Sau 4 năm trồng thí điểm, cách thức
trồng và quản lý rừng đã được chứng
minh trên thực tế, 3ha rừng đã được
tái tạo. Các yếu tố quan trọng tạo nên
thành công của phương thức này là
dựa trên nhu cầu có thực của địa
phương, sự tham gia tự nguyện của
cộng đồng, sự ủng hộ tích cực của
chính quyền địa phương và sự tin
tưởng, chia sẻ tri thức của các bên liên
quan. Việc trao quyền quyết định cho
cộng đồng trong hoạt động tái tạo rừng
đã giúp cộng đồng chủ động sắp xếp
kế hoạch và chi tiêu nguồn vốn hợp lý,
gắn kết cộng đồng với rừng một cách
tự nhiên và lan truyền tình yêu thiên
nhiên tới các thành viên khác trong
cộng đồng. Tất cả những điều đó đã
giúp nâng cao nhận thức của cộng
đồng trong bảo vệ và khai thác hệ
sinh thái rừng ngập mặn nhằm duy trì
các hoạt động sinh kế của cộng đồng
theo hướng bền vững.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 692 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cách thức tái tạo rừng ngập mặn và nâng cao nhận thức cộng đồng trong hoạt động phục hồi hệ sinh thái ven biển (thí điểm tại Lạch Lá Bé, khu vực 4, phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
71
CHUYÊN MỤC
MÔI TRƯỜNG VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
CÁCH THỨC TÁI TẠO RỪNG NGẬP MẶN
VÀ NÂNG CAO NHẬN THỨC CỘNG ĐỒNG TRONG
HOẠT ĐỘNG PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI VEN BIỂN
(thí điểm tại lạch Lá Bé, khu vực 4, phường Nhơn Bình,
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định)
NGUYỄN THỊ THỊNH
Tại các vùng ven biển, việc tái tạo rừng ngập mặn và nâng cao nhận thức của
cộng đồng trong việc bảo vệ cũng như khai thác rừng ngập mặn là rất cần thiết
để giảm nhẹ rủi ro thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Ủy ban Nhân dân
tỉnh Bình Định đã thực hiện nhiều chương trình tái tạo rừng ngập mặn từ năm
2002. Tuy nhiên, tất cả các chương trình đều thất bại, cây rừng không thể sống
sót. Bài viết tìm hiểu nguyên nhân thất bại của các chương trình trồng rừng
trước và đánh giá cách thức thích hợp để tái tạo rừng ngập mặn, theo hướng
nâng cao nhận thức và sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ và khai
thác hệ sinh thái rừng ngập mặn, nhằm duy trì các hoạt động sinh kế của cộng
đồng theo hướng bền vững.
1. GIỚI THIỆU
Tháng 11/2009, bão Mirinae từ quần
đảo Philippine đổ bộ vào các tỉnh dọc
bờ biển miền Trung và Tây Nguyên
Việt Nam (Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Đăk Lăk,
Khánh Hòa, Bình Thuận) đã làm chết
116 người, mất tích 7 người với thiệt
hại về nhà ở, sản xuất nông - thủy sản
và hạ tầng giao thông - thủy lợi ước
tính 5.000 tỷ đồng (tương đương 278
triệu USD) (Văn phòng Ban chỉ đạo
phòng chống lụt bão Trung ương,
2009).
Nguyễn Thị Thịnh. Thạc sĩ. Trung tâm
Nghiên cứu Môi trường, Viện Khoa học xã
hội vùng Nam Bộ.
Bài viết là một phần kết quả nghiên cứu
thuộc Chương trình Hỗ trợ phục hồi sau
thiên tai dựa vào cộng đồng, năm 2010, tại
phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn
tỉnh Bình Định.
NGUYỄN THỊ THỊNH – CÁCH THỨC TÁI TẠO RỪNG NGẬP MẶN
72
Trong quá trình xây dựng dự án Hỗ
trợ phục hồi sau thiên tai dựa vào
cộng đồng vào tháng 2/2010, 80 thành
viên đại diện cho 40 nhóm tiết kiệm
cộng đồng(1) tại thành phố Quy Nhơn
đã lập bản đồ hiện trạng, mức độ thiệt
hại và nhu cầu trợ giúp để phục hồi
sau thiên tai. Khi cùng nhau đi thực
địa, người dân nhận ra hầu hết các ao
nuôi trồng thủy sản không có cây chắn
sóng ven bờ đều bị sạt lở, trong khi
các ao đầm lâu năm có nhiều cây
đưng/đước sinh sống, thì bờ bao hư
hại không đáng kể. Các khu dân cư
được những tán rừng ngập mặn còn
sót lại che chở cũng ít bị hư hại hơn
những khu dân cư ven biển không có
gì che chắn. Sau khi hoàn thành công
tác phục hồi sau thiên tai, Ủy ban
Nhân dân thành phố Quy Nhơn và
lãnh đạo cộng đồng đã thảo luận với
người dân về các biện pháp phòng
ngừa/giảm nhẹ thiên tai trong tương
lai. Họ đã xác định nhu cầu ưu tiên là
trồng cây ven bờ các ao nuôi trồng
thủy sản và tái tạo rừng ngập mặn để
chắn gió, chắn sóng khi mưa bão.
Phường Nhơn Bình được chọn làm
nghiên cứu thí điểm vì những lý do sau:
trong cơn bão Mirinae, Nhơn Bình là
một trong những địa phương chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất: Toàn phường
với diện tích tự nhiên là 1.468ha, trong
đó có 85% đất sản xuất nông nghiệp
và 4.303 hộ gia đình (17.864 nhân
khẩu) đều bị nhấn chìm trong lũ. Nhờ
tổ chức tốt lực lượng ứng cứu tại chỗ,
thiệt hại về người đã không xảy ra,
nhưng thiệt hại về vật chất là rất lớn,
ước tính gần 10 triệu USD ở Khu
Công nghiệp Nhơn Bình và 608.029
USD về nông nghiệp và thủy sản
(Michael DiGregorio, 2013, tr. 19).
Nhơn Bình là một phường nội thành
nằm ở phía Bắc thành phố Quy Nhơn,
có 9 cụm dân cư. Phường giáp xã
Phước Thuận của huyện Tuy Phước
về phía Bắc, phường Nhơn Phú về
phía Tây và Tây Nam. Phía Đông giáp
đầm Thị Nại, và phía Nam, Đông Nam
giáp phường Đống Đa.
Nằm trong vùng thấp trũng của cửa
sông Hà Thanh, gần đầm Thị Nại, địa
bàn phường Nhơn Bình là nơi thường
bị ngập lụt ngay cả khi không có mưa.
Vì thế người dân địa phương thường
nói “Nhơn Bình là nơi không mưa mà
lụt, không nắng mà hạn”.
Theo những người dân sống lâu năm
tại địa phương, trước năm 1975,
phường Nhơn Bình và Đống Đa có
khoảng 200ha rừng ngập mặn chạy
dọc theo mé bờ đầm Thị Nại (trong đó
70ha thuộc khu vực 4, phường Nhơn
Bình và 115ha thuộc khu vực 9,
phường Đống Đa). Lúc đó, rừng cây
xanh tốt đến nỗi “ban đêm người ta
không dám đi ngang qua nơi này vì sợ
ma”. Người dân ven đầm sinh sống
chủ yếu bằng nghề đánh bắt thủy sản,
còn dân trong ruộng thì trồng lúa và
hoa màu, không ai phải đi làm mướn.
Trong những năm 1976 - 1980, do cơ
chế hợp tác xã của thời bao cấp khiến
đời sống khó khăn, người dân đổ xô
vào rừng chặt cây lấy củi đốt than để
bán. Đầu những năm 1980, rừng ngập
mặn bị xóa sổ, đất rừng bị bỏ hoang
hóa.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (203) 2015
73
Đến thời kỳ Đổi mới, Nhà nước cho
người dân vay vốn để cải tạo vùng đất
hoang hóa thành nơi nuôi trồng thủy
sản và làm muối. Tuy nhiên, người
dân chỉ trúng mùa trong những năm
đầu (ở Đống Đa là những năm 1985 -
1986, ở Nhơn Bình vào năm 1999 -
2000), sau đó thường thất mùa do
nguồn nước ô nhiễm, dịch bệnh hoặc
thiên tai.
Trước tình trạng này, từ năm 2002 -
2009, Ủy ban Nhân dân và Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh
Bình Định đã thực hiện các chương
trình tái tạo rừng ngập mặn nhằm
phục hồi hệ sinh thái ven biển, nhằm
chắn sóng, gió và tạo môi trường cho
sự phát triển của thủy hải sản. Mặc dù
tỉnh đã đầu tư rất nhiều ngân sách
cũng như áp dụng các kỹ thuật trồng
và chăm sóc tốt nhất, nhưng hơn 50%
cây trồng vẫn bị chết do không thích
hợp với thổ nhưỡng và khí hậu địa
phương (do giống được mua từ Cần
Giờ đưa ra), số còn lại cũng không thể
sống nổi do sóng gió cửa biển và
thiếu sự bảo vệ phù hợp.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu hành
động có sự tham gia (Participatory
Action Research - PAR)
PAR là một cách tiếp cận tham gia.
Nó vừa là một lý thuyết xã hội vừa là
một phương pháp luận thực nghiệm
trong phát triển cộng đồng. Định nghĩa
về PAR phụ thuộc rất nhiều vào các
cách tiếp cận và vào người sử dụng.
Tuy nhiên, Deshler (1995) đã đưa ra
một định nghĩa mang tính chung nhất
và được nhiều người thừa nhận: PAR
là một quá trình nghiên cứu có hệ
thống, trong đó những người đang
phải trải qua một hoàn cảnh khó khăn
ở cộng đồng hay ở nơi làm việc, trên
tinh thần hợp tác với những người
nghiên cứu như những chủ thể nghiên
cứu, sẽ cùng tham gia vào việc thu
thập, phân tích thông tin, ra quyết định
và các hoạt động quản lý cũng như
việc cải thiện hoặc giải quyết vấn đề
của chính họ. Trong thuật ngữ “Nghiên
cứu hành động tham gia”, “tham gia”
thể hiện quá trình dân chủ hóa trong
nghiên cứu; “hành động” cho thấy
nghiên cứu nhằm đóng góp trực tiếp
cho những nỗ lực biến đổi thực trạng
của người tham gia; “nghiên cứu”
Hình 1. Tiến trình của PAR.
Nguồn: Coghlan and Brannick, 2005.
NGUYỄN THỊ THỊNH – CÁCH THỨC TÁI TẠO RỪNG NGẬP MẶN
74
phản ánh sự cố gắng có hệ thống để
sản sinh ra kiến thức cũng như giải
pháp cho việc cải thiện hay thay đổi
hoàn cảnh của người tham gia. Theo
Fals-Borda, PAR là một sự sáng tạo
thực tiễn và tri thức tự sinh của nhân
dân các nước đang phát triển. Điều
này có nghĩa là nhờ sự tham gia của
người dân trong quá trình PAR, kiến
thức, kỹ năng và sức mạnh được sản
sinh và phát triển” (Nguyễn Duy
Thắng, 2002, tr. 76).
2.2. Áp dụng phương pháp nghiên
cứu hành động có sự tham gia trong
thực tế
Bước 1: Nhóm nghiên cứu tìm hiểu về
quá trình phát triển và suy tàn của
rừng và hỏi ý kiến của người dân về
khả năng và cách thức thích hợp để
tái tạo lại rừng. Nhóm sử dụng
phương pháp bản đồ để thu thập
thông tin (trong quá trình phỏng vấn,
đề nghị các tham dự viên mô tả bằng
cách vẽ sơ đồ, tô màu các vùng...).
Dụng cụ gồm bản đồ nền địa chính
hoặc bản đồ quy hoạch sử dụng đất
(tỷ lệ 1/2000 hoặc 1/5000) và giấy A0,
A4 (hoặc các tờ lịch cũ khổ lớn), bút
màu, bút chì, bút xóa, giấy decal màu,
kéo, gôm Thành phần tham gia
khảo sát gồm nhóm nghiên cứu, đại
diện Ban điều hành khu vực và những
người có uy tín, sống lâu năm trong
cộng đồng (nhóm 8 - 10 người) để
phỏng vấn và thu thập thông tin.
Ngoài ra, nhóm cũng xin thông tin ở
các bộ phận chức năng (Ủy ban Nhân
dân phường/ thành phố), Sở Tài
nguyên và Môi trường, Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung
tâm Khuyến nông - Khuyến lâm, Trung
tâm Nghiên cứu giống cây trồng khu
vực Duyên hải Nam Trung Bộ.
Bước 2: Lựa chọn phương pháp/quy
trình thích hợp để tái tạo rừng ngập
mặn bằng cách thảo luận giữa nhóm
nghiên cứu với những người sinh sống
lâu năm tại địa phương nhằm tìm hiểu
các vấn đề sau: (1) Chủng loại cây
chủ yếu trong thời kỳ sung túc nhất
của rừng ngập mặn (2) Lý do thất bại
của chiến dịch trồng rừng trước đây
(3) Nguyện vọng của người dân đối
với việc tái tạo rừng, lý do (4) Cách tái
tạo rừng mà người dân mong muốn
lựa chọn (5) Loại cây nào bà con
mong muốn chọn lựa khi tái tạo lại
rừng, lý do (6) Nên trồng cây ươm hay
trồng bằng trái (7) Những khó khăn
nào có thể gặp phải trong quá trình tái
tạo rừng.
Bước 3: Trồng thí điểm rừng ngập mặn
Với mục tiêu không chỉ trồng lại cây
rừng, mà điều quan trọng hơn là tạo
sự gắn bó của người dân bản địa với
môi trường tự nhiên, nên Chương trình
khuyến khích sự tham gia tự nguyện
của mọi người dân trong cộng đồng.
Những người tình nguyện sẽ quy tụ
theo nhóm để nhận trồng và chăm sóc
khoảnh rừng của nhóm mình.
Sau cuộc họp chia sẻ năm 2010, có
17 người tình nguyện tham gia hoạt
động tái tạo rừng ngập mặn.
Bước 4: Đánh giá tỉ lệ cây rừng sống
sót, cách thức trồng rừng, loại cây
rừng lựa chọn trồng qua phỏng vấn
sâu nhóm tình nguyện viên và khảo
sát thực địa.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (203) 2015
75
3. KẾT QUẢ
3.1. Nguyên nhân thất bại của các
chương trình trồng rừng trước
Qua thảo luận với các nhóm dân và
phỏng vấn sâu cán bộ tham gia
chương trình trồng rừng trước đây,
nhóm nghiên cứu tìm ra một số
nguyên nhân khiến việc trồng rừng
không thành công như sau:
Cách trồng: Các chương trình trồng
rừng trước đây đều áp dụng phương
pháp trồng tập trung trên diện tích lớn,
không đóng cọc tre để néo giữ cây
con. Diện tích trồng rừng lớn, trong
khi nguồn kinh phí có hạn nên chương
trình không thể thuê nhân công tới coi
sóc thường xuyên. Trong khi đó, đây
là vùng cửa biển nên sóng lớn, nhiều
rong rêu và hàu nên cây dễ bị chết
nếu không chăm sóc kịp thời.
Theo người dân tại địa phương thì
việc trồng rừng không thành là bởi
một số lý do: giống cây trồng được
mua và chuyên chở từ các tỉnh phía
Nam nên không hợp thổ nhưỡng và
khí hậu tại địa phương; cây không
được néo giữ và không có người giám
sát và chăm sóc thường xuyên nên bị
sóng đánh, rong rêu và hàu bám,
khiến cây chết; dân nơi khác đến khai
thác và đánh bắt thủy sản, đặc biệt
trong mùa cá từ tháng 8 đến tháng 10,
mỗi lần khoảng 50 - 60 xuồng, ủi chết
cây; hơn nữa, cây được trồng là cây
con nên khi trồng cây thường bị đứt rễ
và khó hồi phục.
3.2. Cách thức thích hợp để tái tạo
(trồng, chăm sóc, bảo vệ) rừng ngập
mặn
3.2.1. Kỹ thuật trồng rừng: Qua cuộc
thảo luận, người dân gợi ý tại những
vùng trồng công cộng, không nên
trồng diện tích rộng và xa bờ mà nên
trồng theo phương pháp lan dần:
trồng 1 - 2 hàng tính từ bờ ra, sau 2
năm cây lớn, đất bắt đầu bồi lấp thì
tiếp tục trồng hàng thứ 3 - 4 lấn dần
ra đầm lầy và tiếp tục như vậy những
năm tiếp theo. Với cách này, cây
trồng ven bờ khi còn nhỏ tránh được
sóng lớn và gió bão cuốn trôi, diện
tích trồng không quá lớn, dễ bảo vệ,
đồng thời vẫn còn phần đất ngập
nước để người dân khai thác thủy
sản (đào phễnh, bắt cua, cá). Sau khi
trồng phải đóng cọc sát mỗi cây để
giúp cố định cây, tránh sóng đánh,
nhóm tình nguyện viên luân phiên coi
sóc rừng. Tại những đầm nuôi trồng
thủy sản của hộ dân, khuyến khích
các hộ tự trồng rừng ven các bờ bao
của họ.
3.2.2. Quy trình trồng rừng
Khảo sát địa điểm trồng: Mỗi nhóm
tình nguyện sẽ cử người đại diện
cùng cán bộ chuyên môn và đại diện
chính quyền địa phương đi khảo sát
địa điểm dự định trồng rừng và chia ô
cho các nhóm tình nguyện. Đợt trồng
đầu tiên được thí điểm tại lạch Lá Bé,
khu vực 4, phường Nhơn Bình.
Công tác chuẩn bị trước khi trồng
Xử lý thực bì: cào dọn rong, chặt gốc
cây chết còn sót lại, do người trong
nhóm tình nguyện thực hiện.
Chuẩn bị giống: nguồn giống sẽ được
thu hái từ những cây rừng còn sót lại
tại địa phương.
NGUYỄN THỊ THỊNH – CÁCH THỨC TÁI TẠO RỪNG NGẬP MẶN
76
Trồng rừng thí điểm
Theo Báo cáo tiến độ dự án Tái tạo
rừng ngập mặn nhằm góp phần giảm
nhẹ thiên tai tại phường Nhơn Bình và
Đống Đa và kết quả khảo sát tháng
6/2014, hoạt động trồng rừng thí điểm
như sau:
Trồng lần đầu: Trong buổi đầu tiên,
cán bộ kỹ thuật sẽ cùng đến thực địa
để hướng dẫn những người tình
nguyện cách trồng và mật độ cây
trồng. Sau đó, nhóm tình nguyện mua
cọc tre, đóng và cột với từng cây để
giữ cây khỏi bị sóng đánh.
Trồng dặm: Sau khi trồng 2 tháng (khi
cây lên được 2 - 4 lá), nhóm tình nguyện
thay phiên nhau đi thăm lại rừng trồng
để xem xét tỷ lệ cây sống. Nếu cây
chết dưới 15% và phân bố tương đối
đồng đều thì không cần trồng dặm.
Những chỗ có cây chết tập trung và
nhiều hơn 15% thì tùy số lượng cây
còn lại và mật độ phân bố để trồng
dặm/trồng mới lại để đảm bảo sự phát
triển đồng đều của vạt rừng.
Chăm sóc: Trong 1 - 3 tháng đầu, nhóm
tình nguyện luân phiên đi thăm thực
địa 1 tuần/lần để cào dọn rong và hàu
quấn quanh lá mầm và thân cây, sửa
lại những gốc cây trồng bị xiêu vẹo để
giảm tỷ lệ cây chết và giúp cây sinh
trưởng, phát triển tốt.
3.2.3. Kết quả trồng rừng thí điểm
Sau 4 năm trồng và chăm sóc, từ
10/2010 - 6/2014, diện tích rừng tái
tạo còn sống sót là khoảng 3ha, đạt tỉ
lệ sống sót là 75% với tổng kinh phí
49 triệu đồng. Các bờ bao nuôi trồng
thủy sản cũng được phủ cây rừng từ
gần 40% năm 2010 lên tới khoảng
75% năm 2014.
3.3. Sự tham gia của cộng đồng trong
hoạt động tái tạo rừng ngập mặn
Các chương trình trồng rừng trước
đây được thiết kế bởi các nhà chuyên
môn chỉ quan tâm đến các yếu tố kỹ
thuật (trồng cây gì thích hợp, mật độ
bao nhiêu cây/ha, kỹ thuật trồng dặm,
tỉa thưa...), mà không gắn trách nhiệm,
quyền và lợi ích của cộng đồng trong
khu vực dự án với sự chăm sóc, bảo
vệ và khai thác rừng nên giải pháp
đưa ra không phù hợp với điều kiện
thực tế (chỉ khoán trồng cây nhưng
sau đó không có ai chăm sóc, bảo vệ,
trồng đại trà trên diện rộng khiến cho
người dân mất nguồn sinh kế). Theo
phương pháp tiếp cận của PAR, sự
tham gia của người dân cần đạt mức
6 trong thang điểm về mức độ tham
gia. Nghĩa là người dân địa phương
sẽ làm chủ tiến trình tái tạo rừng và
đóng vai trò quyết định mọi hành động,
nhóm nghiên cứu chỉ đóng vai trò hỗ
trợ và tôn trọng mọi quyết định của
người dân. Ba yếu tố cơ bản và quan
trọng luôn được nhóm nghiên cứu lưu
ý đó là tạo cho người dân có tính sở
hữu, quyền quyết định và tự nguyện
tham gia. Khi người dân đạt được ba
yếu tố này thì các hoạt động sẽ bền
vững. Do vậy, ngay từ điểm khởi đầu,
nhóm nghiên cứu đã tạo không gian
để những người dân sống lâu năm tại
địa phương cùng trao đổi và hình
dung lại lịch sử phát triển của địa
phương nói chung và rừng ngập mặn
nói riêng. Nhóm cũng thảo luận với
những người dân địa phương về
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (203) 2015
77
nguyện vọng của họ đối với việc tái
tạo rừng, cách tái tạo rừng mà người
dân mong muốn lựa chọn, loại cây
nào họ mong muốn trồng khi tái tạo
rừng, những khó khăn có thể gặp phải
trong quá trình tái tạo rừng Mặc dù
trong cuộc thảo luận, các hộ dân đều
khẳng định rằng cây bần dễ sống nhất,
nhưng họ vẫn quyết định trồng cây
đưng hoặc mắm do cây bần chỉ có
một rễ, cây mắm và đưng có gốc bám
trụ và nhiều rễ nhánh chắc khỏe nên
có khả năng bảo vệ bờ tốt hơn.
Để tạo sự gắn bó của người dân bản
địa với môi trường tự nhiên, khuyến
khích sự tham gia tự nguyện của mọi
người dân, Chương trình đã tổ chức
nhiều cuộc thảo luận giữa các hộ dân.
Cuối cùng có 17 người đã đăng ký tình
nguyện tham gia tái tạo rừng ngập
mặn. Ủy ban Nhân dân thành phố Quy
Nhơn đã giao thẳng nguồn kinh phí
cho nhóm tình nguyện tự quản lý dưới
sự giám sát của Ủy ban Nhân dân
phường Nhơn Bình. Nhóm tình nguyện
viên được chủ động trong việc hạch
toán chi tiêu, trồng và chăm sóc rừng.
Với cách làm này, Ủy ban Nhân dân
thành phố Quy Nhơn và nhóm nghiên
cứu đã dành sự chủ động cho nhóm
tình nguyện viên, coi việc trồng rừng
là việc của họ. Trong một chuyến đi
thăm rừng cùng nhóm tình nguyện,
nhóm nghiên cứu nghe họ kể: “Đêm
qua trời mưa gió lớn, nằm ngủ mà cứ
lo không biết rừng của mình có bị sao
không” và “Sắp đến mùa cá mú rồi,
dân vô khai thác nhiều lắm nên phải đi
coi rừng và nhắc nhở họ không cào
vào rừng của mình”.
3.4. Nâng cao nhận thức của cộng
đồng trong bảo vệ và khai thác hệ
sinh thái rừng ngập mặn nhằm duy trì
các hoạt động sinh kế của cộng đồng
theo hướng bền vững
Mỗi lần nhóm tình nguyện viên đi
trồng dặm và thăm rừng, các hộ dân
trên đường đi rất ngạc nhiên và hỏi
thăm đi đâu, làm gì. Nhóm cũng cởi
mở chia sẻ về công việc của họ. Lúc
đầu, các hộ dân đều nói “Các anh chị
cứ lo chuyện bao đồng không, chúng
tôi trồng bao nhiêu lần rồi cây có sống
được đâu”. Nhóm tình nguyện chỉ
cười và nói “Biết đâu lần này có thể
ông trời thương chúng em mà giúp
cây sống”. Sau một thời gian, các hộ
dân cũng quen dần với sự có mặt của
nhóm tình nguyện viên. Qua phỏng
vấn sâu một thành viên trong nhóm
tình nguyện, chị chia sẻ: “Người dân
ven đường thấy tụi chị ở đâu đâu mà
cũng vô trồng rừng chỗ họ nên cũng
thương mình, khi có người vô rừng
bắt tôm, cá mà động vô rừng là họ
điện mách mình”. Mỗi lần được nhắc,
nhóm tình nguyện lại nhanh chân đến
nhắc nhở người vào bắt cá để họ
không làm chết cây rừng mới trồng.
Nhóm cũng chú ý mùa khai thác thủy
sản thì đi thăm rừng thường xuyên
hơn. Sau một năm, thay vì gọi điện
thoại báo cho nhóm, người dân sống
ven khu vực trồng rừng đã nhắc nhở
người vô cào cá tránh vùng rừng
trồng để cây khỏi chết. Sau gần 2 năm,
7 hộ dân ven vùng trồng rừng cũng tự
nguyện tham gia chăm sóc và quản lý
rừng ngập mặn với nhóm tình nguyện.
Số lượng tình nguyện viên tăng từ 17
NGUYỄN THỊ THỊNH – CÁCH THỨC TÁI TẠO RỪNG NGẬP MẶN
78
lên tới 43 thành viên. Như vậy, các hộ
dân đã có sự chuyển biến dần trong
nhận thức và hành động. Chỉ trong
gần 2 năm, từ chỗ thờ ơ và cho việc
trồng rừng là chuyện “bao đồng”, họ
đã tự nguyện tham gia cùng trồng và
chăm sóc rừng. So với các phương
thức truyền thông trước đây tại địa
phương như phát tờ thông tin tới hộ
dân, tổ chức tập huấn, nhắc nhở các
hộ dân trong các cuộc họp khu dân cư,
dựng bảng quảng cáo thì đây là
cách truyền thông và nâng cao nhận
thức cộng đồng hiệu quả hơn cả.
KẾT LUẬN
Sau 4 năm trồng thí điểm, cách thức
trồng và quản lý rừng đã được chứng
minh trên thực tế, 3ha rừng đã được
tái tạo. Các yếu tố quan trọng tạo nên
thành công của phương thức này là
dựa trên nhu cầu có thực của địa
phương, sự tham gia tự nguyện của
cộng đồng, sự ủng hộ tích cực của
chính quyền địa phương và sự tin
tưởng, chia sẻ tri thức của các bên liên
quan. Việc trao quyền quyết định cho
cộng đồng trong hoạt động tái tạo rừng
đã giúp cộng đồng chủ động sắp xếp
kế hoạch và chi tiêu nguồn vốn hợp lý,
gắn kết cộng đồng với rừng một cách
tự nhiên và lan truyền tình yêu thiên
nhiên tới các thành viên khác trong
cộng đồng. Tất cả những điều đó đã
giúp nâng cao nhận thức của cộng
đồng trong bảo vệ và khai thác hệ
sinh thái rừng ngập mặn nhằm duy trì
các hoạt động sinh kế của cộng đồng
theo hướng bền vững.
CHÚ THÍCH
(1) Các nhóm tiết kiệm cộng đồng được xây dựng từ năm 1998 và do cộng đồng tự quản lý
với sự tham gia tự nguyện của các hộ dân, không phân biệt giàu nghèo, giới tính hay độ tuổi.
Chương trình “Hỗ trợ phục hồi sau thiên tai dựa vào cộng đồng” được thực hiện bởi các
nhóm tiết kiệm cộng đồng này với sự hỗ trợ của nhóm nghiên cứu.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Báo cáo tiến độ dự án Tái tạo rừng ngập mặn nhằm góp phần giảm nhẹ thiên tai tại
phường Nhơn Bình và Đống Đa, thành phố Quy Nhơn năm 2014. Ban Quản lý Quỹ Phát
triển cộng đồng thành phố Quy Nhơn.
2. Coghlan, David and Brannick Teresa. 2005. Doing Action Research in Your Own
Organization. Second Edition. Sage publications.
3. DiGregori, Michael o. 2013. Bài học từ cơn bão Mirinae: Biến đổi khí hậu và đô thị hóa tại
thành phố Quy Nhơn, Việt Nam. Viện Chuyển đổi Môi trường và Xã hội Việt Nam.
4. Nguyễn Duy Thắng. 2002. Một số khía cạnh lý thuyết của cách tiếp cận Nghiên cứu hành
động tham gia (PAR) trong phát triển cộng đồng. Tạp chí Xã hội học, số 1(77).
5. Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương. 2009. Bão số 11 làm thiệt hại
gần 5.000 tỷ, 116 người chết. Báo Tiền Phong, ngày 8/11/2009.
hoi/bao-so-11-lam-thiet-hai-gan-5000-ty-116- nguoi- chet-176870.tpo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35119_114662_1_pb_0204_2091364.pdf