Sau đây là một số giải pháp kỹ thuật
cụ thể trong sử dụng bảo quản máy:
Tuyệt đối không được ngủ ngật, bỏ đi
nơi khác trong khi sử dụng máy;
Không được cho những người không
có trách nhiệm hay không có nhiệm vụ
vận hành máy;
Không lau chùi dầu mỡ khi máy đang
hoạt động, khi máy có tiếng kêu lạ thì phải
tắt rồi mới kiểm tra;
Sử dụng nhập liệu thích hợp với từng
loại máy để tránh gia tăng năng suất để
bảo đảm an toàn.
Đối với các máy dùng điện cần che
chắn các loại dây dẫn khi sử dụng để bảo
đảm an toàn.
Để hạn chế loại trừ tai nạn nguy
hiểm cần che chắn các bộ phận nguy
hiẻm của máy, các thiết bị che chắn phải
là các lưới sắt dễ nhìn thấy khi máy đang
hoạt động;
Kiểm tra kỹ các thiết bị an toàn máy
khi mua, người điều khiển máy cần sử
dụng các phương tiện bảo hộ cá nhân, trên
các máy có nút tắt khẩn cấp, bảng điện
phải có nội dung tiếng Việt để bảo đảm an
toàn trong sử dụng Tại các địa phương có
thể phát động phong trào chia sẻ kinh
nghiệm, sáng kiến cải thiện điều kiện lao
động an toàn máy giữa các hộ, hợp tác xã,
nông trường, khen thưởng động viên kịp
thời những đơn vị cá nhân thực hiện tốt.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải thiện điều kiện an toàn máy trong sản xuất nông nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
70
CẢI THIỆN ĐIỀU KIỆN AN TOÀN MÁY TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
ThS. Đặng Thìn Hùng
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Tóm tắt: Áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp là chủ chương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, nó mang lại hiệu quả kinh tế cho hầu hết các vùng kinh tế trên cả
nước. Việc áp dụng máy, thiết bị vào sản xuất tạo rất nhiều thuận lợi nhưng cũng tạo ra một
số khó khăn trong việc vận hành và sử dụng nhằm bảo đảm an toàn đối với người nông dân.
Bài viết đã đưa ra một bức tranh trong việc sử dụng máy nông nghiệp, phân tích nguyên
nhân gây mất an toàn và đề xuất số giải pháp nhằm cải thiện điều kiện lao động trong sử
dụng các loại máy trong nông nghiệp, hạn chế tai nạn lao động.
Từ khóa: an toàn lao động, máy nông nghiệp, nông nghiệp
Abstract: Science and technology application in agricultural production is one of right
guidelines of the Party and State because of its economic benefits for almost economic
regions in the country. The application of machinery and equipment in production created
great benefits but caused difficulties in operating and using in order to ensure safety for
farmers. The article stated a review of fact situation of machinery operating in agriculture
works, analyzed causes of hazards and proposed solutions for improving working conditions
in the use of agricultural machinery.
Key words: occupational safety, labor conditions, agricultural machinery.
1. Sự cần thiết trong sử dụng máy
để phát triển nông nghiệp
Phát triển cơ giới hóa nông nghiệp là
vấn đề trọng tâm trong nền kinh tế quốc
dân, ngành nông nghiệp thu hút khoảng
25 triệu lao động chiếm gần 67% lực
lượng lao động xã hội tham gia sản xuất,
đóng góp khoảng 23% GDP trong nền
kinh tế quốc dân. Hiện nay, trong cả nước
có khoảng 18.000 hợp tác xã, 130.000
trang trại các loại. Việc đầu tư vào phát
triển khoa học kỹ thuật, nhằm đưa thiết bị
máy móc thay thế cho lao động thủ công,
giải quyết khâu nặng nhọc, tính thời vụ và
tổn thất nông nghiệp cho bà con nông dân,
để phát triển các hợp tác xã, trang trại theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Trong một số ngành sản xuất như: trồng
trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm thủy
hải sản, hầu hết các khâu (ngay từ các
khâu làm đất, trồng trọt, chăm bón tới lúc
thu hoạch và bảo quản sản phẩm) đều cần
có thiết bị kỹ thuật hiện đại hỗ trợ nhằm
cải thiện điều kiện lao động và tăng năng
xuất sản phẩm. Bên cạnh những ích lợi từ
việc áp dụng khoa học kỹ thuật cũng có
những khó khăn đó là những tai nạn đáng
tiếc trong việc sử dụng các loại máy móc
đó. Theo Cục An toàn lao động của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, cứ
100.000 lao động trong khu vực nông
nghiệp, có gần 800 người bị tai nạn lao
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
71
động khi sử dụng điện và 850 người bị tai
nạn lao động trong sử dụng máy nông
nghiệp, riêng trong các trang trại đã có
22,6% số người lao động bị tai nạn, trong
đó 6,2% bị máy cán, cuốn, kẹp. Nguyên
nhân chính là do phần lớn lao
động nông nghiệp chưa qua đào tạo, họ
thường làm việc theo kinh nghiệm. Người
dân thiếu kiến thức và kỹ năng sử dụng
máy trong sản xuất nông nghiệp, khi mua
máy về tự học, tự làm mà không có người
hướng dẫn bài bản. Việc tìm ra những giải
pháp để cải thiện điều kiện lao động, sử
dụng an toàn máy trong sản xuất nông
nghiệp nhằm hạn chế tai nạn lao động
trong nông nghiệp là rất cần thiết.
2. Thực trạng sử dụng các loại máy
trong sản xuất nông nghiệp
Hiện nay, sử dụng cơ giới hóa trong
sản xuất nông nghiệp đang là nhu cầu cấp
thiết, việc ứng dụng nhanh tiến bộ kỹ
thuật đã và đang hình thành các vùng sản
xuất tập trung mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Một số chủng loại máy mới được
đưa vào sản xuất tại các khâu như: máy
cày, máy bừa, máy đập tách hạt, máy
bơm nước; gieo mạ khay, khâu cấy, phun
thuốc bảo vệ thực vật, gặt lúa, xúc đào
mương, v.v.. Cùng với việc gia tăng sử
dụng máy móc, các vụ tai nạn lao động
trong nông nghiệp cũng gia tăng, để lại
những thương tích nặng nề cho người
nông dân, nhiều trường hợp dẫn tới tử
vong.
- Theo số liệu thống kê của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT), cả nước hiện có gần
500.000 máy kéo các loại với tổng công
suất trên 5 triệu mã lực - tăng 4 lần so với
năm 2001, có 589.000 máy tuốt, đập lúa,
riêng Đồng bằng sông cửu Long
(ĐBSCL) có hơn 11 ngàn máy gặt các loại
trong đó, hơn 6.600 máy gặt đập liên hợp.
Một số địa phương cũng có xu hướng gia
tăng sử dụng máy móc nông nghiệp như:
- Thành phố Hải Phòng là địa phương
sớm áp dụng cơ khí hóa vào sản xuất nông
nghiệp. Trong những giai đoạn trước năm
1990 trên địa bàn thành phố đã có trên 300
máy kéo MTZ (Liên Xô) từ 50CV trở lên,
50 máy ủi DT 75CV và gần 200 máy kéo
tay loại 10 - 12CV sử dụng trong làm đất,
san ủi cải tạo đồng ruộng, vận chuyển
trong nông thôn.
- Tỉnh Tuyên Quang, các tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân quan tâm đầu tư, số
lượng máy móc tăng nhanh qua các năm.
Toàn tỉnh hiện có gần 30.000 máy nông
nghiệp các loại, bước đầu giải phóng được
sức lao động của con người trong các
khâu nặng nhọc, đảm bảo đúng thời vụ,
tiết kiệm thời gian và chi phí sản xuất. Tại
các khâu làm đất, đạt 48.987,86 ha, chiếm
68,4% diện tích đất gieo trồng; khâu gieo
cấy 2.346 ha, đạt 3,28% diện tích đất gieo
trồng; khâu chăm sóc 3.022,8ha, đạt
4,22%; khâu thu hoạch 10.232,6 ha, đạt
14,29%; khâu tuốt, tách hạt 31.338,51 ha,
đạt 44,52%. Đối với các loại cây trồng,
cây lúa đạt mức độ cơ giới hóa cao nhất,
đạt 78,07%; tuy nhiên, mức độ cơ giới hóa
ở các khâu sản xuất chưa đồng bộ, mới chỉ
tập trung chủ yếu ở khâu làm đất, tuốt lúa,
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
72
còn các khâu khác lao động thủ công vẫn
là chủ yếu. Tỷ lệ này đối với cây ngô, lạc
mức độ cơ giới hóa đạt 53,81%; cây đậu
tương đạt 74,35%; cây mía 53,39%; cây
chè đạt 35,93% diện tích gieo trồng 7.
- Tỉnh Vĩnh Phúc, tính trung bình trên
địa bàn tỉnh, đối với cây lúa, khâu làm đất
bằng máy chiếm khoảng 80% diện tích,
lúa gieo thẳng bằng giàn kéo tay chiếm
2,68% diện tích; chăm sóc, phòng trừ sâu
bệnh chiếm 5,05%. Trong khâu thu hoạch
lúa, nông dân đã bất đầu mạnh dạn đầu tư
máy gặt đập liên hợp và đưa vào sử dụng
8.
- Thành phố Hà Nội, việc sử dụng
máy trong sản xuất nông nghiệp trên hầu
hết các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, chế
biến thuỷ sản Trong năm 2013, thành
phố đã đầu tư 460 máy làm đất 15 mã lực
và 195 máy làm đất 24 mã lực, nâng tỷ lệ
cơ giới hóa trong khâu làm đất từ 69,22%
lên 85,1%; 78 máy gặt đập liên hợp, đưa
tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu thu hoạch lúa
từ 7,8% lên 10,1%; 167 máy cấy, nâng tỷ
lệ cơ giới hóa trong khâu cấy lúa từ 0,04%
lên 1,64%. Thành phố phấn đấu đến năm
2016, mục tiêu đưa tỷ lệ cơ giới hóa trong
khâu làm đất của Hà Nội đạt 90%, gieo
cấy đạt 20%, gặt đập 30%, phun thuốc trừ
sâu đạt 40%, vắt sữa bò đạt 50%, quạt
nước thủy sản 15%. Nhưng so với các
quốc gia khác, cơ giới hóa nông nghiệp
của Việt Nam chỉ mới bằng khoảng 1/3
Thái Lan; 1/4 Hàn Quốc và 1/6 Trung
7 Theo số liệu sở NNPTNT Tuyên Quang
8Theo số liệu sở NNPTNT Vĩnh Phúc
9 Theo số liệu sở NNPTNT Thành Phố Hà Nội
Quốc. Trong đó, máy móc thiết bị chủ yếu
có xuất xứ từ Trung Quốc, Hàn Quốc và
Nhật Bản; máy móc nội địa thiếu và yếu,
thậm chí phải nhập máy đã qua sử dụng
chính vì vậy công tác kiểm tra thanh tra
công tác an toàn máy này trước khi đưa
vào vận hành là rất cần thiết 9.
- Ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL), diện tích làm đất bằng máy đạt
100%, máy bơm tưới tiêu hơn 90%...
Toàn vùng có gần 1.800 máy gặt đập liên
hợp và 3.500 máy gặt xếp dãy, trong số
đó, phần lớn là máy gặt đập liên hợp có
xuất xứ từ Trung Quốc nên công tác bảo
đảm an toàn chưa được quan tâm 10.
- Tại một số tỉnh trong khâu làm đất,
gieo trồng, tưới tiêu thì việc áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất đạt cao như: ở
Thanh Hóa, Gia Lai, Tây Ninh, Đồng Nai
việc sử dụng máy trong khâu làm đất đạt
khoảng 80%, đối với vùng chuyên trồng
rau đạt 90%, đất trồng Sắn đạt 80%, đối
với đất trồng ngô đạt khoảng 70%.
Bên cạnh đó, việc sử dụng máy bơm
nước cũng không ngừng gia tăng. Theo số
liệu của Tổng cục Thủy lợi tại các khâu tưới
tiêu hiện nay, cả nước có 16.000 trạm bơm
phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng 7.130
trạm so với năm 2001, hệ thống kênh
mương được kiên cố hóa chiếm 23,2% và
trên 2 triệu máy bơm nước các loại sử dụng
trong nông nghiệp.
Việc ngày càng gia tăng cơ giới hóa,
chuyên môn hóa nông nghiệp không đi
10 Số liệu thống kê Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông
thôn, năm 2014
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
73
cùng với đào tạo, huấn luyện kỹ năng
cũng như các biện pháp bảo hộ lao động
cũng tạo những vụ tai nạn lao động đáng
tiếc. Theo Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Việt Nam có hàng triệu người lao
động bị thương nghiêm trọng do các vụ tai
nạn với máy móc sử dụng trong nông
nghiệp, nhiễm độc thuốc trừ sâu và các
chất hoá học khác. Số liệu mới đây của
Viện Nghiên cứ khoa học kỹ thuật bảo hộ
lao động cho thấy có tới 39% các tai nạn
lao động do các loại máy trong sản xuất
nông nghiệp gây nên. Theo thống kê khác
tại Bệnh viện Đa khoa Lạng Sơn, mỗi năm
trung bình có gần 100 ca cấp cứu tai nạn
liên quan đến máy nông nghiệp, trong đó
chiếm phần lớn là do máy cày bằng tay.
Tuy nhiên, trên thực tế các con số thống
kê về các vụ tai nạn lao động trong nông
nghiệp còn hạn chế. Đây là những con số
được thống kê, còn rất nhiều những vụ tai
nạn chưa được thống kê.
1. Nguyên nhân gây mất an toàn vệ
sinh lao động trong sử dụng máy nông
nghiệp
- Theo thống kê của Cục An toàn lao
động - Bộ Lao động - Thương binh & Xã
hội, so với các ngành khác thì lao động
trong nông nghiệp là một trong số những
đối tượng có nguy cơ mắc tai nạn lao động
(TNLĐ) cao nhất và đang ở mức báo
động, chỉ đứng sau ngành xây dựng, hóa
chất và khai thác mỏ. Kết quả một số
nghiên cứu như “Tai nạn thương tích
(TNTT) trong lao động nông nghiệp tại
Việt Nam”- Nguyễn Thuý Quỳnh (2009-
2010); “Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật và một số biện pháp giảm thiểu
việc sử dụng thuốc không hợp lý trong sản
xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long”,
Phạm Văn Toàn (2013) đã cho thấy đa số
người lao động (NLĐ) sử dụng các loại
hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu không
an toàn, gây ra những hậu quả nghiêm
trọng ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính
mạng của người nông dân. Kết quả nghiên
cứu cũng chỉ rõ người lao động (NLĐ)
chủ yếu sử dụng máy móc theo kiểu “học
lỏm”, đa số không được hướng dẫn về an
toàn sử dụng máy móc, hóa chất. Có tới
trên 40% máy móc không được che chắn
thiết bị truyền động, gần 65% thiếu chỉ
dẫn an toàn máy. Trong khi đó, trên 40%
người lao động (NLĐ) không sử dụng đầy
đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân khi sử
dụng máy móc hay phun thuốc bảo vệ
thực vật (BVTV). Những yếu tố này là
nguyên nhân lớn dẫn đến nguy cơ tai nạn
dễ xảy ra như bị dây cua - roa nghiến đứt
tay, tay quay văng vào mặt, ngộ độc thuốc
bảo vệ thực vật (BVTV).
- Các chương trình phổ biến kiến thức
an toàn vệ sinh lao động trong nông
nghiệp, đặc biệt là một số an toàn điện, an
toàn máy, cách sử dụng an toàn các dụng
cụ lao động, cách nhận biết nguy cơ để
phòng tránh còn hạn chế và chưa được
phát triển rộng rãi, thiếu những kiến thức
các quy tắc an toàn trong quá trình vận
hành máy.
- Hiện nay, vấn đề an toàn lao động
trong sản xuất nông nghiệp cũng chưa
được chính quyền địa phương chức năng
quan tâm đúng mức; chưa nhiều các hệ
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
74
thống văn bản pháp luật quy định, hướng
dẫn cụ thể việc thực hiện an toàn lao động
cho nông dân, cũng như các quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính
quyền về công tác an toàn lao động trong
việc sử dụng bảo quản máy nông nghiệp.
- Công tác quản lý nhà nước về an toàn
vệ sinh lao động trong nông nghiệp ở nhiều
nơi bị buông lỏng; việc thanh tra, kiểm tra an
toàn vệ sinh lao động đối với máy nông
nghiệp và nông dân còn bị bỏ ngỏ. Công tác
thông tin, tuyên truyền, huấn luyện về vệ sinh,
an toàn lao động chưa được thực hiện kịp
thời, thường xuyên.
Những điểm còn thiếu hụt, hạn chế
- Những nghiên cứu về tai nạn thương
tích ngành nông nghiệp có thiết kế mô tả
cắt ngang chỉ đưa ra được những mô tả về
các yếu tố liên quan, chưa thể kết luận một
cách chặt chẽ về mối quan hệ nguyên nhân
- kết quả về tai nạn thương tích ngành
nông nghiệp.
- Mẫu nghiên cứu còn nhỏ, chỉ đánh giá
được tình hình tai nạn thương tích chung,
chưa đủ lớn để phân tích sâu cho từng nguyên
nhân dẫn đến tai nạn thương tích.
- Cơ sở dữ liệu về Bảo hộ lao động
(BHLĐ) trong nông nghiệp đưa ra chưa
được đầy đủ do các báo cáo, cập nhật thông
tin về an toàn vệ sinh lao động cũng như
công tác bảo hộ lao động của hộ gia đình,
trang trại, hộ nông dân vẫn chưa có. Do
vậy, rất cần thiết tiến hành một cuộc tổng
điều tra thực trạng an toàn vệ sinh lao động
- công tác An toàn vệ sinh lao động
(ATVSLĐ) trong toàn ngành nông nghiệp
và ngành nghề nông thôn.
3. Một số khuyến nghị cải thiện
điều kiện an toàn lao động trong sử
dụng máy nông nghiệp
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ trong sản xuất, sử
dụng trang thiết bị đảm bảo an toàn vệ
sinh lao động, cải thiện môi trường, điều
kiện làm việc cho người lao động.
Ứng dụng, chuyển giao, áp dụng các
biện pháp kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để
cải thiện môi trường và điều kiện làm việc
cho người lao động, đặc biệt là trong
những ngành nghề, lĩnh vực có nguy cơ
cao về tai nạn lao động trong đó có ngành
nông nghiệp.
Thường xuyên kiểm tra, thanh tra
công tác an toàn lao động trong sử dụng
máy nông nghiệp.
Các ngành, địa phương cần chủ động
phối hợp để có biện pháp bảo đảm an toàn
cho nông dân trong quá trình sử dụng máy
kéo, máy làm đất, máy gieo hạt, máy cấy,
trong thu hoạch, bảo quản, vận chuyển
nông sản.
Sửa đổi, bổ sung chính sách, ban hành
các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn lao
động, vệ sinh lao động phù hợp với yêu
cầu tình hình mới, thay thế cho các tiêu
chuẩn, quy chuẩn cũ được đẩy mạnh tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu,
ứng dụng khoa học công nghệ về an toàn
vệ sinh lao động. Về lâu dài, Nhà nước
cần triển khai những biện pháp đồng bộ
thường xuyên, xây dựng hệ thống pháp
luật, lực lượng cán bộ chuyên môn để
hướng dẫn nông dân thực hiện những biện
pháp bảo đảm an toàn vệ sinh lao động
Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 44/Quý III - 2015
75
trong sản xuất nông nghiệp, tránh được
những tai nạn lao động trong sản xuất.
Sau đây là một số giải pháp kỹ thuật
cụ thể trong sử dụng bảo quản máy:
Tuyệt đối không được ngủ ngật, bỏ đi
nơi khác trong khi sử dụng máy;
Không được cho những người không
có trách nhiệm hay không có nhiệm vụ
vận hành máy;
Không lau chùi dầu mỡ khi máy đang
hoạt động, khi máy có tiếng kêu lạ thì phải
tắt rồi mới kiểm tra;
Sử dụng nhập liệu thích hợp với từng
loại máy để tránh gia tăng năng suất để
bảo đảm an toàn.
Đối với các máy dùng điện cần che
chắn các loại dây dẫn khi sử dụng để bảo
đảm an toàn.
Để hạn chế loại trừ tai nạn nguy
hiểm cần che chắn các bộ phận nguy
hiẻm của máy, các thiết bị che chắn phải
là các lưới sắt dễ nhìn thấy khi máy đang
hoạt động;
Kiểm tra kỹ các thiết bị an toàn máy
khi mua, người điều khiển máy cần sử
dụng các phương tiện bảo hộ cá nhân, trên
các máy có nút tắt khẩn cấp, bảng điện
phải có nội dung tiếng Việt để bảo đảm an
toàn trong sử dụng Tại các địa phương có
thể phát động phong trào chia sẻ kinh
nghiệm, sáng kiến cải thiện điều kiện lao
động an toàn máy giữa các hộ, hợp tác xã,
nông trường, khen thưởng động viên kịp
thời những đơn vị cá nhân thực hiện tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vấn đề quản lý an toàn vệ sinh lao
động trong nông nghiệp, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, 2001
2. Tài liệu huấn luyện an toàn điện, máy
trong sản xuất nông nghiệp, Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội, tổ chức ILO, 2007
3. Thực trạng tai nạn thương tích trong
lao động nông thôn, Phòng nghiên cứu khoa
học, Trường Đại học Y tế Công cộng
4. Nghiên cứu “Tổng hợp, xây dựng cơ
sở dữ liệu về thực trạng công tác bảo hộ lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp, làm cơ sở
đề xuất tham gia Chương trình giai đoạn
2011-2015”;
5. Nghiên cứu “Xúc tiến việc làm bền
vững và An toàn vệ sinh lao động trong nông
nghiệp – những vấn đề đặt ra” Ths. Lê Kim
Dung;
6. Bộ tài liệu về tập huấn xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, 2008, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
7. Báo cáo Thực trạng và giải pháp
phát triển cơ giới hóa trong sản xuất nông
nghiệp, thủy sản tại Hải Phòng, của Sở
nông nghiệp và PTNT Hải Phòng tại Hội
nghị Cơ giới hóa tạo động lực tái cơ cấu
ngành nông nghiệp ngày 12 tháng 6 năm
2015.
8. Đề án đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất
nông thôn đến năm 2020, Cục chế biến
Nông lâm, thủy sản và nghề muối, Bộ
NNPTNT, năm 2014.
9. Số liệu mới đây của Viện Nghiên cứ
khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động năm
2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cai_thien_dieu_kien_an_toan_may_trong_san_xuat_nong_nghiep.pdf