Trong lĩnh vực áp dụng phương pháp tưới mới,
nồng độ clorua trong nước tại vùng rễ đo được
là 31.1 và 46.5 mg L-1 (0.89 và1.31 meq L-1)
tương ứng cho vụ trồngHè-Thu và Đông-Xuân.
Trong khi đó, trong ruộng tham chiếu, nồng độ
clorua lên tới 277 mg L-1 (7.8 meq L-1) và 328
mg L-1 (9 meq L-1) tương ứng cho vụ trồngHè-
Thu và Đông-Xuân (Bảng 2, 3) và Hình 15).
Kết quả này cho thấy một thực tế là việc duy trì
tưới nước ngọtcho toàn ruộng quanh năm đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc khử mặn và muối
được hòa tan để xâm nhập xuống dưới sâu hơn
vùng rễ. Bằng cách này, năng suất cây trồng có
thể cải thiện. Năng suất hạt gạo được sản xuất
từ hai ruộng được trình bày trong Bảng 4.
Như đã thấy trong Bảng 4, năng suất lúa đầy hạt
ở cả hai ruộng trong vụ trồng Hè-Thu cao hơn
so với vụ trồng Đông-Xuân. Điều này có thể do
sự khác biệt trong điều kiện thời tiết giữa hai
mùa. Trong giai đoạn 2015-2017, nhiệt độ
không khí trung bình trong mùa đông chỉ có 15-
16 oC và nhiệt độ này không thích hợp để lúa
phát triển hệ thống rễ, đặc biệt là trong giai đoạn
đầu, từ ngày đầu đến ngày thứ mười sau khi cấy.
Mặt khác, từ Bảng 4,chúng ta cũng có thể thấy
rằng năng suất của tổng số hạt được sản xuất từ
hai ruộng trong hai mùa được so sánh với nhau
từ 5,8 đến 5,9 tấn ha-1. Tuy nhiên, hạt lép trong
ruộng chiếu chiếm từ 280 đến 370 kg ha-1, cao
gấp gần 2 lần so với ruộng áp dụng phương
pháp tưới mới. Dường như phương pháp tưới
tiêu mới đã cải thiện các điều kiện như vận
chuyển dinh dưỡng cho cây trồng để sản xuất
thành công hạt lúa đầy, làm tăng năng suất hạt
có thể ăn được.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải thiện phương pháp tưới tiêu để giảm thiểu độ mặn trong vùng rễ nhằm nâng cao năng suất lúa ở vùng ven biển phía bắc Việt Nam thông qua kỹ thuật đồng vị và các kỹ thuật khác liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 1
CẢI THIỆN PHƯƠNG PHÁP TƯỚI TIÊU ĐỂ GIẢM THIỂU ĐỘ MẶN
TRONG VÙNG RỄ NHẰM NÂNG CAO NĂNG SUẤT LÚA Ở VÙNG VEN
BIỂN PHÍA BẮC VIỆT NAM THÔNG QUA KỸ THUẬT ĐỒNG VỊ VÀ
CÁC KỸ THUẬT KHÁC LIÊN QUAN
Dương Hải Sinh, Khương Minh Cường
Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường
Đặng Đức Nhận
Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam
Hà Lan Anh
Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân
L.K. Heng
Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, IAEA
Tóm tắt: Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu tìm kiếm một phương pháp tưới tiêu phù hợp thay thế
phương pháp truyền thống để giảm thiểu độ mặn trong vùng rễ nhằm cải thiện năng suất của các
giống lúa “thơm” đặc biệt được trồng trên Đất mặn nhiều ở vùng ven biển Hải Huyện Hậu, tỉnh Nam
Định, miền Bắc Việt Nam. Đối với nghiên cứu này, kỹ thuật đồng vị kết hợp với các kỹ thuật thủy văn
đã được áp dụng để điều tra nguồn gốc của độ mặn trong nước tại vùng rễ. Các kỹ thuật bao gồm: i)
xác định mối liên hệ giữa tỷ lệ đơterivà oxy-18 ký hiệu(2H và18O) trong lượng mưa cục bộ, trong
nước tưới và trong nước tại vùng rễ; ii)điều tra mối liên hệ giữa hàm lượngion Ca2+, Mg2+ and Na+trao
đổi và nồng độ clorua trong nước lỗ rỗng; iii)điều tra mối liên hệ của18O vànồng độ clorua trong
nước tại vùng rễ. Biết được nguồn gốc của độ mặn trong vùng rễ, người ta có thể đề xuất một phương
pháp tưới tiêu mới nhằm giảm thiểu độ mặn trong đất trồng trọt.
Từ khóa: xâm nhập nước mặn; tưới tiêu; tỷ lệ oxy-18, trao đổi ion Ca-Na
Summary: The purpose of this study was to search for an appropriate irrigation practice to replace the
traditional one in order to mitigate salinity in root zone for improving the yield of the special “fragrance”
rice varieties planted on Hapli Salic Fluvisols in a coastal area of the Hai Hau district, Nam Dinh
province, North Vietnam. For this, isotopic combined with hydrogeological techniques were applied to
investigate the source of salinity in water within the root zone. The techniques include: i) determination
of the relationship between deuterium and oxygen-18 signatures (2H and 18O) in the local
precipitation, in the irrigation water, and in water within root zone; ii) investigation into the relationship
between concentrations of exchangeable Ca2+, Mg2+ and Na+ cations and concentration of chloride
in soil-pore water; iii) investigation into the relation of the 18O and chloride concentration in water
within the root zone. Knowing the source of salinity in the root zone one could be able to suggest a new
irrigation practice to mitigate the salinity in the cultivated soil.
Key words: salt water intrusion; irrigation; oxygen-18 signature, Ca-Na cation exchange
LỜI MỞ ĐẦU*
Trong lịch sử phát triển địa lý lâu đời, ở phía bắc
Việt Nam, sông Hồng đã tạo ra một đồng bằng
Ngày nhận bài: 24/9/2018
Ngày thông qua phản biện: 26/10/2018
màu mỡ gọi là đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).
ĐBSH có diện tích khoảng 15.000km2 (1,5 triệu
ha), trong đó có gần 20 triệu cư dân đang sinh
Ngày duyệt đăng: 15/11/2018
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 2
sống. Theo ước tính, hơn 50% tổng diện tích của
ĐBSH thấp hơn 2m so với mực nước biển trung
bình (Pruszak và cộng sự, 2001). Trong tổng diện
tích của vùng đồng bằng, 1,2 triệu ha hiện đang
được sử dụng cho canh tác (Bộ NN & PTNT,
2010). Năng suất hàng năm của cây ngũ cốc từ
vùng đồng bằng được ước tính lên đến 6,1 triệu
tấn (Bộ NN & PTNT, 2010). Để duy trì năng suất
cây trồng, các triều đại phong kiến Việt Nam cũng
như nông dân địa phương đặc biệt chú ý đến công
tác tưới tiêu. Một mạng lưới đê bao phủ dày đặc
đã được xây dựng từ thế kỷ 13 để bảo vệ đất khỏi
ngập lụt từ hệ thống sông và bão từ biển.
Phương pháp tưới tiêu chính được sử dụng trong
vùng ĐBSH là tưới ruộng lúa với hiệu quả sử
dụng nước thấp và chi phí điện cao (khoảng 300
kwh/ha, Fontenelle, 2001). Ngày nay, ở vùng
ĐBSH, phương pháp canh tác đã được thay đổi
nhiều, chuyển sang sử dụng các phương tiện cơ
học. Để vận hành máy dễ dàng hơn, trước khi thu
hoạch lúa, nông dân địa phương xả hết nước ra
khỏi đồng ruộng và rơm rạ được dọn sạch rồi đốt
cháy (Hình 2a). Việc này khiến cho cánh đồng
giữa hai mùa lúa trống không dẫn đến đất bị nứt
dưới thời tiết nóng (Hình 2b). Đất nứt tạo điều
kiện bốc hơi để lại muối trong đất tồn tại trong
vùng rễ sâu 1,0-1,2 m so với bề mặt. Độ mặn cao
trong đất canh tác được cho là nguyên nhân khiến
năng suất cây trồng thấp ở dọc bờ biển thuộc vùng
ĐBSH.
Mục tiêu của nghiên cứu này là phát triển một
phương pháp tưới tiêu thay thế nhằm nâng cao
năng suất lúa trồng trên Đất mặn nhiều với độ
mặn tương đối cao ở huyện Hải Hậu, miền Bắc
Việt Nam. Nghiên cứu được hỗ trợ bằng việc sử
dụng các kỹ thuật đồng vị, cụ thể là sử dụng
đồng vị ổn định nước của đetơri và oxy-18 trong
các loại nước khác nhau: nước mưa, nước tưới,
nước trong vùng rễ và mối liên hệ với nồng độ
ion clorua như một chất chỉ thị cho muối biển.
Dường như việc áp dụng kỹ thuật đồng vị trong
nghiên cứu để cải thiện phương pháp tưới tiêu
ở vùng ven biển nhằm đạt năng suất cây trồng
cao được tiến hành lần đầu tiên tại Việt Nam.
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Cánh đồng với diện tích 5 ha ở xã Hải Thịnh,
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, nằm ở phía tây
nam vùng ĐBSH đã được lựa chọn cho nghiên
cứu này. Hình 3 mô tả lược đồ vị trí nghiên cứu
và Hình 4 là ruộng được sử dụng cho nghiên
cứu.
Hình 3. Lược đồcho thấy khu vực nghiên cứu
tại xã Hải Thịnh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định, nằm ở phía tây nam vùng Đồng bằng
sông Hồng (ĐBSH)
Huyện Hải Hậu thuộc tỉnh Nam Định nổi tiếng
trên toàn quốc và một số nơi trên thế giới với
các giống lúa truyền thống đặc biệt, Tám
“thơm”, cách đây rất lâu đã được xuất khẩu
sang Pháp cho người tiêu dùng Pháp-Việt với
một mức giá cao hơn. Trong những thập kỷ qua,
năng suất của các giống lúa và cây trồng khác
ngày càng thấp hơn. Các nhà nông học Việt
Nam đã xác định nguyên nhân làm giảm sản
lượng lúa trong khu vực đó làdo hàm lượng
muối trong đất tăng mặc dù nước tưới là nước
ngọt. Nồng độ clorua trong nước ở khu vực
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 3
nghiên cứu được đo là hơn 2.500 mg L-1. Độ pH
của đất cả trong nước và dung dịch KCl từ 5 (bề
mặt) đến 7,8 (ở độ sâu 140-160 cm so với bề
mặt) (Phạm Anh Tuấn và cộng sự, 2013).
Phương pháp tưới tiêu hiện đang được nông dân
địa phương sử dụng là ruộng lúa truyền thống
giống như ở các vùng ven biển khác như đã đề
cập ở trên.
Hiện tượng xâm nhập mặn hiện đang được các
nhà địa chất học Việt Nam cũng như các nhà
địa chất thủy văn quốc tế nghiên cứu và vấn
đề vẫn còn đang được thảo luận. Câu hỏi đặt
ra là liệu độ mặn trong tầng chứa nước cạn có
nguồn gốc từ biển hay chỉ là do sự khuếch tán
từ các lỗ hổng của trầm tích tầng chứa nước?
HỆ THỐNG THOÁT NƯỚC VÀ TƯỚI
TIÊU TRONG KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Nước tưới ở huyện Hải Hậu được bơm từ sông
Ninh Cơ (Hình 3); đây là một nhánh của sông
Hồng. Nước bơm được cấp trước tiên vào kênh
chính dài 218 km sau đó đến các kênh thứ cấp
dài 838 km rồi chảy vào ruộng. Trong ruộng,
ngườinông dân đã tự tạo ra các kênh chéo để lấy
nước. Công tác tưới tiêu thường được Công ty
tưới tiêu trong huyện lên kế hoạch trong mùa
canh tác. Tổng số trạm bơm ở huyện Hải Hậu
là 68 trạm với công suất khoảng 60 000 m3/giờ.
Các trạm bơm ở các xã Hải An, Hải Giang và
Hải Ninh ở phía Bắc là các trạm tưới tiêu, còn
các xã Hải Châu và Hải Thịnh ở phía Nam là
các trạm thoát nước (Hình 3). Các hệ số tưới
tiêu của huyện Hải Hậu được ước tính là 1.16 L
s-1 ha-1 and 4.8 L s-1 ha-1, thấp hơn một chút so
với giá trị mục tiêu 1.25 L s-1 ha-1 L s-1 ha-1 and
5.5 L s-1 ha-1tương ứng (ND DARD, 2011).
PHƯƠNG PHÁP
Quy trình lấy mẫu
Các mẫu đất được lấy từ tám vị trí xung quanh
các phía và một vị trí ở giữa đồng để nghiên cứu
đặc tính của đất. Trong số 9 vị trí trên, 3 vị trí
dọc theo một đường chéo của ruộngđược quy
định lấy đất theo phẫu diện từ mặt đất xuống
sâu 1,0 m; đây là độ sâu vùng rễ của cây lúa. Ở6
vị trí còn lại xung quanh các phía ruộng, mẫu
đất chỉ được thu thập từ lớp đất canh tác, tức là
từ bề mặt đến độ sâu 20 cm. Các mẫu đất được
lấy bằng cách sử dụng một mũi khoan lấy mẫu
sâu (Eijkelkamp, Hà Lan). Các mẫu phẫu diện
đất được tách thành các phần dài 20 cm, tất cả
các mẫu phụ và mẫu đất bề mặt được lưu trữ
trong các lọ nhựa có nắp đậy chặt. Các mẫu
được vận chuyển đến phòng thí nghiệm ở Hà
Nội và bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC
cho đến khi phân tích.
Lượng mưa cục bộ được thu thập hàng tháng
bằng cách sử dụng một thiết bị được xây dựng
theo đề xuất của IAEA (IAEA, 2002). Thiết bị
được lắp đặt trên mái nhà của Trung tâm thủy
lợi Môi trường Ven biển và Hải đảo thuộc miền
Bắc (Việt Nam), nằm ở thị trấn Thịnh Phong,
cách ruộng lúa khoảng 2 km. Vào ngày giữa
tháng, nước trong thùng chứa được khuấy kỹ rồi
nhỏ giọt vào một lọ polyethylene mật độ cao
(HDPE) dung tích 50 ml và gửi đến phòng thí
nghiệm ở Hà Nội để phân tích thành phần đồng
vị.
Nước tưới được lấy mẫu ở năm điểm từ cửa
sông Ninh Cơ ngược dòng 20 km lên đến trạm
bơm Hải An (các điểm giao nhau được mô tả
trong hình 3) vào tháng 8 và tháng 12 hàng năm
vì đây là các tháng tương ứng cho mùa mưa và
mùa khô.
Ảnh hưởng của thủy triều đến mực nước ngầm
và thành phần hóa học của nước ngầm để suy
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 4
ranguyên nhân xâm nhập
mặn
Để theo dõi ảnh hưởng của thủy triều đến mực
nước ngầm trong vùng rễ, hai giếng cạn có độ sâu
1,5 m đã được đào ở 2 góc trong ruộng nghiên
cứu. Mỗi giếng gồm hai ống chống làm từ nhựa
PVC. Ống chống bên ngoài có đường kính trong
120 mm và chiều dài 1800 mm sao cho 300 mm
chiều cao ống nằm phía trên bề mặt ruộng để
nước tưới không chảy trực tiếp vào bên trong ống
mà chỉ thâm nhập vào vùng rễ. Ống chống bên
trong có đường kính trong 60 mm và có cùng
chiều dài. Phần đáy ống bên trong với chiều dài
400 mm được đục lỗ để cho nước vào. Phần đục
lỗ được phủ bằng các vật liệu PVC để bảo vệ các
lỗ không bị tắc dođất cát. Khoảng trống giữa hai
ống chống được phủ bằng cát thô và mịn để
tránhcác chất lơ lửng và đất rơi vào bên trong.
Dùng đất lấp lại các lỗ. Mực nước ngầm trong các
giếng được theo dõi bằng máy đo áp suất (Solinst
101 P2, Canada). Các ống được đậy kín để tránh
nước mưa rơi vào và để đảm bảo rằng nước bên
trong ống chỉ là nước từ vùng rễ. Hình 6 mô tả
cách lắp đặt đã thực hiện.
Hình 6. Lắp đặt các giếng cạn để theo dõi ảnh
hưởng của thủy triều đến mực nước ngầm và
thành phần hóa học của nước ngầm trong
ruộng nghiên cứu
Vì mực nước ngầm trong khu vực nghiên cứu
đủ cao nên có thể dễ dàng lấy các mẫu nước từ
giếng khoan bằng tay. Khoảng 100ml mẫu
nướcdùng để phân tích hóa học được lọc qua
màng polycarbonate với kích cỡ lưới 0,45 m
sau đó chia thành hai phần, một phần được axit
hóa với 1-2 giọt HNO3(65%, cấp PA, Merck,
Đức) đến độ pH 1-2 để phân tích cho các ion
dương(Na+, K+, Ca2+ và Mg2+). Một phần khác
không được axit hóa để phân tích các ion âm(Cl-
, PO43-) và các thành phần đồng vị ổn định nước.
Tất cả các mẫu được đựng trong lọ HDPE dung
tích 50 ml và sau đó được vận chuyển đến
phòng thí nghiệm ở Hà Nội để phân tích.
Nguồn nước trong vùng rễ của cây lúa
Các nguồn nước trong vùng rễ ở cả hai ruộng
nhỏ được xác định trong mỗi mùa dựa trên
thành phần đồng vị ổn định nướccủa oxy-18
và đetơri(18O, 2H) trong lượng mưa cục bộ,
trong nước từ sông Ninh Cơ và trong nước tại
vùng rễ được lấy từ hai giếng cạn (Đặng ĐN,
2015).
Nghiên cứu cải thiện phương pháp tưới tiêu đã
thay đổi để giảm thiểu độ mặn trong vùng rễ
Ruộng được chia thành hai ruộng nhỏ bằng một
đê đất. Trong một ruộng nhỏ, duy trì phương
pháp tưới tiêu truyền thống và đây được gọi là
ruộng tham chiếu, còn trong ruộng nhỏ thứ hai,
áp dụng phương pháp tưới tiêu mới. Phương
pháp đổi mới này được thiết kế bằng cách duy
trì nước quanh năm không thoát nước trong suốt
thời gian thu hoạch cũng như giữa hai mùa lúa
như trong Hình 7. Lúa được trồng trên ruộng là
giống "Tám thơm" theo tên địa phương. Chế độ
canh tác lúa ở hai ruộng nhỏcó tỷ lệ bón phân
như nhau. Thử nghiệm được tiến hành trong hai
mùa: hè-thu (tháng 6-9) và đông-xuân (tháng 1-
5) trong giai đoạn 2015-2017. Năng suất của hai
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 5
ruộng nhỏ được so sánh thông qua năng suất
của hạt gạo sau khi phơi khô dưới ánh nắng mặt
trời (theo kinh nghiệm của nông dân) và tách
riêng với các hạt rỗng.
Nghiên cứu sự xâm nhập mặn và khử mặn trong
đất
Sự xâm nhập mặn và khử mặn trong đất được
nghiên cứu dựa trên mối liên hệ giữa nồng độ
clorua và hàm lượng natri, canxi và magiê trao
đổi và dựa trên mối liên hệ giữa tỷ lệ oxy-18
(18O)và nồng độ clorua trong nước trong vùng
rễ cây lúa được mô tả chi tiết bởi Clark và Fritz
(1997) hoặc Appelo và Postma (2007).
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH
Kết cấu đất được phân tích bằng phương pháp
nhỏ giọt (Olmstead và cộng sự, 1930) và được
tiến hành tại Viện Đất và Hóa chất Nông
nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
với một số thay đổi (ISA, 1998).
Độ pH của đất: 25 g mẫu đất đầu tiên được sấy
khô ở nhiệt độ phòng sau đó được chiết bằng
dung dịch KCl 1M (đất: dung dịch = 1: 5), sau
đó đo độ pH bằng cách sử dụng máy đo pH
(TOA, Nhật Bản). Đầu dò được hiệu chuẩn sử
dụng dung dịch pH chuẩn 4,75 và 8,20.
Hàm lượng Na+, K+,Ca2+và Mg2+trao đổi trong
đất: 25 g mẫu đất sấy khô ngoài trời được chiết
bằng dung dịch ammonium acetate 1M ở độ
pH7 (đất: dung dịch = 1:5) trên máy lắc sau khi
lọc qua bộ lọc polycarbonate có kích thước lỗ
0,45 m. Các chất chiết xuất được phân tích các
ion dương và ion âm(Cl-, NO3-,, và PO43-) bằng
phép sắc ký ion sử dụng DIONEX 600 (Mỹ).
Nước lỗ rỗng trong đất được táchra khỏi các
mẫu đất bằng cáchchưng cất đông lạnh dưới
môi trường chân không (Nhan và cộng sự,
2012). Nước này sau đó được phân tích các
thành phần đồng vị ổn định nước.
Phân tích thành phần đồng vị ổn định
nướcđược thực hiện trên một Khối phổ kế đo tỷ
lệ đồng vị liên tục (Micro Mass, Anh) được
trang bị Máy phân tích nguyên tố Euro-vector
(Ý) (Nhan và cộng sự, 2012). Trước khi phân
tích, các mẫu nước được lọc qua màng
polycarbonate với kích thước lỗ 0,45 m để
loại bỏ các chất huyền phù còn tồn tại. Thành
phần đồng vị ổn định nước được thể hiện bằng
ký hiệu delta () như sau
1000*)1
R
R
(Hδ
stdH,
sampleH,2
2
2
1000*)1
R
R
(Oδ
stdO,
sampleO,18
18
18
Trong đó
sampleH,2
R ,
stdH,2
R ,
sampleO,18
R , và
stdO,18
R
là các tỷ lệ đồng vị của2H/1H, 18O/16O lần lượt
trong mẫu và theo tiêu chuẩn. Giá trị của ký
hiệu delta được biểu thị bằng mil (‰). Tiêu
chuẩn được sử dụng trong phân tích đồng vị ổn
định nước là Tiêu chuẩn nước biển trung bình
của Vienna (VSMOW) (Coplen, 1994).
Độ chính xác của 2H cao hơn ±2‰ và của
18Olà ±0.2‰. Chương trình kiểm soát và đảm
bảo chất lượng được áp dụng trong việc xác
định hàm lượng ion bằng cách phân tích các giải
pháp tiêu chuẩn do nhà cung cấp IC cung cấp
(DIONEX). Độ lệch chuẩn của các kết quả phân
tích tốt hơn ± 3% so với giá trị đã được chứng
nhận cho phần tử tương ứng.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thành phần đồng vị của lượng mưa cục bộ,
nước biển và nước từ sông Ninh Cơ
Hình 8 mô tả mối liên hệ giữa 2Hvs.18O đối
vớilượng mưa cục bộ thu được hàng tháng tại
thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu trong các
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 6
năm 2013-2016. Hình 8 cũng cho thấy thành
phần đồng vị của nước biển và nước từ sông
Ninh Cơ là nguồn nước tưới cho huyện Hải
Hậu. Nước biển và nước từ sông Ninh Cơ được
lấy vào giữa tháng 8 và tháng 12 tương ứng với
mùa mưa và mùa khô
Như đã thấy trong Hình 8, trong mùa mưa,
thành phần đồng vị của nước từ sông Ninh Cơ
tương tự như thành phần đồng vị của lượng mưa
cục bộ, nhưng trong mùa khô, nước từ sông
dường như bốc hơi nên thành phần đồng vị trở
nên phong phú hơn (Hình 8). Ngoài ra, có vẻ
như trong mùa khô, nước biển tràn vào sông và
lẫn với nước ngọtnhư thể hiện bằng đường nét
đứt trong hình 8. Đây là lý do tại sao trạm bơm
Hải Thịnh chỉ hoạt động cho mục đích thoát
nước chứ không phải để tưới tiêu quanh năm.
Hình 8. Đường nước khí tượng địa phương
(đường nét liền) và thành phần đồng vị của nước
biển lấy từ cửa sông Ninh Cơ(ô vuông xanh hở)
và của trạm bơm Hải Thịnh tại sông Ninh Cơ
vào mùa mưa (tam giác rỗng màu đỏ) và mùa
khô (tam giác đặc màu đỏ) thể hiện thành phần
đồng vị của nước tưới trong khu vực
Thành phần đồng vị của nước trong đất
Hình 9 mô tả mối liên hệ giữa 2H vs.18O đối với
nước trong tầng đất canh tác (0 – 20) cm trong
mùa mưa (tháng 8) và mùa khô (tháng 12).
Hình 9. So sánh các thành phần đồng vị của
nước lỗ rỗng trong tầng đất canh tác của khu
vực nghiên cứu và của sông Ninh Cơ (trạm
bơm Hải Thịnh) trong mùa mưa và mùa khô
Hình 9 cho thấy nước trong lớp đất canh tác là
từ sông Ninh Cơ và đây là nguồn nước tưới
chính trong khu vực.
Đặc tính của đất
Bảng 1 chỉ ra các đặc tính của đất trong vùng rễ.
Trong Bảng 1, các đặc tính của đất trong lớp bề
mặt sâu (0-20) cm là giá trị trung bình của chín
vị trí lấy mẫu trên ruộng nghiên cứu, còn đối với
lớp đất từ độ sâu 20 cm trở xuống, đặc tính là giá
trị trung bình của 3 vị trí dọc theo đường chéo
của ruộng. Những phân tích này được thực hiện
trước khi ruộng được chia thành hai ruộng nhỏ
để nghiên cứu những ưu điểm của phương pháp
tưới tiêu được cải thiện.
Kết quả được trình bày trong Bảng 1 phù hợp
với các kết quả được xác định bởi Phạm Anh
Tuấn và cộng sự (2013). Đất bề mặt có tính
axit nhẹ (pHKCl 5.4) và đại diện cho một loại
đất sét phù hợp với phân loại của DoA của
Hoa Kỳ. Kết quả trong Bảng 1 cho thấy, trong
mùa mưa, muối trong đất bề mặt di chuyển
xuống dưới do trọng lực của nó sao cho trong
lớp đất sâu (40-60) cm, nồng độ clorua tăng
gấp đôi so với lớp đất mặt (Bảng 1) ). Dường
như trong vùng rễ, quá trình khử mặn xảy ra
trong mùa mưa bởi vì nồng độ clorua trong
nước tăng khi tăng hàm lượng natri trao đổi
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 7
trong đất, trong khi đó hàm lượng canxi và
magiê trao đổi không thay đổi nhiều khi tăng
nồng độ clorua (Bảng 1) và Hình 10).
Bảng 1. Đặc tính của đất trong ruộng nghiên cứu
(các đặc tính của đất trong lớp bề mặt sâu (0-20) cm là giá trị trung bình của chín
vị trí lấy mẫu, còn đối với lớp đất từ độ sâu 20 cm trở xuống, đặc tính là giá trị trung bình
của 3 vị trí dọc theo đường chéo của ruộng
Thời gian lấy mẫu: Tháng 8/2013)
Đ ộ
sâu,
cm
Hàm lư ng thành ph n (t ng ợ ầ ổ
c ng), %ộ
pH(KCl)
CEC,
meq/100
g đ tấ
Ion d ng trao đươ i,ổ
meq/100g đ tấ
K t c u, %ế ấ
N(NO3
)
P2O5(PO
4)
K2O(K
+) Cl- Na+ K+ Ca2+ Mg2+ cát sét bùn
0-20 0,24 0,16 0,52 0,07 5,4 5,34 0,41 0,10 1,89 1,96 2,8 11,9 85,3
20-40 0,12 0,15 0,36 0,11 5,8 5,04 0,56 0,05 1,80 1,98 2,6 13,1 84,3
40-60 0,08 0,07 0,32 0,15 6,5 4,96 0,67 0,04 1,84 2,04 6,1 13,5 80,4
60-80 0,05 0,05 0,30 0,21 6,0 5,12 0,77 0,03 1,78 1,92 3,4 8,3 88,3
80-
100 0,06 0,05 0,32 0,20 6,8 4,07 0,71 0,05 1,80 1,96 3,2 10,5 86,3
Hình 10. Mối liên hệ giữa nồng độ clo trong
nước và hàm lượng Na+, Ca2+ và Mg2+trao
đổitrong đất là bằng chứng cho sự khử mặn
trong đất
Người ta cho rằng nước ngọt tưới tiêulấy từ
sông hòa tan muối bị đọng lại trong các lỗ rỗng
của đất và nước mặn khuếch tán xuống bởi lực
hấp dẫn làm cho nước trong lớp đất sâu hơn lớp
canh tác mặn hơn (Bảng 1).
Ảnh hưởng của thủy triều đến độ mặn của
nước tại vùng rễ trong khu vực nghiên cứu
Hình 11 và 12 mô tả sự thay đổi mực nước triều
và mực nước ngầm trong khu vực nghiên cứu vào
đầu tháng 9 năm 2014 và tháng 3 năm 2015. Mực
nước triều được lấy từ hồ sơ của trạm quan trắc
thủy văn Quảng Phúc nằm cách 50 km về phía
Đông Bắc cửa sông Hồng (NCMH, 2014; 2015).
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mực nước ngầm trong
vùng rễ gần như không thay đổi khi có sự thay đổi
mực nước triều. Người ta đã nhìn thấy sự dịch
chuyển nhỏ của mực nước ngầm trong đường ống
dẫn mực nước ngầm ở cả hai mùa, nhưng điều
này không có nghĩa là nước biển xâm nhập vào
ruộng. Sự thay đổi mực nước ngầm được cho là
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 8
do trận mưa cách đó vài giờ, như đánh dấu trong
Hình.
Hình 11. Sự thay đổi mực nước triều và mực
nước ngầm (tính bằng m trên mực nước biển,
masl) trong mùa mưa (tháng 9 năm 2014)
Hình 12. Sự thay đổi mực nước triều và
mực nước ngầm (masl) trong mùa khô
(tháng 3 năm 2015)
Vào mùa khô, mực nước ngầm thấp hơn một
chút so với mùa mưa. Giá trị trung bình của
mực nước trong mùa khô là 1,46 m (asl) còn
trong mùa mưa là 1,54 m (asl). Từ Hình 11 và
12, có thể kết luận rằng trong khu vực nghiên
cứu, nước ngầm trong vùng rễ không bị ảnh
hưởng bởi thủy triều, nói cách khác, trong khu
vực không có xâm nhập mặn.
Mô hình biến đổi của đồng vị oxy-18 trong
nước tại vùng rễ tương tự như trong nước mưa
và nước từ sông Ninh Cơ trong cả mùa mưa và
mùa khô như trong Hình 13.
Hình13. Mô hình biến đổi đồng vị18O trong
nướctại vùng rễ và lượng mưa trên khu vực
nghiên cứu trong cả mùa mưa và mùa mưa
Như đã thấy trong Hình 13, giữa hai mùa lúa
trong mùa mưa, từ tháng 6 đến tháng 9, thành
phần đồng vị của 18O trong nước tại vùng rễ
dường như nhiều hơn so với trong nước mưa.
Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là
khoảng một tháng trước khi thu hoạch lúa, nông
dân địa phương tháo hết nước mặt ra khỏi ruộng
và sau khi tách hạt từ rơm rạ trên ruộng, cặn
rơm bị đốt cháy khiến cho ruộng trống không
và nứt nẻ dưới thời tiết nóng như đã mô tả ở
trên. Đất nứt tạo điều kiện cho nước trong vùng
rễ bốc hơi mạnh khiến cho thành phần đồng vị
của các đồng vị nặng trong nước tăng lên.
Phương pháp canh tác được áp dụng trong khu
vực có thể dẫn đến mất nhiều nước. Không chỉ
vậy mà thực tế phương pháp nàykhông thể làm
cho muối hòa tan trong nước tưới trong mùa
canh tác để xâm nhập xuống sâu hơn vùng rễ
(khử muối) bởi trọng lực, sau đó trong khoảng
thời gian giữa hai mùa lúa (Tháng Bảy-Tháng
Chín ) muối di chuyển lên trên dưới sự bay hơi.
Hình 14 mô tả một biểu đồ của 18O so với
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 9
nồng độ clorua trong nước trong vùng gốc.
Gaye (2001), Clark và Fritz (1997) đã chỉ ra
rằng việc tăng thành phần oxy-18 trong nước
ngầm xảy ra cùng với sự thay đổi không đáng
kể nồng độ clorua là do sự bốc hơi.
Hình14. Biểu đồ nồng độ 18O và clorua
trong nước lỗ rỗng cho thấy hàm lượng muối
trong nước cao là do sự bốc hơi nhưng không
phải do xâm nhập mặn
Kỹ thuật đồng vị với việc sử dụng đồng vị
18O của nước trong đất cho thấy phương
pháp canh tác truyền thống có thể làm cho
muối trong đất hòa tan và sau đó hấp thụ lại
trên bề mặt đất khi nước bốc hơi dưới thời tiết
nóng nhưng lại không thể khử muối. Hiện tại,
xâm nhập mặn không xảy ra ở khu vực nghiên
cứu. Kết luận này mở ra hướng phát triển một
phương pháp thay thế để tạo thuận lợi cho
việc khử muối trong vùng rễ để loại bỏ tác
động của muối đối với năng suất của cây
trồng.
So sánh các thành phần hóa học và đồng vị
18O trong nước tại vùng rễ trong ruộng nhỏ
tham chiếu và trong ruộng nhỏ áp dụng
phương pháp tưới tiêu thay thế
Phương pháp tưới tiêu thay thế được đề cập ở
đây nghĩa là nước phải được duy trì trong ruộng
quanh năm mà không được thoát nước để muối
có thể hòa tan và xâm nhập xuống dưới vùng rễ
bằng trọng lực.
Bảng 2 cho thấy các chất hóa học và đồng vị
oxy-18 (18O) trong nước tại vùng rễ của
ruộng tham chiếu trong hè-thu (H-T) và đông-
xuân (Đ-X). Bảng 3 trình bày các kết quả các
thông số tương tự của nước nhưng đối với
ruộng áp dụng phương pháp tưới tiêu thay thế.
Trong Bảng 3, số liệu về lượng mưa cục bộ
(P) trong hai mùa cũng được trình bày.
Như đã thấy trong Bảng 2 và Bảng 3, độ pH của
nước trong vùng rễ của ruộng tham chiếu là 8,3
và khác với độ pH 6,7 trong ruộng nhỏ áp
dụngphương pháp tưới thay thế. Sự gia tăng độ
pH trong nước trong trường hợp này thực sự là
kết quả của việc hòa tan muối và trao đổi
ionNa+-Ca2+. Nồng độ natri và clorua trong
nước của ruộng tham chiếu cao hơn rất nhiều so
với nồng độ của ruộng áp dụng phương pháp
tưới thay thế.
Hình 15. Nồng độ clorua trong nước tại
vùng rễ (RW) trong ruộng nhỏ áp dụng
phương pháp tưới mới (NIP) đã giảm nhiều
so với nồng độ trong ruộng tham chiếu cho
thấy ưu điểm của NIP trong quá trình khử
muối tại vùng rễ.
Trong ruộng áp dụng phương pháp tưới tiêu
mới, có vẻ như sau bốn mùa lúa, nhiều muối
trong đất bề mặt đã được rửa sạch bởi nước
tưới và hầu hết nước mặn xâm nhập vượt ra
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 10
ngoài vùng rễ bởi lực hấp dẫn để lại phần
nước ngọt như nước sông với độ mặn dưới
100 mg L-1 (Bảng 3). Giả sử rằng nước trong
vùng rễ là hỗn hợp của nước mưa cục bộ và
nước sông và dựa trên độ pH của hai loại
nước (Bảng 3), ta có thể tính toán sự đóng
góp của từng loại nước vào hỗn hợp
nướcbằng mô hình phần tử hai đầu. Do đó,
trong vụ Đông-Xuân (vào tháng 3 năm 2016)
trong ruộng áp dụng phương pháp tưới, nước
trong vùng rễ gồm khoảng 40% nước sông và
60% nước mưa có thể đọng lại từ vụ trồng
Hè-Thu trước đó. Trong cả hai mùa và cả hai
ruộng, đồng vị nặng của oxy trong nước tại
vùng rễ luôn luôn tăng nhiều hơn so với mực
nước sông (Bảng 2 và 3) ngụ ý sự bay hơi
của nước dưới điều kiện thời tiết nóng.
Như có thể thấy trong hình 15, việc duy trì nước
tưới trong ruộng quanh năm có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho muối trong vùng rễ hòa tan và di
chuyển đến các lớp đất sâu hơn trong canh tác
lúa
Bảng 2. Các chất hóa học và đồng vị của oxy-18 (18O) trong nước tại vùng rễ
của ruộng tham chiếu trong vụhè-thu (tháng 8 năm 2015-2016) và vụ đông- xuân
(tháng 3 năm 2016-2017) mùa trồng trọt
Bảng 3. Các chất hóa học và đồng vị của oxy-18 trong nước tại vùng rễ của ruộng nhỏ
áp dụng phương pháp tưới tiêu thay thế trong vụ hè-thu (tháng 8 năm 2015)
và vụ đông-xuân (tháng 3 năm 2016)
Trong Bảng 2 và Bảng 3, SW nghĩa là nước mặt (nước từ sông Ninh Cơ); RZW1 và RZW2 lần lượt
là nước tại vùng rễ trong ruộng nhỏ tham chiếu và trong ruộng nhỏ áp dụng phương pháp tưới
tiêu thay thế; P nghĩa là lượng mưa cục bộ; nd: không
Trong lĩnh vực áp dụng phương pháp tưới mới,
nồng độ clorua trong nước tại vùng rễ đo được
là 31.1 và 46.5 mg L-1 (0.89 và1.31 meq L-1)
tương ứng cho vụ trồngHè-Thu và Đông-Xuân.
Trong khi đó, trong ruộng tham chiếu, nồng độ
clorua lên tới 277 mg L-1 (7.8 meq L-1) và 328
mg L-1 (9 meq L-1) tương ứng cho vụ trồngHè-
Thu và Đông-Xuân (Bảng 2, 3) và Hình 15).
Kết quả này cho thấy một thực tế là việc duy trì
tưới nước ngọtcho toàn ruộng quanh năm đã tạo
điều kiện thuận lợi cho việc khử mặn và muối
được hòa tan để xâm nhập xuống dưới sâu hơn
vùng rễ. Bằng cách này, năng suất cây trồng có
thể cải thiện. Năng suất hạt gạo được sản xuất
từ hai ruộng được trình bày trong Bảng 4.
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 11
Bảng 4. Năng suất hạt gạo được sản xuất từ ruộng tham chiếu và ruộng áp dụng phương
pháp tưới mới trong các vụ trồng Hè-Thu và Đông-Xuântừ năm 2015 đến 2017
Ru ngộ
N ng suă t, t n haấ ấ -1
V ụ Hè-Thu V ụ ôngĐ -Xuân
H t lépạ H t ạ đ yầ
T ng ổ
c ngộ H t lépạ H t ạ đ yầ
T ng ổ
c ngộ
Tham chi uế 0,280,11
5,630,2
3 5,910,17 0,370,13 5,470,16 5,840,15
Áp d ng phụ ng pháp ươ
tư i tiêu m iớ ớ 0,140,12
5,770,2
5 5,910,18 0,150,14 5,630,14 5,780,14
Như đã thấy trong Bảng 4, năng suất lúa đầy hạt
ở cả hai ruộng trong vụ trồng Hè-Thu cao hơn
so với vụ trồng Đông-Xuân. Điều này có thể do
sự khác biệt trong điều kiện thời tiết giữa hai
mùa. Trong giai đoạn 2015-2017, nhiệt độ
không khí trung bình trong mùa đông chỉ có 15-
16 oC và nhiệt độ này không thích hợp để lúa
phát triển hệ thống rễ, đặc biệt là trong giai đoạn
đầu, từ ngày đầu đến ngày thứ mười sau khi cấy.
Mặt khác, từ Bảng 4,chúng ta cũng có thể thấy
rằng năng suất của tổng số hạt được sản xuất từ
hai ruộng trong hai mùa được so sánh với nhau
từ 5,8 đến 5,9 tấn ha-1. Tuy nhiên, hạt lép trong
ruộng chiếu chiếm từ 280 đến 370 kg ha-1, cao
gấp gần 2 lần so với ruộng áp dụng phương
pháp tưới mới. Dường như phương pháp tưới
tiêu mới đã cải thiện các điều kiện như vận
chuyển dinh dưỡng cho cây trồng để sản xuất
thành công hạt lúa đầy, làm tăng năng suất hạt
có thể ăn được.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Độ mặn trong nước lỗ rỗng tại vùng rễ ở các
cánh đồng lúa vùng ven biển thuộc huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định, Bắc Việt Nam có liên
quan đến trầm tích biển tồn tại kể từ khi đồng
bằng sông Hồng được hình thành. Nước tưới
làm cho độ mặn trong các lỗ rỗng lắng xuống/
khuếch tán vào trong nước. Tuy nhiên, phương
pháp canh tác truyền thống bao gồm thoát nước
tưới trước khi thu hoạch lúa sau đó cắt rơm và
đốt chay không cho phép nước mặn xâm nhập
xuống dưới bởi trọng lực, do đó độ mặn vẫn tồn
tại trong đất tại vùng rễ. Chúng tôi khuyến nghị
rằng đừng bao giờ xả nước tưới và không được
làm sạch đồng ruộng để giảm sự bốc hơi tạo ra
áp lực thủy lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
nước mặn trong vùng rễ thâm nhập vào xuống
độ sâu dưới vùng rễ bằng trọng lực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Appelo CAJ, và Postma D., 2007. Địa hoá học, nước ngầm và ô nhiễm, Ấn bản lần thứ 2.
Nhà xuất bản Balkema, Amsterdam, Hà Lan, 649 trang.
[2] Clark ID, và Fritz P, 1997. Các đồng vị môi trường trong Thủy văn. Nhà xuất bản Lewis,
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 50 - 2018 12
Boca Raton, NY, 311 trang
[3] Coplen TB (1994) Báo cáo về sự phong phú các đồng vị hydro, carbon và oxy ổn định. Pure
& Appl Chem 66: 273-276
[4] Đặng Đức Nhận, Dương Hải Sinh, Khương Minh Cường và Hà Lan Anh, 2015 Quá trình
thủy hóa gây ra độ mặn cao trong nước tại vùng rễ ở một cánh đồng lúa thuộc huyện Hải
Hậu, tỉnh Nam Định (miền Bắc Việt Nam). Báo cáo tiến độ cho IAEA đối với RC Số 17915-
R1, 6 trang.
[5] Fontenelle J-P, 2001 Phân cấp quản lý nước ở đồng bằng sông Hồng, Việt Nam: Một quá
trình chuyển đổi chưa hoàn thành đối với quản trị địa phương. Tài liệu cho Hội nghị IASCP
lần thứ 8, Bloomington, 31/05-4/06/2001
[6] Gaye CB, 2001 Các kỹ thuật đồng vị để theo dõi sự xâm nhập mặnvào nước ngầm. Báo cáo
được trình bày tại Hội nghị quốc tế đầu tiên về Gám sát, Mô hình hóa và Quản lý Xâm nhập
mặn và Tầng chứa nước ven biển. Essaouira, Morocco, ngày 23-25 tháng 4, 11 trang.
[7] IAEA, 2002Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế: Bản tin về Nước và Môi trường của
Bộ phận Thuỷ văn Đồng vị, Số 16, tháng 11 năm 2002: 5, Vienna, Áo
[8] Đặng Đức Nhân, Dương Hải Sinh, Khương Minh Cường, Heng LK, Nguyễn ML, 2012 Hiệu
quả sử dụng nước của cà phê (Robusta) theo phương pháp tưới tưới nhỏ giọt trên cao nguyên
Tây Nguyên, Việt Nam. Theo FAO/IAEA về: “Quản lý đất để bảo đảm an ninh lương thực,
giảm thiểu tác động và thích ứng khí hậu”, Vienna, Áo, tháng 7, 303-308 trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
cai_thien_phuong_phap_tuoi_tieu_de_giam_thieu_do_man_trong_v.pdf