Cải thiện môi trường kinh doanh và những nút thắt cần tháo gỡ

Thực tiễn cho thấy, quyền lực nếu không được kiểm soát chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực và là nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng. Vì vậy, trong thời gian tới, xóa bỏ sự mặc định sống chung với tham nhũng nói chung và chấp nhận các chi phí không chính thức nói riêng, các cơ quan chức năng cần cụ thể hóa quy định về kiểm soát quyền lực đã được hiến định. Chính phủ, các bộ, ngành địa phương cần tiếp tục sửa đổi thể chế chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và đáp ứng thông lệ quốc tế; tổng kết, đánh giá thực hiện Luật Quản lý thuế, từ đó nghiên cứu đề xuất sửa đổi theo hướng bảo đảm thống nhất, đồng bộ với mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý thuế theo hướng hiện đại, dựa trên quản lý rủi ro; tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, tăng cường công khai minh bạch, áp dụng công nghệ thông tin đồng bộ và toàn diện trong giải quyết thủ tục hành chính thuế và kết nối với hệ thống thông tin của các bộ, ngành; các cơ quan chức năng và Chính phủ cần có biện pháp quyết liệt và hiệu quả hơn nhằm rà soát lại các lĩnh vực thuộc quyền quản lý của mình để cương quyết loại bỏ tất cả các khoản phí ngầm, các khoản thu không đúng chế độ nhằm tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp ổn định và phát triển, trước mắt tập trung vào những khâu, lĩnh vực có nguy cơ cao như kiểm tra thuế, thanh tra thuế và kê khai, quyết toán thuế, hoàn thuế.; khắc phục triệt để tình trạng thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp một cách tùy tiện.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải thiện môi trường kinh doanh và những nút thắt cần tháo gỡ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CAÛI THIEÄN MOÂI TRÖÔØNG KINH DOANH VAØ NHÖÕNG NUÙT THAÉT CAÀN THAÙO GÔÕ Nguyễn Trần Minh Trí** Nguyễn Minh Phong* Tóm tắt: Môi trường kinh doanh ở nước ta đã càng ngày càng được cải thiện, tuy còn nhiều việc phải làm. Đây là kết quả từ những nhận thức mới về tôn trọng quyền của người dân và doanh nghiệp, sự đồng thuận xã hội, quyết tâm chính trị cao và sự chỉ đạo sát sao, cùng với những hành động quyết liệt để tạo ra những thay đổi mạnh mẽ thực chất về thể chế kinh tế. Những chuyển động thực chất trong cải thiện môi trường kinh doanh khẳng định tinh thần cầu thị và kiên trì định hướng đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước và là điều kiện bảo đảm cho một triển vọng phát triển kinh tế mới tích cực hơn. Abstract: The business environment in Vietnam has been increasingly improved, although a lot of activities need to be carried out. This is the result of new perspectives on respect for the rights of people and businesses, social consensus, high political determination and closely direction, along with drastic actions to make strongly changes of economic institutions by its nature. Substantial movements for improvement of the business environment affirm the self-taught spirit and persistence in the overall direction of the Party and Government and they are also the conditions for more positive outlooks for economic developments. Thông tin bài viết: Từ khóa: môi trường kinh doanh; đổi mới thể chế kinh tế; quy chế hành chính; cải cách hành chính. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 17/05/2017 Biên tập: 12/06/2017 Duyệt bài: 20/06/2017 Article Infomation: Keywords: business environment, reform of economics institutions, improvement of administration. Article History: Received: 17 May 2017 Edited: 12 Jun 2017 Appproved: 20 Jun 2017 * TS, Báo Nhân Dân. ** ThS, Viện Kinh tế &Chính trị thế giới - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 1. Những chuyển động thực chất trong cải thiện môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh đối ngoại ở nước ta đã có những bước chuyển biến đầy ngoạn mục cùng với quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Từ thế bị bao vây, cấm vận, Việt Nam hiện đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 187 nước, quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ; ký kết 12 Hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương, trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 CHÑNH SAÁCH 32 Số 12(340) T6/2017 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế; thiết lập các quan hệ thương mại tự do với 55 quốc gia và nền kinh tế, trong đó có 15 quốc gia trong Nhóm G20. Đặc biệt, tính đến tháng 3/2017, đã có 64 quốc gia công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường1 Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng Phát triển Á Châu, Quỹ Tiền tệ thế giới, Ngân hàng Thế giới. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, ngày càng khẳng định là một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chủ động tham gia nhiều cơ chế, diễn đàn hợp tác đa phương, tham gia giải quyết những vấn đề lớn, toàn cầu. Trong thời gian gần đây, môi trường đầu tư trong nước cũng đã có nhiều cải thiện, đột phá mạnh mẽ. Sự ra đời của Hiến pháp năm 2013 và việc ký kết các FTA mới đang tạo định hướng và là động lực góp phần nâng cao nhận thức của đội ngũ công chức, chủ doanh nghiệp, công nhân và cộng đồng xã hội nói chung về nhân quyền và các quyền tự do, các yêu cầu mới trong cải cách và thực thi thể chế kinh doanh và hội nhập theo những tiêu chuẩn ngày càng cao. Từ năm 2013 đến nay, Việt Nam đã thông qua hơn 100 dự luật, một quy mô cải cách chưa từng có kể từ thập niên 80 của thế kỷ XX. 1 Xem 2 Xem chinh-43000.aspx. 3 Xem chinh-43000.aspx. 4 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 5 Báo cáo CPI năm 2016 của VCCI- cao PCI 2016_final.pdf. Nhiều luật mới, như Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tích hợp các tiêu chuẩn, quy tắc và quy định của các cam kết hội nhập quốc tế và xác lập các bước cần thiết để Việt Nam trở thành một phần của kinh tế - thương mại toàn cầu. Từ tháng 10/2015 đến nay, chính sách thuế của Việt Nam đã có những sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập thế giới, góp phần tháo gỡ khó khăn, rút ngắn thời gian nộp thuế, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, nâng cao sự hài lòng của người nộp thuế. Theo Tổng cục Thuế, đến nay Việt Nam đã cắt giảm được 420 giờ nộp thuế (từ 537 giờ xuống còn 117 giờ)2. Chỉ riêng trong năm 2016, số thủ tục hành chính thuế đã được chuẩn hoá và cắt giảm từ 385 thủ tục xuống còn 300 thủ tục3. Tổng cục Thuế đã sửa đổi, bổ sung 51/70 quy trình, quy chế quản lý thuế. Đến nay, khai và nộp thuế điện tử cho doanh nghiệp đã mở rộng 63/63 tỉnh, thành phố. Theo khảo sát của VCCI4, trên 75% người nộp thuế được hỏi đã hài lòng với kết quả cải cách của cơ quan thuế trong những năm qua5. Theo Báo cáo môi trường kinh doanh năm 2016 của Ngân hàng Thế giới (WB), xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam 2016 tăng tới 9 bậc, xếp thứ 82/190 nước; trong 5 chỉ số thăng hạng, thì Chỉ số bảo vệ nhà đầu tư thiểu số tăng đột phá tới CHÑNH SAÁCH 33Số 12(340) T6/2017 31 bậc; Chỉ số nộp thuế của Việt Nam đã tăng 5 bậc6. Theo Báo cáo "Môi trường thương mại toàn cầu 2016" do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) thực hiện 2 năm một lần và là thước đo về khả năng tổng thể của 136 nền kinh tế trên thế giới, trong những năm qua, môi trường thương mại của Việt Nam đã cải thiện đáng kể và tăng 14 bậc, lên vị trí 73/136 nền kinh tế được đánh giá trong bảng xếp hạng "Thúc đẩy thương mại xuyên biên giới 2016"7. Việt Nam đã có nhiều cải thiện trong khâu quản lý biên giới, hiệu quả hải quan tăng và giảm thời gian thủ tục cho hàng hóa xuất, nhập khẩu, cơ sở hạ tầng vận tải, sự tiếp cận của hàng hóa nước ngoài đối với thị trường nội địa và khả năng xâm nhập các thị trường nước ngoài nhờ vào thuế quan giảm (dù xếp hạng quốc tế về đổi mới sáng tạo của Việt Nam giảm 4 bậc, ở vị trí 59/128, cũng như bị giảm năng lực dịch vụ vận tải và còn cần nhiều nỗ lực để đạt các chuẩn mực môi trường kinh doanh quốc tế). Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết số 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, kể từ Hội nghị Thủ tướng gặp doanh nghiệp tháng 4/2016 - 4/2017, gần 1.100 kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp đã được tiếp nhận và chuyển tới các cơ quan nhà nước, trong đó đã có 850 kiến nghị được xử lý, giải quyết, trả lời (đạt tỷ lệ 77%)8. Cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu 6 Xem 7 Xem 8 Xem chinhphu.vn/tai_lieu_hoi_nghi/2017/BaoCao_NQ35soket1nam.doc. 9 Xem chinhphu.vn/tai_lieu_hoi_nghi/2017/BaoCao_NQ35soket1nam.doc. 10 Xem chinhphu.vn/tai_lieu_hoi_nghi/2017/BaoCao_NQ35soket1nam.doc. 11 Xem chinhphu.vn/tai_lieu_hoi_nghi/2017/BaoCao_NQ35soket1nam.doc. 12 Xem tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. 50 nghị định về điều kiện đầu tư kinh doanh được ban hành, 4.527 trên tổng số 4.723 thủ tục hành chính (gần 96%) đã được đơn giản hóa9. Việt Nam đã kết nối kỹ thuật thành công cơ chế một cửa với 4 nước Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore để chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu trong khu vực ASEAN. Riêng cơ chế này ở trong nước cũng đã kết nối được 11 trên 14 bộ10. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa (Bộ Tài chính), 37 thủ tục hành chính của 9 bộ còn lại đã được thực hiện thông qua cơ chế một cửa quốc gia11. Những chuyển biến trong môi trường kinh doanh đã được thể hiện trong báo cáo mới đây của Phòng Thương mại Mỹ (AmCham), khi cơ quan này cho rằng, Việt Nam đang trở nên nổi bật với các cải thiện về môi trường kinh doanh, 36% doanh nghiệp Mỹ được khảo sát dự định sẽ mở rộng kinh doanh tại Việt Nam, cao hơn so với 21% ở Thái Lan, 19% của Malaysia12. Các giải pháp về tạo dựng môi trường thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo cũng được đẩy mạnh, tạo làn sóng khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh, hội nghị, hội thảo, sự kiện, các cuộc thi về khởi nghiệp; 28 không gian làm việc chung và sáng tạo ra đời; mạng lưới các nhà đầu tư cá nhân cho khởi nghiệp bắt đầu được hình thành, qua đó giúp nhận thức của cả xã hội về khởi nghiệp đã được nâng lên đáng kể.... Các chương trình như: Cà phê doanh nhân (Quảng Ninh, Trà Vinh, An Giang, Sóc Trăng), Khởi CHÑNH SAÁCH 34 Số 12(340) T6/2017 nghiệp doanh nhân (Kon Tum) hay mô hình Bác sĩ doanh nghiệp (Bắc Ninh) là các ví dụ điển hình. Nhiều tỉnh, thành phố cũng xây dựng mô hình các tổ điều hành thực hiện Nghị quyết số 35; tổ tư vấn, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp hay tổ công tác hỗ trợ doanh nghiệp, để kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc... Việc bảo đảm quyền kinh doanh, quyền bình đẳng tiếp cận nguồn lực và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện với các giải pháp cụ thể phát triển hệ thống bán lẻ, thúc đẩy sản xuất và khuyến khích tiêu dùng hàng Việt Nam. Việc tiếp cận một số nguồn lực như đất đai, cơ sở hạ tầng hay vốn cũng có những thành công nhất định. Lãi suất cho vay phổ biến giữ ở mức 6-9% một năm đối với ngắn hạn; 9-11% đối với trung và dài hạn, đối với nhóm khách hàng tốt, lãi suất cho vay ngắn hạn có thể giảm xuống còn 4-5%. Những nỗ lực giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, những điều chỉnh theo hướng giảm chi phí liên quan đến đất đai, điều chỉnh mức thu phí sử dụng đường bộ, phí BOT hay loại bỏ các khoản phụ thu bất hợp lý đối với hàng xuất nhập khẩu cũng được tăng cường. Công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp cũng được thực hiện thông qua các biện pháp giảm số lần thanh tra, kiểm tra, bảo vệ an ninh kinh tế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và đặc biệt là nội dung không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - vấn đề điểm nhấn trong Hội nghị Thủ tướng với cộng đồng doanh nghiệp năm 2016. Thanh tra Chính phủ đã xây dựng các biện pháp cụ thể giảm mật độ và hạn chế chồng chéo trong hoạt động thanh tra tại các doanh nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, phát hiện, xử lý vi phạm, góp phần lành 13 Xem chinhphu.vn/tai_lieu_hoi_nghi/2017/BaoCao_NQ35soket1nam.doc. 14 Xem cao PCI 2016_final.pdf. mạnh môi trường đầu tư kinh doanh. Một số địa phương như Đà Nẵng, Hà Nội, Lào Cai, Quảng Bình, Đắk Lắk, Sóc Trăng đã ban hành văn bản đôn đốc về nhiệm vụ thực hiện thanh tra, kiểm tra đúng quy định của pháp luật (không quá một lần mỗi năm). Năm 2016, việc nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, cập nhật ứng dụng cho phép thực hiện đăng ký doanh nghiệp trực tuyến với hơn 100 quy trình cấp độ 03 trở lên, trong đó có 95 quy trình được triển khai ở cấp độ 04, đồng thời, thực hiện công khai hóa toàn bộ quy trình đăng ký doanh nghiệp và tình trạng hồ sơ doanh nghiệp trên Hệ thống Thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp đã cho phép tạo sự thuận lợi hóa, cũng như giảm thời gian quy định đăng ký doanh nghiệp thực tế trên cả nước chỉ còn 2,9 ngày so với yêu cầu 03 ngày theo Luật Doanh nghiệp; tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên đạt gần 86%, tỷ lệ hồ sơ trả kết quả đúng hẹn đạt gần 90%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử của cả nước trong năm 2016 đạt 14% (riêng quý IV/2016 đạt trên 35%) và dự kiến 2017 sẽ đạt 30%13. Theo Báo cáo thường niên PCI- 2016 do VCCI công bố sáng 14/3/2017, dựa trên thông tin phản hồi từ 11.600 doanh nghiệp, trong đó có trên 10.000 doanh nghiệp dân doanh và gần 1.600 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì chỉ số PCI các tỉnh thuộc nhóm cuối bảng xếp hạng đã có nhiều nỗ lực cải cách14. Khoảng cách điểm số giữa tỉnh cao nhất và thấp nhất được thu hẹp chỉ còn 17 điểm, thấp kỷ lục trong 12 năm qua. Bên cạnh đó là xu hướng cải thiện điểm số PCI của cả 5 thành phố trực thuộc trung ương. CHÑNH SAÁCH 35Số 12(340) T6/2017 Cuối tháng 4/2017, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody's Investors Service của Mỹ ra thông báo15 giữ nguyên xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu không đảm bảo có độ ưu tiên cao và xếp hạng nhà phát hành của Việt Nam ở mức B1, điều chỉnh triển vọng xếp hạng từ “Ổn định” lên “Tích cực”; đồng thời, khẳng định giữ nguyên mức xếp hạng của 8 ngân hàng Việt Nam, cũng như nâng triển vọng xếp hạng tiền gửi nội tệ và phát hành tiền gửi nội tệ và ngoại tệ của các định chế này từ ổn định lên tích cực (8 ngân hàng trong danh sách là Vietcombank, Vietinbank, BIDV, An Bình Bank, ACB, MB, VIB và Techcombank. Hiện chỉ BIDV có mức xếp hạng tín dụng cơ sở (BCA) ở mức Caa 1, còn mức xếp hạng BCA của 7 ngân hàng còn lại đều ở mức B2). Theo Moody’s, động thái này chịu ảnh hưởng từ việc Moody’s giữ nguyên xếp hạng của Việt Nam ở mức B1 nhưng nâng triển vọng từ ổn định lên tích cực hôm 28/4/2017. Mức xếp hạng của Việt Nam là một yếu tố đầu vào quan trọng để Moody’s đánh giá các ngân hàng bởi nó ảnh hưởng đến khả năng hỗ trợ hệ thống ngân hàng của Chính phủ trong trường hợp căng thẳng. Thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh tại Việt Nam cần và sẽ được tiếp tục cải thiện cùng với những nỗ lực trong trách nhiệm và khả năng, sự nhận thức và đồng thuận cao của Nhà nước, người dân và cộng đồng doanh nghiệp về đẩy mạnh chống tham nhũng và xây dựng Nhà nước kiến tạo, liêm chính, đồng hành và hỗ trợ doanh nghiệp, phục vụ người dân. Sự ra đời của Bộ chỉ số Doanh nghiệp bền vững dành riêng cho các doanh nghiệp 15 Xem 16 Xem /1266283.html. Việt Nam là bước đột phá nhờ có thể áp dụng được với tất cả doanh nghiệp ở mọi loại hình, phạm vi và quy mô khác nhau. Bảng xếp hạng vinh danh 100 doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam 2016 lần đầu công bố cho thấy doanh nghiệp ngày càng quan tâm tới vấn đề phát triển bền vững. Việc tham gia và đạt thứ hạng cao trong bảng xếp hạng còn mở ra cho các doanh nghiệp cơ hội nâng cao uy tín, thương hiệu, thu hút nguồn nhân lực, cơ hội kinh doanh mới thông qua việc gia tăng lòng tin của các đối tác, nhà đầu tư và cổ đông, góp phần vào việc phát triển kinh doanh theo hướng bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Những cải thiện môi trường đầu tư đã trực tiếp và gián tiếp góp phần cải thiện vốn đầu tư xã hội được thể hiện ở sự gia tăng các dòng vốn đầu tư từ mở rộng dư nợ tín dụng ngân hàng, gia tăng vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới và quay lại hoạt động, từ dòng vốn bổ sung đầu tư mở rộng và tăng vốn thực hiện cả FDI và giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Cuộc khảo sát mới thực hiện của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) đã đưa ra kết luận rằng, Việt Nam tiếp tục là địa điểm đầu tư quan trọng của doanh nghiệp Nhật Bản; trên 66% doanh nghiệp được khảo sát cho biết có xu hướng “mở rộng hoạt động kinh doanh” tại Việt Nam16. Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 2016, lần đầu tiên Việt Nam có trên 110.100 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quan trọng hơn là hiện có trên 90% số doanh nghiệp đó đã đi vào hoạt động, đã kê khai thuế và nộp CHÑNH SAÁCH 36 Số 12(340) T6/2017 thuế trên thực tế 75% số doanh nghiệp Việt Nam được Tổng cục Thống kê khảo sát trong quý I/2017 khẳng định tình hình sản xuất kinh doanh của mình quý I năm nay ổn định hoặc tốt hơn quý IV/2016 và 90% số doanh nghiệp tin rằng, quý II/2017 sẽ có xu hướng ổn định hoặc tốt lên17. Nhờ vậy, 65% doanh nghiệp hoạt động có lãi, mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Lần đầu tiên trong vòng 12 năm qua, quy mô vốn trung bình của doanh nghiệp đã tăng đến mức cao nhất, bình quân 18,1 tỷ đồng, gấp đôi so với năm 2006 (7,5 tỷ đồng). Đến 26/12/2016, cả nước thu hút 2.556 dự án FDI mới, vốn đăng ký đạt 15.182,3 triệu USD, tăng 27% về số dự án và giảm 2,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2015; có 1.225 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 5.765,1 triệu USD, tăng 50,5% về số dự án và giảm 19,7% về vốn tăng thêm. Trong năm 2016 có 2.547 doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần trong năm 2016 đạt 24.372,7 triệu USD, tăng 7,1% so với năm trước. FDI thực hiện năm 2016 ước 15,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm 2015, cao nhất từ trước đến nay18. Tính chung 4 tháng đầu năm, cả nước có 39.580 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 369,6 nghìn tỷ đồng, tăng 14% về số doanh nghiệp và tăng 48,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ 17 Xem 18 Xem 19 Xem 20 Xem 21 Xem năm 2016; có 11.545 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước19. Từ đầu năm đến thời điểm 20/4/2017, chúng ta đã thu hút 734 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 4.881,6 triệu USD, tăng 5,3% về số dự án và giảm 4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, có 345 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 4.361,2 triệu USD. Đồng thời, có 1.687 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 1.355,2 triệu USD20. Như vậy, tính chung tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần 4 tháng đầu năm đạt 10.598 triệu USD, tăng 40,5% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 4 tháng ước tính đạt 4,8 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 201621. Có thể nói, những thành công cả về cải cách thể chế lẫn những thành tựu trên thực tế phát triển kinh tế, thu hút đầu tư xã hội nêu trên là thực chất và rất đáng khích lệ, được thừa nhận rộng rãi cả ở trong và ngoài nước. Đây là kết quả hội tụ và sự tỏa sáng thông điệp từ những nhận thức mới về tôn trọng quyền của người dân và doanh nghiệp, sự đồng thuận xã hội, quyết tâm chính trị cao và sự chỉ đạo sát sao, cùng những hành động quyết liệt tạo những thay đổi mạnh mẽ thực chất về thể chế kinh tế. Đồng thời, khẳng định tinh thần cầu thị và kiên trì định hướng đổi mới toàn diện của Đảng và Nhà nước CHÑNH SAÁCH 37Số 12(340) T6/2017 và là điều kiện bảo đảm cho một triển vọng phát triển kinh tế mới và đón vận hội mới tích cực hơn thời kỳ Việt Nam chuyển mình, chủ động hội nhập cùng thế giới 2. Những nút thắt cần nỗ lực tháo gỡ Dù có nhiều tiến bộ, nhưng thực tế cho thấy, môi trường kinh doanh trong nước vẫn còn những điểm nghẽn cần tháo gỡ sau đây: - Tình trạng những quy định về điều kiện kinh doanh, quản lý chuyên ngành còn nhiều mâu thuẫn, chưa thống nhất, trong khi sự phối hợp giữa các đơn vị có liên quan trên phạm vi địa phương chưa thực sự hiệu quả; - Còn sự chồng chéo, trùng lắp trong nội dung thanh tra, kiểm tra của ngành thanh tra và ngành kiểm toán; một số cuộc thanh tra còn kéo dài khi xây dựng báo cáo và kết luận thanh tra, chất lượng còn chưa cao. - Tình trạng thông báo thuế sai vẫn còn xảy ra do lỗi hệ thống phần mềm, chậm hoàn thuế và quyết toán thuế; - Thủ tục giải quyết khiếu nại, xử lý vi phạm hành chính và thông quan vẫn khá phiền hà, nhất là thời gian giải quyết quá dài và yêu cầu cung cấp thêm nhiều loại thông tin, giấy tờ không cần thiết gây khó khăn và tạo rủi ro cho cả người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Ngoài ra, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ của cán bộ công chức ngành thuế vẫn khiến nhiều doanh nghiệp e ngại. Báo cáo của VCCI về CPI-2016 cho thấy, hiện ở Việt Nam tồn tại hai nghịch lý: Thứ nhất, ngược lại với tổng thể môi trường đầu tư được cải thiện là tình trạng chậm, thậm chí nặng nề hơn về các chi phí 22 Xem cao PCI 2016_final.pdf. 23 Xem cao PCI 2016_final.pdf. không chính thức ở khu vực doanh nghiệp trong nước. Tình trạng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp dù giảm từ 65% năm 2013-2014 xuống còn 58% năm 2016, nhưng còn khoảng 25% các doanh nghiệp FDI thừa nhận rằng họ đã trả tiền bôi trơn để có được giấy phép đầu tư và 13,6% trả hoa hồng khi cạnh tranh để có được các hợp đồng của cơ quan nhà nước (đều giảm so với năm 2015) và còn 49% doanh nghiệp đã chi trả chi phí không chính thức khi làm thủ tục thông quan (giảm 10 điểm phần trăm so với năm 2015). Các thủ tục hành chính (TTHC) về thuế đã được cải thiện đáng kể, dù còn không ít phàn nàn về thủ tục đăng ký thuế, thay đổi thông tin thuế và hoàn thuế, thanh kiểm tra thuế. Trung bình có khoảng 66% doanh nghiệp cho biết họ thường xuyên chi trả các khoản không chính thức (tức cao hơn 12 - 15 điểm phần trăm so với giai đoạn 2008 - 2013) và chúng chiếm tới hơn 10% tổng doanh thu của họ (cao hơn hẳn mức 6-8% giai đoạn 5 năm kể từ 2014 trở về trước)22. Thứ hai, hiện tượng doanh nghiệp tự nguyện “tra dầu bôi trơn” lớn hơn hẳn so với doanh nghiệp bị đòi hỏi phải chi bôi trơn. Theo VCCI, trong số 45% doanh nghiệp đã đưa quà và các chi phí không chính thức trong đợt thanh, kiểm tra trong năm 2016, chỉ 8% doanh nghiệp là bị cán bộ thanh, kiểm tra đòi hỏi. Tỷ lệ này nhỏ hơn 5 lần so với tỷ lệ doanh nghiệp chủ động đưa biếu (44%). Đặc biệt, 59% các doanh nghiệp tin rằng, hành vi chủ động đưa quà cáp dù không bị đòi hỏi này là phổ biến, trở thành “luật bất thành văn”23. CHÑNH SAÁCH 38 Số 12(340) T6/2017 Hơn nữa, gần 80% doanh nghiệp trả lời việc đưa quà là nhằm tạo lập mối quan hệ, như một “hợp đồng bảo hiểm” cho những rắc rối và được tạo thuận lợi giải quyết các vụ việc nảy sinh trong tương lai. Sự phổ biến của chi phí bôi trơn đã bình thường tới mức hai bên mặc định cần có và khi không có thì một bên sẽ cảm thấy thiếu và một bên chưa an tâm. Điều này có thể thấy rõ qua báo cáo PCI 2016, khi mà có tới 88% doanh nghiệp ít nhiều đều gặp bất lợi khi tham gia đấu thầu các hợp đồng với cơ quan nhà nước do không “bôi trơn”24. VCCI cũng cho biết: 24% doanh nghiệp cho rằng nội dung thanh tra thuế trùng lặp, chồng chéo. 36% doanh nghiệp cho rằng thanh, kiểm tra thuế chưa phải là hướng dẫn doanh nghiệp làm đúng mà mang tính suy diễn bất lợi cho doanh nghiệp. 34% doanh nghiệp cho rằng phải chi trả chi phí không chính thức khi bị thanh tra thuế. 16% doanh nghiệp đánh giá cán bộ thuế không văn minh, lịch sự25. Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đối với 2.600 doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực chế biến, sản xuất tại 10 địa phương năm 2016 cũng cho thấy, có hơn 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chấp nhận những khoản chi không chính thức cho các cơ quan quản lý nhà nước (có giảm so với 64% năm 2015)26. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, hiện tượng doanh nghiệp dù làm đúng, nhưng vẫn phải có khoản phí bôi trơn do sợ bị bắt bẻ, làm khó trong các thủ tục quyết toán, thanh tra, kiểm tra thuế chứng tỏ chất lượng và 24 Xem cao PCI 2016_final.pdf. 25 Xem cao PCI 2016_final.pdf. 26 Xem kỷ luật công vụ của công chức thuế Việt Nam có nhiều điều đáng quan ngại. Theo Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên nhân chính của việc các doanh nghiệp chấp nhận những khoản chi phí không chính thức là do tâm lý muốn nhanh được việc và do thái độ làm việc của một số cán bộ, công chức cố tình gây nhũng nhiễu, làm khó doanh nghiệp. Tăng chi phí bôi trơn không chỉ làm tăng gánh nặng chi phí và thể chế của doanh nghiệp, gây thiệt hại chung cho xã hội, mà còn trở thành thước đo mức độ nghiêm trọng của tham nhũng, cũng như là bằng chứng cho thấy sự bất lực, kém năng lực, hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước nói chung, công cuộc chống tham nhũng nói riêng. Mức độ các chi phí không chính thức tỷ lệ thuận với năng lực gây nhũng nhiễu, làm khó doanh nghiệp của một số cán bộ và cả với sự chủ động mặc cả của chính doanh nghiệp để “tiết kiệm” một phần nghĩa vụ nộp thuế hoặc thời gian xếp hàng làm thủ tục, thậm chí để dễ “chen ngang”, vượt lên chiếm lợi thế với đối thủ của mình. Những chi phí không chính thức chỉ có thể bị loại bỏ bằng những biện pháp chính thức đồng bộ và nhất quán Hơn nữa, chi phí không chính thức còn là biểu hiện chính thức của tham nhũng. Trong Báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2016 trước Quốc hội, Thanh tra Chính phủ đã nhìn nhận, công tác phòng, chống tham nhũng nói chung chưa đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra và vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém; một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, trong đó có những người giữ vị trí lãnh đạo, CHÑNH SAÁCH 39Số 12(340) T6/2017 quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, không hoàn thành trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước Nhân dân, có những trường hợp phạm tội tham nhũng phải xử lý trước pháp luật; các biện pháp phòng ngừa tham nhũng hiệu quả thấp; tình trạng lợi dụng truyền thống văn hóa về tặng quà, cảm ơn để biếu xén, đưa hối lộ vì động cơ vụ lợi còn khá phổ biến; một số nơi có biểu hiện coi nhẹ, chậm chỉ đạo thực hiện, không thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, đã phát hiện nhiều vụ án tham nhũng lớn mà người đứng đầu là chủ mưu, đồng phạm, lợi ích nhóm27. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập nêu trên là do quy định nhằm bảo đảm kiểm soát quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn của các cơ quan trong hệ thống chính trị còn chưa cụ thể, thiếu chặt chẽ. Bên cạnh đó, sự thiếu kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực trên thực tế cũng dẫn tới tình trạng lạm quyền để trục lợi cá nhân, cấu kết “sân sau”, “lợi ích nhóm”... Thực tiễn cho thấy, quyền lực nếu không được kiểm soát chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến tha hóa quyền lực và là nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng. Vì vậy, trong thời gian tới, xóa bỏ sự mặc định sống chung với tham nhũng nói chung và chấp nhận các chi phí không chính thức nói riêng, các cơ quan chức năng cần cụ thể hóa quy định về kiểm soát quyền lực đã được hiến định. Chính phủ, các bộ, ngành địa phương cần tiếp tục sửa đổi thể chế chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và đáp ứng thông lệ quốc tế; tổng kết, đánh giá thực hiện Luật Quản lý thuế, từ đó nghiên cứu đề xuất sửa đổi theo hướng bảo đảm thống 27 Xem nhất, đồng bộ với mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý thuế theo hướng hiện đại, dựa trên quản lý rủi ro; tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, tăng cường công khai minh bạch, áp dụng công nghệ thông tin đồng bộ và toàn diện trong giải quyết thủ tục hành chính thuế và kết nối với hệ thống thông tin của các bộ, ngành; các cơ quan chức năng và Chính phủ cần có biện pháp quyết liệt và hiệu quả hơn nhằm rà soát lại các lĩnh vực thuộc quyền quản lý của mình để cương quyết loại bỏ tất cả các khoản phí ngầm, các khoản thu không đúng chế độ nhằm tạo dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp ổn định và phát triển, trước mắt tập trung vào những khâu, lĩnh vực có nguy cơ cao như kiểm tra thuế, thanh tra thuế và kê khai, quyết toán thuế, hoàn thuế...; khắc phục triệt để tình trạng thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp một cách tùy tiện. Quá trình xóa bỏ những thể chế kìm hãm doanh nghiệp, điều chỉnh những thể chế làm lệch lạc, lãng phí các nguồn lực doanh nghiệp, lấp đầy những “khoảng trống thể chế” cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển lành mạnh, hiệu quả đã, đang và sẽ từng bước định hình một tầm nhìn mới, một thực tiễn mới và mở ra triển vọng phát triển mới với nhiều thay đổi về chất đối với vai trò, vị thế và cách thức tổ chức mới của kinh tế cả nước nói chung, khu vực tư nhân nói riêng trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ chuyển mình đồng hành cùng thế giới... CHÑNH SAÁCH 40 Số 12(340) T6/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcai_thien_moi_truong_kinh_doanh_va_nhung_nut_that_can_thao_g.pdf
Tài liệu liên quan