KẾT LUẬN
Bón phân vô cơ (1,5 kg N, 1,0 kg
P2O5 và 1,7 kg K2O) kết hợp phân hữu
cơ (18 kg.cây-1.năm-1) trên nền vôi 7,5
kg.cây-1 giúp cải thiện rút ngắn được
thời gian ra chồi từ (14 – 19 ngày), chiều
dài chồi tăng từ (5 – 10 cm) và đường
kính chồi tăng từ (0,1 – 0,2 cm), giúp
rút ngắn thời gian ra hoa trái vụ chôm
chôm, tăng trọng lượng trái. Hiệu quả
cải thiện năng suất tăng cao khoảng 1,3
– 1,5 lần so với nghiệm thức chỉ sử dụng
phân vô cơ theo nông dân. Mặt khác,
đặc tính hóa học đất và dinh dưỡng trong
đất được cải thiện so với chỉ bón phân
vô cơ. Kết quả nghiên cứu góp phần
khẳng định hiệu quả bón kết hợp phân
hữu cơ và phân vô cơ cân đối trong việc
cải thiện sinh trưởng, khả năng ra hoa và
năng suất cây trồng cũng như chất lượng
đất liếp vườn trồng cây lâu năm.
14 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải thiện một số đặc tính nông học và năng suất trái chôm chôm (nephelium lappaceum L) qua sử dụng phân hữu cơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
100
CẢI THIỆN MỘT SỐ ĐẶC TÍNH NÔNG HỌC VÀ NĂNG SUẤT
TRÁI CHÔM CHÔM (Nephelium lappaceum L.)
QUA SỬ DỤNG PHÂN HỮU CƠ
Võ Văn Bình1* và Võ Thị Gương2
1Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô
(Email: vvbinh@tdu.edu.vn)
Phòng QLKH&HTQT, Trường Đại học Tây Đô
Ngày nhận: 28/3/2018
Ngày phản biện: 06/4/2018
Ngày duyệt đăng: 25/4/2018
TÓM TẮT
Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 300.000 ha vườn cây ăn trái với sản lượng hơn 3
triệu tấn/năm, trong đó chôm chôm (Nephelium lappaceum L.) là cây ăn trái có giá trị kinh
tế cao. Tuy nhiên năng suất trái thấp, đất liếp vườn bị bạc màu. Nghiên cứu được thực hiện
nhằm mục tiêu đánh giá hiệu quả của phân hữu cơ trong cải thiện sự tăng trưởng và năng
suất trái chôm chôm trên liếp vườn lâu năm. Thí nghiệm được thực hiện trên đất liếp vườn
trồng chôm chôm 17 năm trên nhóm đất Endo Protho Thionic Gleysols tại xã Phú Phụng,
huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Ba loại phân hữu cơ được nghiên cứu trong thí nghiệm gồm
bã bùn mía, cặn hầm ủ biogas và phân trùn quế, với liều lượng 18 kg.cây-1 bón kết hợp với
phân vô cơ theo khuyến cáo, so với lượng phân vô cơ như nông dân. Tất cả nghiệm thức
đều được bón vôi nền 7,5 kg.cây-1. Sau sáu vụ bón phân hữu cơ, sinh trưởng của cây chôm
chôm ở các nghiệm thức có bón phân hữu cơ được cải thiện (p < 0,05) so với nghiệm thức
chỉ bón phân vô cơ. Đường kính chồi và chiều dài của chồi tại thời điểm lá trưởng thành
đều cao hơn ở các lô bón phân hữu cơ (p < 0,05). Thời gian ra hoa ở các nghiệm thức bón
phân hữu cơ sớm hơn 15 ngày so với nghiệm thức chỉ bón phân vô cơ (p < 0,05). Trọng
lượng trái được cải thiện có ý nghĩa ở nghiệm thức bón phân bã bùn mía và cặn hầm ủ
biogas. Kích thước trái to hơn ở các nghiệm thức bón phân hữu cơ (p < 0,05), thể hiện qua
số trái ít hơn trên đơn vị trọng lượng. Năng suất trái cao ở các nghiệm thức bón phân hữu
cơ so với nghiệm thức chỉ sử dụng phân vô cơ (p < 0,05). Măt khác, độ phì nhiêu đất được
cải thiện như pH đất, chất hữu cơ, đạm hữu dụng, đạm hữu cơ dễ phân hủy, lân hữu dụng,
kali trao đổi, calcium trao đổi, magnesium trao đổi, phần trăm base bão hòa trong đất. Kết
quả nghiên cứu giúp khẳng định hiệu quả của phân hữu cơ và khuyến cáo sử dụng phân
hữu cơ trên đất liếp vườn trồng chôm chôm lâu năm.
Từ khoá: Vườn chôm chôm, năng suất trái, phân hữu cơ, phì nhiêu đất.
Trích dẫn: Võ Văn Bình và Võ Thị Gương, 2018. Cải thiện một số đặc tính nông học và
năng suất trái chôm chôm (Nephelium lappaceum L.) qua sử dụng phân hữu cơ.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế, Trường Đại học Tây Đô.
03: 100-113.
*TS. Võ Văn Bình, Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
101
1. GIỚI THIỆU
Vườn cây ăn trái vùng đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) được xem là
vùng trồng cây ăn trái quan trọng. Hiện
nay có gần 300.000 ha với sản lượng
hơn 3 triệu tấn/năm, chiếm khoảng 38%
về diện tích và 46% về sản lượng trái
cây của cả nước (Niên giám thống kê,
2010). Trong đó, chôm chôm
(Nephelium lappaceum L.) là cây ăn trái
có giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế
khá cao, được trồng nhiều ở các tỉnh như
Bến Tre, Vĩnh Long, Tiền Giang. Huyện
Chợ Lách, Bến Tre là vùng trọng điểm
trồng cây ăn trái, diện tích trồng cây
chôm chôm là 1.744 ha, mang lại hiệu
quả kinh tế cao cho nông dân. Tuy
nhiên, phần lớn nông dân canh tác chôm
chôm theo kinh nghiệm truyền thống,
bón phân chưa hợp lý, năng suất trái
thấp so với tiềm năng đạt năng suất cao
nếu được áp dụng các biện pháp canh tác
tốt.
Với điều kiện tự nhiên ở đồng bằng
sông Cửu Long, vườn cây ăn trái được
trồng trong khu vực có bờ bao ngăn lũ
đồng thời được lên liếp. Nhiều vườn đã
có tuổi liếp trên ba mươi năm và có biểu
hiện suy giảm độ phì nhiêu đất. Sự giảm
độ phì nhiêu tự nhiên về mặt hóa, lý,
sinh học đất thể hiện qua pH đất thấp,
hàm lượng chất hữu cơ trong đất thấp và
sự giảm khả năng cung cấp các dưỡng
chất cần thiết cho cây trồng như N, P, K,
Ca, Mg, độ bền cấu trúc đất kém, đất trở
nên nén dẽ, giảm khả năng thấm nước và
thoát nước (Diczbalis, 2002; Võ Thị
Gương và ctv., 2010; Pham Van Quang
and Vo Thi Guong, 2011). Về mặt sinh
học đất, đất vườn đã được lên liếp lâu
năm, hoạt động của vi sinh vật đất giảm
đưa đến sự chuyển hóa dưỡng chất kém,
giảm sự đối kháng trong kiểm soát bệnh
hại từ đất (Shibistova et al., 2009). Sự
nghèo dưỡng chất và giảm độ hữu dụng
chất dinh dưỡng trong đất đưa đến sự
sinh trưởng và phát triển của cây trồng
bị hạn chế, năng suất và phẩm chất kém
(Rayner et al., 1996; Brady and Weil,
2002). Sử dụng phân bón hóa học lâu dài
với liều lượng cao ảnh hưởng suy giảm
độ phì nhiêu đất và giảm hoạt động của
vi sinh đất. Liếp vườn cây ăn trái lâu
năm đưa đến sự bạc màu đất, giảm chất
hữu cơ và độ phì nhiêu đất (Võ Thị
Gương và ctv., 2010). Phế phẩm thực
vật, phân hữu cơ ủ hoai bón vào đất giúp
cải thiện sự bạc màu đất và giúp cải
thiện năng suất vườn cây ăn trái (Ngô
Thị Hồng Liên và Võ Thị Gương, 2007;
Võ Thị Gương và ctv., 2010; Steven,
2011; Dương Minh Viễn và ctv., 2011).
Kết quả thí nghiệm qua một vụ canh tác
và sử dụng phân bón hữu cơ có khuynh
hướng giúp cải thiện một số đặc tính hóa
học và sinh học đất (Vo Thi Guong et
al., 2009). Nghiên cứu cho thấy bón
phân hữu cơ với lượng (20 – 30 tấn. ha-
1) liên tục trong 4 năm giúp chồi ngọn
của táo và lê phát triển dài hơn so với
không bón phân hữu cơ (Lind et al,.
2003). Theo kết quả nghiên cứu của
Diczbalis, (2002) đường kính của chồi
lớn, biểu thị cây khỏe mạnh, đồng thời
giúp cây nuôi hoa và trái tốt. Do đó, tác
động biện pháp cải thiện độ phì nhiêu
đất giúp tăng sinh trưởng và phát triển
cây là rất cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu
của đề tài là đánh giá tác động của phân
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
102
hữu cơ giúp cải thiện một số đặc tính
nông học và năng suất trái chôm chôm.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thí nghiệm được tiến hành trên vườn
của nông dân tại xã Phú Phụng, huyện
Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Vườn trồng
chuyên canh cây chôm chôm
(Nephelium lappaceum L.) có độ tuổi
liếp là 17 năm, tuổi cây 15 năm và đất
thuộc nhóm đất Endo Protho Thionic
Gleysol (Theo hệ thống phân loại FAO-
UNESCO) thuộc biểu loại đất phèn tiềm
tàng.
Kết quả nghiên cứu được ghi nhận số
liệu ở vụ canh tác thứ sáu, sau khi bón
phân hữu cơ hằng năm. Thí nghiệm
được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn
ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức và 3 lần
lặp lại. Mỗi nghiệm thức có 2 cây trên
diện tích là 30 m2 với lượng phân N-P-K
bón theo khuyến cáo (1,5 kg N + 1,0 kg
P2O5 + 1,7 kg K2O/cây) được chia làm 4
lần bón/năm (Diczbalis, 2002; Vo Thi
Guong et al., 2009). Lượng vôi nền 7,5
kg.cây-1.năm-1 được bón cho tất cả các
nghiệm thức trong thí nghiệm. Trên đất
liếp vườn, mỗi ha trồng được 200 cây,
lượng phân hữu cơ 18 kg.cây-1 (ẩm độ
30%), tương đương 3,6 tấn.ha-1. Phân
hữu cơ được bón ngay sau vụ thu hoạch
trái. Hàm lượng dinh dưỡng trong phân
hữu cơ sử dụng cho thí nghiệm được
trình bày trong Bảng 1.
Các nghiệm thức bố trí cụ thể như
sau:
NT1: bón phân theo nông dân (2,2 kg
N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây-1
NT2: bón bã bùn mía (18 kg.cây-1) +
phân vô cơ theo khuyến cáo
NT3: bón cặn hầm ủ biogas (18
kg.cây-1) + phân vô cơ theo khuyến cáo
NT4: bón phân trùn (18 kg.cây-1) +
phân vô cơ theo khuyến cáo
Bảng 1. Hàm lượng dinh dưỡng của phân hữu cơ trước khi bố trí thí nghiệm
Hàm lượng
dinh dưỡng
N P K Ca Mg C
(%)
Bã bùn mía 1,90 2,50 0,34 0,35 0,27 29,8
Cặn hầm ủ biogas 1,45 0,55 0,36 0,06 0,27 37,0
Phân trùn quế 0,60 0,21 0,81 0,003 0,34 5,4
Phân hữu cơ bã bùn mía được thu từ
nhà máy đường Vị Thanh, tỉnh Hậu
Giang, cặn hầm ủ biogas được thu từ hộ
nông dân tại xã Phú Phụng, huyện Chợ
Lách, tỉnh Bến Tre và phân trùn quế
được thu từ hộ nuôi trùn quế ở Ô Môn,
thành phố Cần Thơ.
Chỉ tiêu ghi nhận
Năng suất trái: Năng suất trái được
ghi nhận qua trọng lượng trái trong mỗi
cây. Cân toàn bộ trọng lượng trái của các
lần thu hoạch của mỗi nghiệm thức và
được tính trung bình trên hai cây. Chỉ
tiêu số trái.kg-1 được tính qua thu ngẫu
nhiên trái trong 1 kg sau đó đếm lại số
trái.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
103
Sự phát triển chồi và thời gian ra
hoa trái vụ: Vào vụ thứ 6, sau bón phân
hữu cơ 10 chồi cố định trên tán cây theo
4 hướng được chọn (chỉ tính những chồi
phát triển sau khi cắt tỉa và bón phân).
Ghi nhận thời gian chồi mới phát triển,
ghi nhận đường kính chồi, thời gian xử
lý ra hoa của tất cả các nghiệm thức để
so sánh ảnh hưởng của bón phân hữu cơ
đến thời gian xử lý ra hoa. Các chỉ tiêu
ghi nhận như sau:
- Thời gian chồi mới nhú ra sau khi
cắt tỉa và bón phân
- Đường kính chồi được đo tại trung
điểm của chiều dài chồi ở thời điểm lá
trưởng thành.
- Ghi nhận thời gian ra hoa sau khi xử
lý ra hoa trái vụ bằng che phủ bạt.
Bảng 2. Phương pháp phân tích đất
Chỉ tiêu phân tích Phương pháp
pH đất Trích bằng nước cất, tỷ lệ trích 1 : 2,5 (đất:nước) và
được xác định bằng cách sử dụng điện cực [H+]
(Jackson, 1962; Hach, 1986)
Đạm hữu dụng N-
NH4 và N-NO3
Theo Gianello and Bremner (1986) phương pháp dựa
trên cơ sở trích các hợp chất N vô cơ trong đất bằng
dung dịch KCl 2M theo tỉ lệ 1:10 (đất: dung dịch).
Đạm hữu cơ dễ
phân hủy
Theo Gianello and Bremner (1986) sử dụng dung
dịch trích bằng KCl 2M đun nóng ở 100 oC trong 4
giờ. Dung dịch sau đó được xác định đạm N-NH4
theo phương pháp Kjeldahn có thêm MgO để tạo môi
trường kiềm và chuẩn độ bằng H2SO4 0.0025M.
Lân dễ tiêu
trong đất
Dung dịch trích sodium hydrogen carbonate (theo
phương pháp Olsen, 1954). Phương pháp sử dụng
dung dịch trích NaHCO3 0,5M ở pH 8,5, tỉ lệ đất và
dung môi 1:20 lắc trong thời gian 30 phút.
Chất hữu cơ
trong đất
Theo phương pháp Walkley- Black (1934) trên
nguyên tắc oxy hóa chất hữu cơ bằng K2Cr2O7 trong
môi trường H2SO4 đậm đặc, sau đó chuẩn độ lượng
dư K2Cr2O7 bằng FeSO4 0,1 N.
Kali trao đổi
trong đất
được đo ở dung dịch trích mẫu đất với BaCl2 0,1 M
không đệm trên máy hấp thu nguyên tử (Atomic
Absorption Spectrophotometer) độ dài sóng 766 nm.
Calci và
Magnesium trao đổi
Trích bằng dung dịch BaCl2 không đệm và đo bằng
máy hấp thu nguyên tử ở độ dài sóng Ca 422,7 nm và
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
104
trong đất Mg 285,2 nm.
Khả năng hấp
phụ cation
Trích mẫu đất với BaCl2 0,1 M không đệm, đo trên
máy hấp thu nguyên tử; CEC (xác định theo phương
pháp không đệm của Gillman, 1979).
Đánh giá trọng
lượng trái
Trên từng cây thu ngẫu nhiên 1 kg trái với 3 lần lặp lại
tương ứng với 3 kg để đếm số trái và tính trung bình
số trái.kg-1 trong từng nghiệm thức.
Đánh giá năng
suất
Trong mỗi lần thu hoạch trái, trọng lượng trái từng
cây được ghi nhận. Tổng hợp trọng lượng trái của tất
cả các lần thu hoạch để tính năng suất cho từng cây.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thí nghiệm thu thập được xử
lý bằng phần mềm Microsoft Excel,
được tính toán giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn, phân tích ANOVA và phép thử
LSD (0,05) bằng phần mềm thống kê
MSTAT-C so sánh sự khác biệt giữa các
nghiệm thức trong thí nghiệm.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiệu quả cải thiện độ phì nhiêu
đất vườn chôm chôm
Kết quả phân tích mẫu đất cho thấy
bón hữu cơ, pH đất có khuynh hướng gia
tăng ở tất cả các nghiệm thức, hàm
lượng chất hữu cơ trong đất được tích
lũy đạt khá đến giàu, đạm và lân hữu
dụng, cation trao đổi và phần trăm base
bão hòa cao hơn (p < 0,05) so với
nghiệm thức chỉ bón phân vô cơ (Bảng
3). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
trước đây là sử dụng phế phẩm thực vật,
phân hữu cơ ủ hoai bón vào đất giúp cải
thiện sự bạc màu đất và giúp cải thiện
năng suất cây trồng (Ngô Thị Hồng Liên
và Võ Thị Gương, 2007; Võ Thị Gương
và ctv., 2013; Steven, 2011; Dương
Minh Viễn và ctv., 2011).
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
105
Bảng 3. Hàm lượng dinh dưỡng trong đất vườn chôm chôm sau bón phân hữu cơ
Nghiệm thức/chỉ
tiêu
NT1 NT2 NT3 NT4 CV (%) LSD
(5%)
pH đất 3.7 d 5.3 a 4.1 c 4.5 b 3.4 0.3
Chất hữu cơ
(g C.kg-1 đất)
26.9 c 44.1 a 36.3 b 35.2 b 7.2 5.2
N hữu dụng
(mg.kg-1 đất).
225,6c 324,9a 227,3c 264,7b 3,4 17,8
N hữu cơ dễ phân
hủy (mg.kg-1 đất).
21.8 d 40.7 a 32.0 b 27.5 c 4.8 2.9
P hữu dụng (mg.kg-
1 đất).
278.4c 372.5 a 344.8b 328.2 b 4.1 27.1
K trao đổi
(cmol.kg-1 đất)
0.6 b 1.4 a 1.37 a 1.3 a 4.6 0.1
CEC (cmol.kg-1
đất)
14.0 c 16.4 a 15.1 b 14.6 bc 2.4 0.7
Ca trao đổi
(cmol.kg-1 đất)
4.6 c 9.3 a 8.8 a 5.5 b 4.1 0.5
Mg trao đổi
(cmol.kg-1 đất)
1.0 c 1.2 b 1.2 b 1.5 a 7.1 0.2
Base bão hòa (%) 40.5 b 58.4 a 55.6 a 54.3 a 6.5 6.8
Ghi chú: a, b, c, d là thể hiện mức độ khác biệt có ý nghĩa theo hàng
NT1: bón theo nông dân (2,2 kg N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây
-1.
NT2: bón bã bùn mía 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT3: bón cặn hầm ủ biogas 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT4: bón phân trùn quế 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
3.2 Ảnh hưởng của phân hữu cơ
đến thời gian ra chồi của cây
Kết quả trình bày ở Hình 1 cho thấy
vào vụ bón phân hữu cơ lần thứ sáu, thời
gian ra chồi của cây chôm chôm được
rút ngắn hơn (24 - 26 ngày), khác biệt ý
nghĩa (p < 0,05) so với nghiệm thức chỉ
bón phân vô cơ ở lượng cao theo tập
quán của nông dân (29 ngày). Đến thời
gian ra cơi chồi thứ hai, khi cơi chồi thứ
nhất đã trưởng thành, kết quả cho thấy ở
nghiệm thức chỉ sử dụng phân vô cơ cơi
chồi 2 chậm hơn, mất thời gian đến 81
ngày khác biệt ý nghĩa so với bón phân
hữu cơ (p < 0,05).
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có
khác biệt ý nghĩa giữa thời gian ra cơi
chồi thứ 2 khi bón các loại phân hữu cơ
khác nhau (bã bùn mía: 66,3 ngày, cặn
hầm ủ biogas: 62 ngày và phân trùn quế:
74 ngày). Thời gian ra chồi nhanh là kết
quả từ ảnh hưởng hàm lượng dinh dưỡng
trong đất qua bón phân hữu cơ, giúp cải
thiện hàm lượng dinh dưỡng như đạm
hữu dụng, lân hữu dụng, kali trao đổi,
calcium trao đổi cao hơn so với nghiệm
thức chỉ bón phân vô cơ. So sánh giữa
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
106
các dạng phân hữu cơ cho thấy, phân
hữu cơ bã bùn mía và cặn hầm ủ biogas
hiệu quả hơn trong cải thiện và duy trì
dinh dưỡng trong đất, đồng thời giúp cây
sinh trưởng tốt hơn và dẫn đến thời gian
ra chồi nhanh hơn so với phân trùn quế.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của
Lind et al. (2003), bón phân hữu cơ với
lượng (20 – 30 tấn. ha-1) liên tục trong 4
năm giúp chồi ngọn của táo và lê phát
triển dài hơn so với không bón phân hữu
cơ.
a
a
b
c
b
d
b
b
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Chồi cơi 1 Chồi cơi 2
T
h
ờ
i
g
ia
n
r
a
ch
ồ
i
(n
g
ày
)
Thời gian ra chồi sau thu hoạch
NT1
NT2
NT3
NT4
Hình 1. Thời gian ra chồi của cây chôm chôm sau khi thu hoạch trái
Ghi chú: a, b, c, d là thể hiện mức độ khác biệt có ý nghĩa theo cột
NT1: bón theo nông dân (2,2 kg N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây
-1.
NT2: bón bã bùn mía 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT3: bón cặn hầm ủ biogas 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT4: bón phân trùn quế 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
3.3. Ảnh hưởng của phân hữu cơ
đến đường kính của chồi
Đường kính của chồi lớn, biểu thị cây
khỏe mạnh, đồng thời giúp cây nuôi hoa
và trái tốt (Diczbalis, 2002). Việc cung
cấp dinh dưỡng vào đất có hiệu quả
được xem là yếu tố ảnh hưởng đến
đường kính chồi (Lind et al., 2003). Kết
quả trình bày ở Hình 2 cho thấy đường
kính của chồi cơi 1 và cơi 2 đều được cải
thiện ở các nghiệm thức bón phân hữu
cơ (p < 0,05) so với nghiệm thức chỉ sử
dụng phân vô cơ. Nghiệm thức bón bã
bùn mía và cặn hầm ủ biogas cho kết
quả đường kính chồi cao nhất ở cả cơi
chồi 1 và 2. Đường kính chồi lớn hơn,
sự tăng trưởng tốt do một số đặc tính đất
được cải thiện qua bón phân hữu cơ như
chất hữu cơ trong đất, đạm hữu dụng,
lân hữu dụng, kali trao đổi, calcium và
magnesium trao đổi đều cao hơn so với
nghiệm thức chỉ bón phân vô cơ. So
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
107
sánh giữa các dạng phân hữu cơ cho
thấy phân hữu cơ bã bùn mía và cặn hầm
ủ biogas giúp tăng đường kính chồi cao
hơn so với phân trùn quế.
b
c
a
a
a
a
b
b
0
1
2
3
4
5
6
7
Chồi cơi 1 Chồi cơi 2
Đ
ư
ờ
ng
k
ín
h
ch
ối
(
cm
)
Đường kính chồi tại thời điểm lá trưởng thành NT1
NT2
NT3
NT4
Hình 2. Đường kính chồi tại thời điểm lá trưởng thành
Ghi chú: a, b, c, d là thể hiện mức độ khác biệt có ý nghĩa theo cột
NT1: bón theo nông dân (2,2 kg N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây
-1.
NT2: bón bã bùn mía 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT3: bón cặn hầm ủ biogas 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT4: bón phân trùn quế 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
Hình 3. Hiệu quả của phân hữu cơ trong cải thiện sự phát triển của chồi trong thời gian
xử lý ra hoa
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
108
3.4. Hiệu quả của phân hữu cơ
trong rút ngắn thời gian xử lý ra hoa
Nhiều nghiên cứu cho thấy bón phân
hữu cơ và vô cơ cân đối giúp cây sinh
trưởng mạnh, ra chồi nhanh và tốt, rút
ngắn thời gian xử lí ra hoa. Theo Trần
Văn Hâu và Châu Trùng Dương (2006),
chồi non sinh trưởng mạnh và đạt được
sự thành thục sớm là điều kiện cần thiết
để cây ra hoa sớm. Trong nghiên cứu
này, thời gian xử lý ra hoa trái vụ chôm
chôm ở các nghiệm thức bón phân hữu
cơ sớm hơn 15 ngày so với nghiệm thức
chỉ bón phân vô cơ theo nông dân (Hình
4). Thời gian ra hoa nghịch vụ để thu
hoạch chôm chôm sớm hơn là yếu tố rất
thuận lợi, giúp tăng thu nhập đáng kể
cho nông dân. Trong thực tế, nông dân
rút nước trong mương vườn để chôm
chôm ra hoa sớm, nghịch vụ, thu được
lợi nhuận cao hơn chính vụ.
a
b b b
0
10
20
30
40
50
60
70
NT1 NT2 NT3 NT4
T
hờ
i
gi
an
r
a
ho
a
(n
gà
y)
NT1
NT2
NT3
NT4
Hình 4. Ảnh hưởng của phân hữu cơ đến thời gian xử lý ra hoa
Ghi chú: a, b, c, d là thể hiện mức độ khác biệt có ý nghĩa theo nghiệm thức
NT1: bón theo nông dân (2,2 kg N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây
-1.
NT2: bón bã bùn mía 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT3: bón cặn hầm ủ biogas 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT4: bón phân trùn quế 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
3.5. Hiệu quả của phân hữu cơ
trong cải thiện năng suất trái chôm
chôm
Kết quả được ghi nhận cho thấy các
nghiệm thức bón phân bã bùn mía và
cặn hầm ủ biogas kết hợp phân vô cơ cải
thiện trọng lượng trái, trái to hơn, đưa
đến số trái trên mỗi kg ít hơn (Hình 5).
Đây là chỉ tiêu rất được thương lái thu
mua chôm chôm quan tâm. Như vậy, số
trái 33 trái/kg ở nghiệm thức chỉ sử dụng
phân vô cơ giảm còn 25 trái/kg khi bón
phân hữu cơ bã bùn mía và cặn hầm ủ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
109
biogas, (p < 0,05). Nghiệm thức bón
phân trùn quế chưa đạt hiệu quả tốt về
trọng lượng trái (Hình 5).
Kết quả trình bày ở Hình 6 cho thấy
năng suất trái ở các nghiệm thức có bón
phân hữu cơ tăng, đạt 29 - 30 tấn/ha,
khác biệt ý nghĩa thống kê so với
nghiệm thức chỉ sử dụng phân vô cơ như
nông dân, chỉ đạt 16 tấn/ha. Trong thực
tế canh tác, nông dân bón phân vô cơ
không cân đối với đạm và lân cao, rất ít
kali, đồng thời không bón phân hữu cơ.
Do đó, hiệu quả cung cấp dinh dưỡng
kém vì phân vô cơ dễ dàng bị rửa trôi
trên đất liếp vườn, ảnh hưởng đến các
đặc tính lý hóa, sinh học đất như khả
năng thấm nước kém, pH đất thấp, chu
trình chuyển hóa dưỡng chất kém do
họat động của vi sinh vật đất thấp, đưa
đến sinh trưởng của cây chôm chôm
kém, năng suất thấp. Kết quả phù hợp
với nghiên cứu trước đây là bón phân
hữu cơ kết hợp phân vô cơ cân đối giúp
cải thiện hiệu quả các tính chất hóa lý
sinh học đất như đạm hữu dụng, lân hữu
dụng, kali trao đổi, chất hữu cơ trong
đất, phần trăm base bão hòa tăng, từ đó
cải thiện chất lượng đất liếp vườn và
giúp tăng năng suất trái rất ý nghĩa,
(Valmayor et al., 1971; Monaco et al.,
2008; Võ Văn Bình và ctv., 2014).
a
b b
a
0
5
10
15
20
25
30
35
S
ố
t
rá
i.
k
g
-1
NT1
NT2
NT3
NT4
Hình 5. Số trái chôm chôm trên một đơn vị trọng lượng (kg)
Ghi chú: a, b, c, d là thể hiện mức độ khác biệt có ý nghĩa theo cột
NT1: bón theo nông dân (2,2 kg N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây
-1.
NT2: bón bã bùn mía 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT3: bón cặn hầm ủ biogas 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT4: bón phân trùn quế 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
110
c
a
a
a
0
5
10
15
20
25
30
35
NT1 NT2 NT3 NT4
N
ăn
g
su
ất
t
rá
i (
tấ
n.
ha
-1
)
Vụ 6
Hình 6. Năng suất trái chôm chôm ở vụ thứ 6 bón phân hữu cơ
Ghi chú: a, b, c, d là thể hiện mức độ khác biệt có ý nghĩa
NT1: bón theo nông dân (2,2 kg N, 1,5 kg P2O5 và 0,3 kg K2O).cây
-1.
NT2: bón bã bùn mía 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT3: bón cặn hầm ủ biogas 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
NT4: bón phân trùn quế 18 kg.cây-1 (1,5 kg N, 1,0 kg P2O5 và 1,7 kg K2O).cây
-1
4. KẾT LUẬN
Bón phân vô cơ (1,5 kg N, 1,0 kg
P2O5 và 1,7 kg K2O) kết hợp phân hữu
cơ (18 kg.cây-1.năm-1) trên nền vôi 7,5
kg.cây-1 giúp cải thiện rút ngắn được
thời gian ra chồi từ (14 – 19 ngày), chiều
dài chồi tăng từ (5 – 10 cm) và đường
kính chồi tăng từ (0,1 – 0,2 cm), giúp
rút ngắn thời gian ra hoa trái vụ chôm
chôm, tăng trọng lượng trái. Hiệu quả
cải thiện năng suất tăng cao khoảng 1,3
– 1,5 lần so với nghiệm thức chỉ sử dụng
phân vô cơ theo nông dân. Mặt khác,
đặc tính hóa học đất và dinh dưỡng trong
đất được cải thiện so với chỉ bón phân
vô cơ. Kết quả nghiên cứu góp phần
khẳng định hiệu quả bón kết hợp phân
hữu cơ và phân vô cơ cân đối trong việc
cải thiện sinh trưởng, khả năng ra hoa và
năng suất cây trồng cũng như chất lượng
đất liếp vườn trồng cây lâu năm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brady, N.C. and R.R. Weil,
2002.The nature and Properties of soil.
11th edition. Prentice Hall International
Inc., pp 447.
2. Diczbalis, Y., 2002. Rambutan
improving yield and quality. A report for
the Rural Industries Research and
Development Corporation. RIRDC, pp: 9-
69.
3. Dương Minh Viễn, Trần Kim Tính
và Võ Thị Gương, 2011. Ủ phân hữu cơ
vi sinh và hiệu quả trong cải thiện năng
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
111
suất cây trồng và chất lượng đất. Nhà
xuất bản Nông nghiệp.
4. Lind, K., G. Lafer, K. Schloffer, G.
Innerhofer and H. Meister, 2003.
Organic Fruit Growing.CABI Publishing
5. Monaco, S., D.J. Hatchb, D.
Saccoa, C. Bertoraa and C. Grignania,
2008. Changes in chemical and
biochemical soil properties induced by
11-yr repeated additions of different
organic materials in maize-based forage
systems. Soil Biology & Biochemistry,
40: 608-615
6. Ngô Thị Hồng Liên và Võ Thị
Gương, 2007. Ảnh hưởng của phân hữu
cơ và phân xanh trong cải thiện một số
tính chất hóa học và sinh học đất. Tạp
chí Khoa học Đất Việt Nam, ISSN 0868-
3743. Số 27: 68-72.
7. Pham Van Quang and Vo Thi
Guong, 2011. Chemical properties
during different stages of fruit orchards
in the Mekong delta, Vietnam.
Agricultural Science, 2 (3): 375-381.
8. Rayner, D., M. Coates and R.
Newby, 1996. Consequences of
pesticide use on spider communities in
mango orchards. Revue Suisse de
Zoologie, aout 1996. Hors serie, Vol. 1,
No. 6, pp: 537-542.
9. Shibistova, O., S. Tischer, Vo Van
Binh, Duong Minh Vien, Vo Thi Guong
and G. Guggenberger, 2009. Effect of
substrate application to alluvial soils on
soil microbial parameters in Rambutan
orchard. In: U. Arnold and F. Gresens
(eds), Closing Nutrien Cycle in
Decentralised Water Treatment Systems
in the Mekong Delta. SANSED Project -
Final report. ISBN: 3-937941-14-2, pp:
186-194.
10. Steven L. McGeehan, 2011.
Impact of Waste Materials and Organic
Amendments on Soil Properties and
Vegetative Performance.Hindawi
Publishing Corporation Applied and
Environmental Soil Science Volume
2012, Article ID 907831, 11 pages.
11. Trần Văn Hâu và Châu Trùng
Dương, 2006. Một số đặc tính sinh học
của sự ra hoa cây Chôm Chôm Java
được canh tác tại Cần Thơ. Tạp chí
Khoa học Trường ĐHCT, ISSN 1859-
2333. Số 6: 53-59.
12. Valmayor, R.V., D.B. Jr.
Mendoza, H.B. Aycardo and C.O.
Palencia, 1971. Growth and flowering
habits, floral biology and yield of
rambutan. Philippines Agriculture 9:
359-374.
13. Võ Thị Gương, Châu Minh Khôi,
Huỳnh Văn Định, Nguyễn Hồng Giang,
Trần Huỳnh Khanh. 2013. Hiệu quả của
phân vô cơ và hữu cơ trong cải thiện
năng suất tiêu (Piper Nigrum L.) tại Phú
Quốc. Tạp chí Khoa học Trường ĐHCT,
ISSN 1859-2333. Số 26. 70-75.
14. Võ Thị Gương, Ngô Xuân Hiền,
Hồ Văn Thiệt và Dương Minh, 2010.
Cải thiện sự suy giảm độ phì nhiêu hóa
lý và sinh học đất vườn cây ăn trái ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất
bản Đại học Cần Thơ.
15. Vo Thi Guong, Vo Van Binh, U.
Arnold, G. Guggenberger and M.
Becker, 2009. Shorterm effect of organic
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
112
material amendments effect on soil
properties and plant performance of
rambutan (Nephelium lappaceum L.)
orchard. In: U. Arnold and F. Gresens
(eds), Closing Nutrien Cycle in
Decentralised Water Treatment Systems
in the Mekong Delta. SANSED Project -
Final report. ISBN: 3-937941-14-2, pp:
178-185.
16. Võ Văn Bình, Võ Thị Gương, Hồ
Văn Thiệt, Lê Văn Hòa, 2014. Ảnh
hưởng dài hạn của phân hữu cơ trong cải
thiện độ phì nhiêu đất và năng suất trái
chôm chôm tại Chợ Lách, Bến Tre. Tạp
chí Khoa học Trường ĐHCT, ISSN
1859-2333. Số chuyên đề, Tập 3. 133-
141.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 03 - 2018
113
EFFECT OF ORGANIC AMENDAMENT ON IMPROVEMENT OF
GROWTH AND FRUIT YIELD OF RAMBUTAN
(Nephelium lappaceum L.)
Vo Van Binh1 and Vo Thi Guong2
1Faculty of Applied Biology, Tay Do University
(Email: vvbinh@tdu.edu.vn)
2Department of Research Affairs and International Relations, Tay Do University
ABSTRACT
There are about 300 thousand hectares of fruit orchards in The Mekong Delta, with a
total output of three million tons per year. In which rambutan is one of the high
economic value fruit. However, low fruit yield and soil degradation were recorded. The
study aimed at evaluating the efficiency of organic fertilizers in improvement the
growth and yield of rambutan in long-term cultivated orchard. This study was executed
on rambutan orchard, with raised-beds over 17-year-olds, on Endo Protho Thionic
Gleysols soil, at Phu Phung, Cho Lach district, Ben Tre province. Three different
organic fertilizers (sugarcane filter cake, biogas sludge and vermi-compost) were
applied with a dose of 18 kg.plant-1 combined with low dose of inorganic fertilizers.
Application of only inorganic fertilizer similar to farmer’s practice was used as a
control treatment. Liming with a dose of 7.5 kg.plant-1 was applied to all treatments.
Experimental data was obtained in the sixth year after organic fertilizers amendment.
The results showed that organic treated led to 15 days earlier of flowering date
compared to control treatment (p < 0.05). In addition, the diameter and the length of
new branches were higher (p < 0.05). Fruit weigh was high in organic treatment,
which were higher efficiency in sugarcane filter cake and biogas sludge than vermi-
compost. Fruit yield was incredible increased from 1,3 to 1,5 times in organic
application compared to control treatment (p < 0,05). Concerning soil fertility, three
kinds of compost application resulted in increase soil pH, soil organic matter content,
soil available nitrogen and phosphorus, soil labile organic nitrogen, exchangeable
cations and base saturation percentage, in compared to farmers’ practice (p < 0.05).
These results supported previous studies revealing the effect of organic amendment and
giving reccomendation for improving the growth and yield of fruit orchard in long-term
cultivated raise-beds.
Keywords: Fruit yield, organic amendment, rambutan orchard, raise-bed, soil fertility.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cai_thien_mot_so_dac_tinh_nong_hoc_va_nang_suat_trai_chom_ch.pdf