mediated communication.
Proceedings of CSCL 2002. Mahwah, NJ:
Lawrence Erlbaum.
[4] Lu J - Lu C - Yu CS - Yao JE (2014). Fostering
individual transfer and knowledge convergence in
text-based computer-mediated communication. In
G. Stahl (Ed.), Pedagogical Roles and
Competencies of University Teachers Practicing in
the E-Learning Environment 2014.
[5] A. Abdelrazeq - D. Janssen - C. Tummel - A.
Richert - S. Jeschke (2016). Teacher 4.0:
Requirements of the teacher of the future in context
of the fourth industrial revolution. ICERI 2016.
[6] Jayendrakumar N. Amin1 (2016). Redefining the
Role of Teachers in the Digital Era. The
International Journal of Indian Psychology, Vol 3,
Issues 3, No 6, pp. 40-45.
[7] Trần Khánh Đức (2014). Giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực trong thế kỉ XXI. NXB Giáo dục Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_mang_cong_nghiep_4_0_xu_the_phat_trien_cua_giao_duc_tru.pdf