Ứng dụng phương pháp FMEA trong việc phân tích các
dạng lỗi và tác động đã và đang ngày càng được quan tâm
trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm/ dịch vụ. Nó
giúp cho các nhà sản xuất/ cung ứng dịch vụ có thể nhận
diện những lỗi/ sai hỏng/ khuyết tật của sản phẩm, mức độ
nghiêm trọng của chúng, và tác động tiêu cực mà chúng có
thể gây ra cho các bên có liên quan cũng như hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ. Tuy nhiên, cách tiếp cận
truyền thống với Hệ số ưu tiên rủi ro RPN có ba thành
phần: mức độ xuất hiện, khả năng phát hiện và mức độ
nghiêm trọng, đã bộc lộ một số tồn tại nhất định trong việc
xếp hạng mức độ ưu tiên xử lý các dạng lỗi. Do đó, bài viết
này đề xuất một cách tiếp cận mới nhằm cải tiến Hệ số ưu
tiên rủi ro RPN truyền thống; cụ thể là bài viết xem xét tác
động của yếu tố chi phí chất lượng và năng lực phát hiện lỗi
của hệ thống kiểm soát sản phẩm lỗi tại doanh nghiệp, bởi
vì năng lực đó có quan hệ mật thiết với khả năng sản phẩm/
dịch vụ bị khuyết tật đến tay người sử dụng, tức là năng lực
đó có thể giúp xây dựng hoặc phá hủy danh tiếng chất
lượng của doanh nghiệp.
6 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 858 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải tiến hệ số ưu tiên rủi ro trong phân tích lỗi sản phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Journal of Science of Lac Hong University
Vol. 5 (2016), pp. 7-12
Tạp chí Khoa học Lạc Hồng
Số 5 (2016), trang 7-12
CẢI TIẾN HỆ SỐ ƯU TIÊN RỦI RO TRONG
PHÂN TÍCH LỖI SẢN PHẨM
Improving risk priority number in product failure analysis
Nguyễn Thanh Lâm1*, Lê Văn Tú2, Huỳnh Quang Tuyến3
*green4rest.vn@gmail.com
1Phòng Nghiên cứu Khoa học
Trường Đại học Lạc Hồng, Đồng Nai
2Phòng quản lý thương mại
Sở Công thương Đồng Nai
3Ban Tổ chức
Đảng ủy Khối doanh nghiệp tỉnh Đồng Nai
Đến tòa soạn: 21/5/2016; Chấp nhận đăng: 15/7/2016
Tóm tắt. Phương pháp phân tích các dạng lỗi và tác động (FMEA) là một trong những công cụ phân tích hữu hiệu giúp cho
các nhà sản xuất công nghiệp xác định thứ tự ưu tiên thực hiện các giải pháp khắc phục lỗi sản phẩm và cải tiến chất lượng
liên tục. Tuy nhiên, FMEA truyền thống gặp một số hạn chế nhất định khi xếp hạng ưu tiên. Do đó, bài viết này đề xuất cải
tiến Hệ số ưu tiên rủi ro RPN dùng trong FMEA bằng cách tích hợp yếu tố chi phí chất lượng để nâng cao tính phân biệt mức
độ thứ tự ưu tiên xử lý lỗi. Hệ số cải tiến đó được áp dụng thử nghiệm thực tế trong sản xuất lon nhôm dùng cho bia và nước
giải khát. Sau khoảng thời gian thử nghiệm, hệ số cải tiến đã hiệu quả hơn trong việc xác định thứ tự ưu tiên xử lý lỗi; do đó,
tỷ lệ sản phẩm lỗi trong quy trình sản xuất lon nhôm tại công ty đã giảm đáng kể, từ 10% trước thử nghiệm xuống còn 4% với
Hệ số cải tiến và 6% với Hệ số RPN truyền thống.
Từ khoá: FMEA; Phân tích các dạng lỗi; Phân tích tác động; Sản xuất lon nhôm
Abstract. Failure Modes and Effects Analysis (FMEA) has been well recognized as one of effective tools helping industrial
manufacturers to identify the priority of failures that need corrective actions to incessantly improve the quality of their
products. However, the conventional approach fails to provide satisfactory results in some practical applications. Thus, this
study proposes a modification of Risk Priority Number (RPN) used in FMEA by considering the quality cost as an additional
determinant to signify the priority level for each failure. In order to illustrate its practical applicability, the modified RPN was
then tested on a manufacturing chain of aluminum cans used for beer and soft drinks. We found that it outperforms the RPN
in reducing the percentage of defective products, i.e. from 10% prior to the test to 4% by the modified number compared
with 6% by the traditional one.
Keywords: FMEA; Failure modes analysis; Effect analysis; Manufacturing of Aluminum cans
1. GIỚI THIỆU
Phương pháp Phân tích các dạng lỗi và tác động (Failure
Modes and Effects Analysis – FMEA) là một trong những
công cụ phân tích rất hiệu quả, được sử dụng rộng rãi tại
các công ty sản xuất công nghiệp ở các quốc gia tiên tiến
như Nhật Bản, Mỹ và Âu Châu [1,2], trong nhiều lĩnh vực
khác nhau, chẳng hạn như ôtô, điện- điện tử, sản phẩm gia
dụng, nhà máy năng lượng, viễn thông [3], dược phẩm [4],
cho đến các dịch vụ như chăm sóc y tế [5,6], thương mại
điện tử [7], thiết kế sản phẩm [8,9], v.v FMEA cung cấp
những thang đo định tính và định lượng để nhận diện những
lỗi và tác động của chúng đối với chất lượng sản phẩm và
dịch vụ [1]. Cụ thể là, FMEA đánh giá các dạng lỗi theo
thang điểm 10 ở ba khía cạnh: mức độ xảy ra lỗi
(Occurrence – O), khả năng phát hiện lỗi (Detection – D),
và mức độ nghiêm trọng của lỗi (Severity – S). Tích số của
các giá trị đánh giá ở ba khía cạnh này được gọi là “Hệ số
ưu tiên rủi ro” (Risk Priority Number – RPN), tức là
theo đó, những lỗi có hệ số RPN càng
cao thì càng được ưu tiên giải quyết khắc phục. Cho nên,
FMEA là một phương pháp hữu hiệu giúp cho các tổ chức
xác định thứ tự ưu tiên thực hiện các giải pháp khắc phục
và cải tiến chất lượng liên tục [10,11].
Tuy nhiên, FMEA gặp một số hạn chế nhất định khi xếp
hạng ưu tiên [10, 12-14]. Cụ thể là ba yếu tố O, D, và S đều
có “trọng số” như nhau cho nên mức độ ảnh hưởng của
chúng đối với hệ số RPN là như nhau; trong khi đó, S và O
được cho là hai yếu tố chính, có ảnh hưởng nhiều hơn và
cần được xem xét ưu tiên hơn [15]. Ví dụ, xem xét ba lỗi:
A, B và C; trong đó lỗi A có OA = 5, DA = 4, SA = 8; lỗi B
có OB = 4, DB = 4, SB = 10; lỗi C có OC = 4, DC = 8, SC =
5; tức là cả ba lỗi này đều có giá trị RPN = 160. Nếu chỉ
căn cứ vào RPN thì chúng ta không biết nên ưu tiên xử lý
lỗi nào; do đó, việc ra quyết định trong tình huống này có
thể gây ra lãng phí nguồn lực, thời gian, hoặc những lỗi có
mức độ ảnh hưởng cao lại không được quan tâm đúng mức
[10]. Cụ thể là, mặc dù lỗi A xuất hiện thường xuyên hơn B
nhưng B lại nghiêm trọng hơn A, do đó B cần được ưu tiên
hơn A. Tương tự vậy, khả năng xảy ra lỗi B và C là như
nhau, mặc dù khả năng phát hiện ra lỗi C rất thấp nhưng
mức độ nghiêm trọng của C cũng rất thấp so với B; do đó,
trong thực tế, B cũng cần được ưu tiên xử lý hơn C. Do đó,
hệ số RPN chưa có khả năng phân biệt mức độ ưu tiên xử lý
Cải tiến hệ số ưu tiên rủi ro trong phân tích lỗi sản phẩm
8 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
lỗi trong những trường hợp thực tế như vậy.
Để khắc phục nhược điểm trên trong hệ thống sản xuất
Lean, Sawhney & c.s. [10] đề xuất một hệ số đánh giá mới,
được gọi là “Giá trị đánh giá rủi ro” (Risk Assessment Value
– RAV). RAV được xác định bằng công thức:
theo đó, hiệu quả phát hiện và quản lý
các lỗi đóng vai trò là công cụ để giảm thiểu khả năng xuất
hiện lỗi và mức độ nghiêm trọng của lỗi [16]. Kirthik & c.s.
[16] tiến hành so sánh hiệu quả giữa RPN và RAV, và kết
luận rằng hệ số RAV xếp hạng ưu tiên xử lý lỗi tốt hơn hệ
số RPN. Tuy nhiên, với ví dụ vừa nêu, chúng ta dễ dàng
tính toán được RAVA = 10; RAVB = 10; và RAVC = 2,5; tức
là chúng ta vẫn chưa thể xác định thứ tự ưu tiên xử lý đối
với lỗi A và lỗi B. Điều này cho thấy: mặc dù tốt hơn RPN,
RAV vẫn chưa đảm bảo khả năng phân biệt mức độ ưu tiên
xử lý lỗi mà RPN đã mắc phải.
Trong khi đó, Gilchrist [17] và Kmenta & Ishii [18] đề
xuất việc sử dụng đại lượng “Chi phí kỳ vọng” (Expected
cost) để thể hiện mức độ nghiêm trọng S; còn O và D nên
được đo lường thông qua xác suất. Tuy nhiên, trong thực tế
của hoạt động sản xuất, chi phí kỳ vọng đó cần phải được
xem xét trong mối liên hệ với yếu tố kỹ thuật: kỹ thuật sản
xuất gây ra lỗi, kỹ thuật phát hiện lỗi. Ngoài ra, tùy vào
ngành nghề mà một số lỗi có thể khắc phục được hoặc tái
sử dụng nguyên vật liệu và một số lỗi không thể khắc phục
được; tức là chi phí phát sinh trong những trường hợp này
khác nhau. Đồng thời, cũng vì các sản phẩm bị lỗi không
thể được phát hiện và loại bỏ hoàn toàn nên những khoản
chi phí liên quan đến quá trình bảo hành, đền bù thiệt hại
cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm lỗi, và thậm chí là
các khoản chi phí “vô hình” như danh tiếng, thương hiệu
của sản phẩm, của tổ chức cũng bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, gọi chung là “chi phí chất lượng” (Quality cost). Do
đó, để khắc phục những tồn tại vừa được nêu ở trên, bài
viết này đề xuất cải tiến Hệ số ưu tiên rủi ro RPN bằng cách
tích hợp yếu tố chi phí chất lượng như là một thành tố quan
trọng để nâng cao tính phân biệt mức độ thứ tự ưu tiên xử
lý lỗi trong phân tích các dạng lỗi và tác động.
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG FMEA
2.1 Dạng lỗi (Failure mode)
Lỗi của các yếu tố đầu vào và quy trình sản xuất/ cung
ứng dịch vụ là một trong những nguyên nhân chủ yếu ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng thành phẩm. Do đó, việc xác
định đầy đủ những lỗi có khả năng xảy ra trong từng công
đoạn của quy trình sản xuất/ cung ứng dịch vụ là một trong
những yêu cầu quan trọng để nhà sản xuất/ nhà cung ứng
dịch vụ có giải pháp khắc phục, hạn chế tác động của chúng
đến chất lượng sản phẩm/ dịch vụ, giảm thiểu chi phí sản
xuất, nâng cao mức độ đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Những lỗi giống nhau trong một hoặc nhiều công đoạn
được gọi chung là “dạng lỗi”.
2.2 Tác động của lỗi (Effects)
Tác động của lỗi là sự ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm do lỗi đó gây ra. Sự ảnh hưởng đó có thể được đánh
giá thông qua mức độ đáp ứng hoặc cảm nhận của khách
hàng. Khách hàng được xem xét ở đây có thể là khách hàng
bên ngoài của tổ chức, và cũng có thể là khách nội bộ, là
các công đoạn kế tiếp trong quá trình đó.
2.3 Nguyên nhân (Cause)
Nguyên nhân là nguồn gây ra những biến động, tạo ra lỗi
sản phẩm. Do đó, để nâng cao được chất lượng, chúng ta
cần phải xác định càng đầy đủ và càng rõ ràng những
nguyên nhân tác động càng tốt; bởi vì nếu không xác định
được nguyên nhân gây ra lỗi thì chúng ta chắc chắn không
có những giải pháp khắc phục hiệu quả. Một trong những
công cụ thường được dùng để thể hiện những nguyên nhân
tác động liên quan là Biểu đồ nhân quả (Cause-Effect
Diagram) hay còn được gọi là Biểu đồ Xương cá (Fishbone
Diagram).
2.4 Hệ thống kiểm soát (Control system)
Đó chính là hệ thống những trang thiết bị hay phương
pháp kiểm soát nhằm ngăn ngừa hay phát hiện các dạng lỗi
xảy ra trong các công đoạn để có giải pháp khắc phục trước
khi sản phẩm được chuyển đến khách hàng hay các công
đoạn kế tiếp của quá trình. Hệ thống này sẽ hạn chế tối đa
những chi phí và thời gian vô ích cũng như những vấn đề
có thể phát sinh sau này. Do đó, một hệ thống kiểm soát
chất lượng hiệu quả luôn là nhu cầu quan trọng của các nhà
sản xuất/ cung ứng dịch vụ. Tùy vào tính chất ngành nghề
và trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật của mỗi nhà sản
xuất, hệ thống này có thể được thực hiện bằng thủ công
hoặc các trang thiết bị, máy móc hiện đại.
3. HỆ SỐ ƯU TIÊN RỦI RO CẢI TIẾN (MRPN)
Để khắc phục những nhược điểm đã được trình bày trong
Mục 1, chúng tôi đề xuất “Hệ số ưu tiên rủi ro cải tiến”
(MRPN). Giả sử quá trình sản xuất sản phẩm X có n dạng
lỗi khác nhau. Đối với dạng lỗi thứ j , ta gọi:
· là xác suất xuất hiện dạng lỗi thứ j (dựa vào kinh
nghiệm của chuyên gia);
· là xác suất phát hiện lỗi khi dạng lỗi thứ j xuất hiện
(dựa vào kinh nghiệm của chuyên gia);
· là mức độ nghiêm trọng của yếu tố kỹ thuật trong
quy trình đối với dạng lỗi thứ j (đối với dịch vụ thì
chính là yếu tố thời gian của quy trình; được đánh giá
theo thang điểm 10 truyền thống);
· là mức độ nghiêm trọng về mặt kinh tế để xử lý sản
phẩm mắc dạng lỗi thứ j nếu được phát hiện; tức là mức
độ phát sinh chi phí nội bộ của lỗi được phát hiện, hay
còn được gọi là “chi phí hư hỏng nội bộ” (Internal failure
costs);
· là mức độ nghiêm trọng về mặt kinh tế để xử lý sản
phẩm mắc dạng lỗi thứ j nếu không được phát hiện; tức
là mức độ phát sinh chi phí ngoại tại của lỗi không được
phát hiện trước khi đến tay khách hàng, hay còn được gọi
là “chi phí hư hỏng ngoại tại” (External failure costs);
Khi đó, Hệ số ưu tiên rủi ro cải tiến MRPN của dạng lỗi
thứ j được xác định như sau:
Công thức xác định MRPN như trên dĩ nhiên có xem xét
đến tác động của một lỗi khi nó không được phát hiện bởi
hệ thống kiểm soát, thông qua đại lượng . Ngoài ra,
Nguyễn Thanh Lâm, Lê Văn Tú, Huỳnh Quang Tuyến
9 9 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
nó cũng khá tương đồng với công thức tính RPN truyền
thống ở chỗ: khả năng phát hiện lỗi càng thấp (tức càng
nhỏ) thì giá trị của D trong RPN càng cao; điều này được
phản ánh trong thành phần của công
thức xác định MRPN. Hơn nữa, đại lượng cũng
phản ánh tác động của chi phí hư hỏng ngoại tại đối với
độ lớn của MRPN; cụ thể là, nếu xác suất phát hiện lỗi thấp
thì khả năng sản phẩm có khuyết tật đến tay người sử dụng
chắc chắn sẽ cao và điều này làm tăng giá trị MRPN; tức là
mức độ ưu tiên xử lý dạng lỗi thứ j sẽ được nâng cao hơn.
Việc đánh giá mức nghiêm trọng ST, SI, và SE được thực
hiện như sau.
3.1 Đánh giá mức nghiêm trọng ST
Lỗi về yếu tố kỹ thuật được xác định dựa trên yêu cầu về
mặt công nghệ, thẩm mỹ, đặc trưng cơ bản và những tiêu
chuẩn được qui định đối với sản phẩm. Nguyên nhân gây ra
lỗi có thể xuất phát từ nguyên vật liệu đầu vào, quy trình
sản xuất, các phương pháp thực hiện (kiểm tra, kiểm soát),
người lao động, trang thiết bị, và thậm chí có sự tác động
của môi trường. Do đó, với mỗi lỗi (tiềm ẩn hoặc được phát
hiện), chúng ta cần xác định những nguyên nhân chính gây
ra lỗi đó; từ đó, chúng ta có thể đánh giá khả năng khắc
phục về các mặt: kỹ thuật, quy trình, trang thiết bị, phương
pháp kiểm tra, kiểm soát và trình độ người lao động. Điều
quan trọng là cần đánh giá được những tác động tiêu cực
của lỗi đó đối với các công đoạn tiếp theo trong quy trình,
chất lượng thành phẩm và cảm nhận của khách hàng. Mức
độ nghiêm trọng STtrong Hệ số MRPN chính là mức độ
nghiêm trọng S thường được nhắc đến trong nhiều nghiên
cứu đã được công bố trong cộng đồng khoa học. Bảng 1 là
một ví dụ về các mức đánh giá mức độ nghiêm trọng ST
được sử dụng đối với sản phẩm vỏ bóng đèn huỳnh quang
compact tại công ty P.
3.2 Đánh giá mức nghiêm trọng SI và SE
Như đã được giới thiệu trong Mục 1, chi phí chất lượng
là các khoản chi phí liên quan đến việc đảm bảo chất lượng
của bán thành phẩm và thành phẩm trong tất cả các khâu
của quy trình sản xuất từ đầu vào cho đến đầu ra và quá
trình sử dụng sản phẩm của khách hàng. Chi phí chất lượng
được chia thành bốn nhóm: (1) Chi phí phòng ngừa
(Prevention costs); (2) Chi phí thẩm định (Appraisal costs);
(3) Chi phí hư hỏng nội bộ (Internal Failure costs); và, (4)
Chi phí hư hỏng ngoại tại (External Failure costs) [19].
Trong bốn nhóm chi phí chất lượng đó, chúng tôi đặc biệt
quan tâm đến hai nhóm cuối – Chi phí hư hỏng nội bộ và
Chi phí hư hỏng ngoại tại. Nội dung cụ thể của hai nhóm
này như sau.
3.2.1 Chi phí hư hỏng nội bộ (IFC)
Đây là các khoản chi phí phát sinh khi các thành phần,
bộ phận, nguyên vật liệu, sản phẩm, dịch vụ không đáp ứng
được những yêu cầu chất lượng; và các khuyết tật của sản
phẩm được phát hiện trước khi sản phẩm đến tay người tiêu
dùng. Chi phí hư hỏng nội bộ này bằng 0 nếu mọi sản phẩm
không bị khuyết tật nào trước khi giao hàng. Chi phí này
gồm có các thành phần sau:
(i) Phế phẩm (Scrap): Chi phí lao động, nguyên liệu, và
chi phí sản xuất chung đã được cấu thành trong phế
phẩm và không có khả năng thu hồi.
(ii) Sản phẩm làm lại (Rework): Chi phí phục hồi các sản
phẩm sai hỏng để biến chúng thành chính phẩm; tức
là, chi phí làm lại bao gồm chi phí cho các hoạt động
phụ trội và nguyên vật liệu được dùng để khắc phục
Bảng 1. Đánh giá mức độ nghiêm trọng ST
Mức
độ
Mức độ tác
động
Tiêu chuẩn đánh giá
10 Nghiêm trọng,
khó lường trước
Các lỗi công nghệ không thể
phát hiện trong quá trình sản
xuất; ví dụ: nứt vòng tròn, nứt
tipping, hay nứt uốn do ứng lực,
v.v
9 Nghiêm trọng,
có thể lường
trước
Các lỗi công nghệ chỉ phát hiện
sau quá trình kiểm tra đánh giá;
ví dụ: nứt bằng đầu, bulb bật
không sáng, độ giảm quang,
v.v
8 Rất lớn Các lỗi công nghệ chỉ phát hiện
sau khi sản xuất thành sản
phẩm, sai kích thước thiết kế; ví
dụ: áp suất nạp không đạt, dòng
điện, điện áp, chỉ số truyền
màu, quang thông ban đầu
không đạt, v.v
7 Lớn Các lỗi công nghệ đòi hỏi thời
gian khắc phục lâu; ví dụ: hàn
bịt lỗ, nứt vai hàn, đen/vàng
điện cực, v.v
6 Tương đối lớn Các lỗi gây ảnh hưởng đến công
đoạn sau; ví dụ: hàn méo
miệng, kích thước bán thành
phẩm, cao tipping, v.v
5 Đáng kể Các lỗi ảnh hưởng đến cảm
nhận mỹ quan thành phẩm; ví
dụ: tróc huỳnh quang, uốn có
gờ/gân, tráng có bọt khí, v.v
4 Tương đối đáng
kể
Các lỗi do thiết bị nhưng có thể
khắc phục ngay; ví dụ: Ống
dính dầu, mẻ vị trí uốn, cổ bị
xước, dư/thiếu thủy ngân, v.v
3 Thấp Các lỗi liên quan đến lỗi thao
tác; ví dụ: bể vỡ do thao tác.
2 Rất thấp Các lỗi bình thường chỉ gây tiêu
hao nguyên vật liệu, có thể tận
dụng lại một phần; ví dụ: rửa &
uốn ống bị dơ, tuột bột huỳnh
quang, uốn có bọt khí, v.v
1 Không có Không ảnh hưởng gì đến chất
lượng sản phẩm
lỗi cho sản phẩm.
(iii) Kiểm tra lại (Retest): Chi phí cho việc kiểm tra
những sản phẩm vừa được làm lại hoặc được điều
chỉnh.
(iv) Phân tích sai hỏng: Chi phí cho việc xác định nguyên
nhân gây ra những sai hỏng của sản phẩm.
(v) Thời gian chết (Downtime): Chi phí phát sinh do sự
tạm dừng hoạt động của trang thiết bị để khắc phục
lỗi. Trong rất nhiều trường hợp thì những lỗi thuộc về
chất lượng nguyên vật liệu đầu vào không được kiểm
soát tốt trước khi nhập kho; do đó, khi được đưa ra sản
xuất thì không đáp ứng yêu cầu sản xuất nên phải tạm
dừng dây chuyền sản xuất.
(vi) Giảm năng suất (Yield losses): Năng suất sản xuất
giảm cũng là một trong những nguồn phát sinh chi phí
cho nhà sản xuất.
3.2.2 Chi phí hư hỏng ngoại tại (EFC)
Cải tiến hệ số ưu tiên rủi ro trong phân tích lỗi sản phẩm
10 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
Đây là các chi phí phát sinh do các khuyết tật được phát
hiện sau khi sản phẩm được đưa đến tay người sử dụng. Chi
phí này bằng 0 nếu các sản phẩm đều đáp ứng yêu cầu về
chất lượng qui định. Chi phí này bao gồm các khoản:
(i) Giải quyết thắc mắc, khiếu nại: Chi phí liên quan đến
việc thanh tra, giải quyết các thắc mắc, khiếu nại từ
phía khách hàng về những lỗi của sản phẩm hoặc dịch
vụ được cung cấp.
(ii) Sản phẩm bị hoàn trả: Chi phí liên quan đến việc giao
nhận, vận chuyển và thay thế sản phẩm không đảm
bảo chất lượng.
(iii) Bảo hành: Các khoản chi phí liên quan đến việc thay
thế và sửa chữa các sản phẩm còn trong thời gian bảo
hành.
(iv) Các khoản chi phí gián tiếp: Những sản phẩm không
đảm bảo chất lượng sẽ làm cho khách hàng không hài
lòng, ảnh hưởng đến thái độ của họ đối với nhà sản
xuất; do đó, nó sẽ phát sinh các khoản chi phí như mất
danh tiếng, mất khách hàng hiện tại và khách hàng
tiềm năng do hiệu ứng tiêu cực từ những khách hàng
không hài lòng, và mất thị phần kinh doanh.
Do đó, với mỗi dạng lỗi phát sinh, chúng ta đều có thể
xác định được chi phí hư hỏng nội bộ IFC và chi phí hư
hỏng ngoại tại EFC của nó. Giả sử, quá trình sản xuất sản
phẩm X có n dạng lỗi khác nhau; gọi jIFC và
lần lượt là chi phí hư hỏng nội bộ và chi phí hư
hỏng ngoại tại của dạng lỗi thứ j.
Để xác định mức độ nghiêm trọng về kinh tế để xử lý sản
phẩm lỗi nếu được phát hiện của dạng lỗi thứ j, được ký
hiệu là và mức độ nghiêm trọng về kinh tế để xử lý sản
phẩm lỗi nếu không được phát hiện của dạng lỗi thứ j, được
ký hiệu là chúng ta tiến hành như sau:
Đặt:
Khi đó,
Việc xác định mức độ nghiêm trọng về mặt kinh tế như
và như (2) chẳng những khắc phục được những
nhược điểm của cả Hệ số ưu tiên rủi ro RPN trong phương
pháp Phân tích các dạng lỗi và tác động FMEA truyền
thống và Hệ số “Giá trị đánh giá rủi ro” RAV do Sawhney
& c.s. [10] đề xuất mà còn đánh giá mức độ nghiêm trọng
giữa hai khoản chi phí chất lượng: Chi phí hư hỏng nội bộ
IFC và Chi phí hư hỏng ngoại tại EFC của cùng một dạng
lỗi; tức là, nếu dạng lỗi j có và thì chúng
ta dễ dàng kết luận được rằng dạng lỗi này cần phải quan
tâm nhiều hơn trong quá trình sản xuất, đặc biệt là khâu
kiểm tra thành phẩm để hạn chế sản phẩm khuyết tật đến
tay người sử dụng bởi vì chi phí ngoại tại của lỗi này cao
hơn nhiều so với chi phí nội bộ của nó.
4. ỨNG DỤNG THỰC TIỄN
Nhằm đánh giá tính khả thi của Hệ số ưu tiên rủi ro
được cải tiến MRPN, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực
tiễn tại một công ty chuyên sản xuất lon nhôm hai mảnh
được dùng trong công nghiệp bia và nước giải khát. Nhà
máy sản xuất của doanh nghiệp này ở đặt tại Đồng Nai.
Trong thời gian vừa qua, công ty thường xuyên gặp phải
vấn đề không đạt kế hoạch sản xuất do tỷ lệ lon bị lỗi lên
đến gần 14%. Tỷ lệ lỗi cao như vậy trong thời gian dài đã
làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Bảng 2. Các dạng lỗi chủ yếu trong sản xuất lon nhôm
Công đoạn Các dạng lỗi
Phủ dầu Dư dầu, thiếu dầu
Dập cup
Độ dày không đều; Thân bị trầy,
bị nhăn; Đáy bị nhăn
Vuốt lon Lon bị thủng, bị nhăn, bị rách
Cắt mép
Không đều, dính ba vía; độ cao
lon không đạt chuẩn
Rửa & sấy lon
Lon còn dính dầu; Đáy và thân
lon bị đen lốm đốm
Phủ vanish
Phủ không đều; phủ chồng mí;
varnish nằm bên trong lon
In ấn
Màu không đúng tông; nét không
đúng thiết kế; lem màu
Phủ lacquer & sấy IBO Phủ không đều
Túm cổ & bẻ gờ lon
Cổ lon bị nhăn; gờ lon bị móp,
méo, không gọn
Bảng 3. Bốn lỗi có hệ số RPN và MRPN cao
Công
đoạn
Dập cup Vuốt lon Rửa & sấy
Túm cổ &
bẻ gờ
Dạng
lỗi
Nhăn
Thủng,
rách
Đen lốm
đốm
Gờ bị
móp, méo,
không gọn
Nguyên
nhân
Áp lực
pittong
dập và
khuôn
kẹp
không
chặt
Thông số
vận hành
không
đúng,
công nhân
thao tác
thiếu tập
trung
Nước rửa
không đảm
bảo tiêu
chuẩn nên
lon nhôm
chưa được
vệ sinh và
tẩy rửa rỉ sét
kỹ
Cùm dính
ba vía
Kiểm
soát
hiện tại
Sau khi
cup rời
công
đoạn;
kiểm tra
thủ công
Sau khi
lon rời
công
đoạn;
kiểm tra
thủ công
Sau khi lon
rời công
đoạn; kiểm
tra thủ công
Sau khi
lon rời
công
đoạn;
kiểm tra
thủ công
O 9 10 6 5
D 4 4 7 5
S 8 8 5 7
RPN 288 320 210 175
PO 0,08 0,12 0,07 0,06
ST 8 8 5 7
PD 0,95 0,96 0,85 0,92
SI 12 15 16 18
SE 21 26 20 22
MRPN 8,43 15,40 7,37 8,63
Nhằm có giải pháp giúp công ty giảm thiểu sản phẩm
lỗi, nâng cao chất lượng sản phẩm lon nhôm, chúng tôi đã
đề xuất thành lập nhóm chất lượng FMEA gồm 14 người,
bao gồm các nhà quản lý, kỹ sư, trưởng bộ phận và các tổ
trưởng. Nhóm FMEA tiến hành phân tích quá trình sản xuất
và xác định được các dạng lỗi chủ yếu trong các công đoạn
như trong Bảng 2.
Bằng phương pháp FMEA, nhóm đã tiến hành xác định
mức độ xuất hiện của các dạng lỗi, mức độ phát hiện các
Nguyễn Thanh Lâm, Lê Văn Tú, Huỳnh Quang Tuyến
11 11 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
lỗi, mức độ nghiêm trọng của các lỗi ở các góc độ kỹ thuật
và kinh tế (ST, SI, SE). Từ đó, nhóm đã đưa ra hệ số ưu tiên
rủi ro cải tiến MRPN của từng dạng lỗi; qua đó xác định
được 4 lỗi có hệ số RPN và MRPN cao như trong Bảng 3.
Bảng 3 cho thấy có sự khác biệt trong việc xếp hạng ưu
tiên rủi ro đối với bốn dạng lỗi đã được xác định. Cụ thể là,
với Hệ số RPN truyền thống thì thứ tự ưu tiên của bốn dạng
lỗi đó được xếp giảm dần như sau: (1) Lon bị thủng, rách ở
công đoạn vuốt lon; (2) Cup bị nhăn ở công đoạn dập cup;
(3) Lon bị đen lốm đốm ở công đoạn rửa & sấy; và (4) Gờ
bị móp, méo, không gọn ở công đoạn túm cổ và bẻ gờ lon.
Trong khi đó, Hệ số MRPN xác định thứ tự ưu tiên xử lý
như sau: (1) Lon bị thủng, rách ở công đoạn vuốt lon; (2)
Gờ bị móp, méo, không gọn ở công đoạn túm cổ và bẻ gờ
lon; (3) Cup bị nhăn ở công đoạn dập cup; (4) Lon bị đen
lốm đốm ở công đoạn rửa & sấy. Như vậy, cả hai hệ số này
đều đánh giá dạng lỗi “Lon bị thủng, rách ở công đoạn vuốt
lon” là nghiêm trọng nhất và cần được ưu tiên xử lý; trong
khi thứ tự ưu tiên xử lý ba dạng lỗi còn lại có sự khác biệt
đáng kể. Với mỗi dạng lỗi, nhóm FMEA đã đề ra các giải
pháp khắc phục cụ thể như Bảng 4.
Bảng 4. Một số giải pháp khắc phục cụ thể
Công
đoạn
Dạng
lỗi
Giải pháp thực hiện
Nhóm giải
pháp
Dập cup
Cup
bị
nhăn
Hướng dẫn công nhân điều
chỉnh đúng thông số về áp lực
pittong dập và kiểm tra độ
chặt của khuôn kẹp trước mỗi
ca sản xuất. Đồng thời phải
xác định vị trí của khuôn thật
chính xác và kiểm tra mức độ
hao mòn của khuôn kẹp.
Nhóm 1
Vuốt
lon
Lon
bị
thủng,
rách
Hướng dẫn công nhân điều
chỉnh đúng thông số vận
hành. Tạm thời cử cán bộ
giám sát mức độ tập trung
làm việc của công nhân thao
tác ở các máy; về lâu dài sẽ
lắp đặt các camera theo dõi.
Nhóm 2
Rửa &
sấy
Lon
bị đen
lốm
đốm
Lập ra tiêu chuẩn kiểm tra
nước rửa, bồn rửa và tình
trạng vệ sinh, tẩy rửa lon
nhôm trước khi đem sấy; định
kỳ thay nước rửa và trang bị
dụng cụ kiểm tra cho công
nhân.
Nhóm 3
Túm cổ
& bẻ gờ
Gờ bị
móp,
méo,
không
gọn
Yêu cầu công nhân vệ sinh
cùm trước và sau ca sản xuất.
Trong ca sản xuất, công nhân
thường xuyên kiểm tra sự
bám dính của các mẫu vụn
nhôm lên cùm. Đặt biệt là
cùm cần được lắp đặt đúng vị
trí.
Nhóm 4
Để đánh giá được hiệu quả của Hệ số MRPN so với Hệ
số RPN truyền thống, nhóm FMEA chọn hai chuyền sản
xuất có điều kiện sản xuất (trang thiết bị và trình độ công
nhân) giống nhau; trong đó, mỗi chuyền sản xuất sẽ tập
trung thực hiện giải pháp khắc phục cho ba dạng lỗi được
ưu tiên nhất. Tức là, chuyền sản xuất thứ nhất sẽ thực hiện
các giải pháp ở nhóm 1, 2, 3; chuyền thứ hai sẽ thực hiện
các giải pháp ở nhóm 1, 2 và 4. Hai chuyền này tiến hành
sản xuất thử nghiệm các giải pháp này trong thời gian hai
tuần làm việc.
Sau đó, tiến hành kiểm tra tình hình lỗi trên các sản
phẩm được sản xuất ra trên mỗi chuyền; kết quả về tỷ lệ sản
phẩm khuyết tật của chuyền thứ nhất và chuyền thứ hai lần
lượt là 6% và 4%.
Kết quả này cho thấy việc xác định thứ tự ưu tiên thực
hiện giải pháp của Hệ số MRPN tốt hơn của Hệ số RPN
truyền thống.
5. KẾT LUẬN
Ứng dụng phương pháp FMEA trong việc phân tích các
dạng lỗi và tác động đã và đang ngày càng được quan tâm
trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm/ dịch vụ. Nó
giúp cho các nhà sản xuất/ cung ứng dịch vụ có thể nhận
diện những lỗi/ sai hỏng/ khuyết tật của sản phẩm, mức độ
nghiêm trọng của chúng, và tác động tiêu cực mà chúng có
thể gây ra cho các bên có liên quan cũng như hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ. Tuy nhiên, cách tiếp cận
truyền thống với Hệ số ưu tiên rủi ro RPN có ba thành
phần: mức độ xuất hiện, khả năng phát hiện và mức độ
nghiêm trọng, đã bộc lộ một số tồn tại nhất định trong việc
xếp hạng mức độ ưu tiên xử lý các dạng lỗi. Do đó, bài viết
này đề xuất một cách tiếp cận mới nhằm cải tiến Hệ số ưu
tiên rủi ro RPN truyền thống; cụ thể là bài viết xem xét tác
động của yếu tố chi phí chất lượng và năng lực phát hiện lỗi
của hệ thống kiểm soát sản phẩm lỗi tại doanh nghiệp, bởi
vì năng lực đó có quan hệ mật thiết với khả năng sản phẩm/
dịch vụ bị khuyết tật đến tay người sử dụng, tức là năng lực
đó có thể giúp xây dựng hoặc phá hủy danh tiếng chất
lượng của doanh nghiệp.
Hệ số cải tiến MRPN đó được áp dụng thử nghiệm thực
tế tại một công ty chuyên sản xuất lon nhôm dùng cho bia
và nước giải khát. Sau khoảng thời gian thử nghiệm, so với
Hệ số ưu tiên rủi ro RPN truyền thống, Hệ số cải tiến
MRPN đã hiệu quả hơn trong việc xác định thứ tự ưu tiên
xử lý lỗi; do đó, tỷ lệ sản phẩm lỗi trong quy trình sản xuất
lon nhôm tại công ty đã giảm đáng kể, từ 10% trước thử
nghiệm xuống còn 4% với Hệ số cải tiến MRPN và 6% với
Hệ số RPN truyền thống.
Để có thể khẳng định tính vượt trội của mình, Hệ số cải
tiến MRPN cần được nghiên cứu ứng dụng trong nhiều
ngành nghề, lĩnh vực sản xuất & dịch vụ khác nhau; trong
đó cần có sự đối sánh với Hệ số RPN truyền thống hoặc
một số hệ số cải tiến liên quan.
6. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] J. K. Chen, “Utility priority number evaluation for FMEA,”
J. Fail. Anal. Prev., vol. 7, no. 5, pp. 321-328.
[2] G. Q. Hung, M. Nie, and K. L. Mar, “Web-based failure
mode and effect analysis (FMEA),” Comput. Ind. Eng., vol.
37, no. 1-2, pp. 177-180, 1999.
[3] K. Onodera, “Effective techniques of FMEA at each life-
cycle stage,” Proc. Annu. Reliab. Maintainability Symp.,
Philadelphia, pp. 50-56, 1997.
[4] P. Bonnabry, L. Cingria, F. Sadeghipour, H. Ing, C. Fonzo-
Christe, and R. E. Pfister, “Use of a systematic risk analysis
method to improve safety in the production of pediatric
parenteral nutrition solutions,” Qual. Saf. Heath Care, vol.
14, pp. 93-98, 2005.
[5] D. M. Benjamin, “Reducing medication errors and
increasing patient safety: Case studies in clinical
pharmacology,” J. Clin. Pharmacol., vol. 43, pp. 768-783,
2003.
[6] G. Montesi, and A Lechi, “Prevention of Medication errors:
Detection and audit,” Br. J. Clin. Pharmacol., vol. 67, pp.
Cải tiến hệ số ưu tiên rủi ro trong phân tích lỗi sản phẩm
12 Tạp chí Khoa học Lạc Hồng Số 05
651-655, 2009.
[7] J. Linton, “Facing the challenges of service automation: An
enabler for e-commerce and productivity gain in traditional
services,” IEEE Trans. Eng. Manage., vol. 50, no. 4, pp.
478-484, July 2003.
[8] G. Davidson, and A. Lib, “Learning from failures: Design
improvements using a multiple criteria decision-making
process,” Proc. Inst. Mech. Eng. Part G: J. Aerosp. Eng.,
vol. 217, no. 4, pp. 207-216, 2003.
[9] S. Hsiao, “Concurrent design method for developing a new
product,” Int. J. Ind. Ergon., vol. 29, pp. 41-55, 2002.
[10] R. Sawhney, K. Subburaman, C. Sonntag, C. Capizzi, and P.
V. Rao, “A modified FMEA approach to enhance reliability
of lean systems,” Int. J. Qual. Reliab. Manage., vol. 27, no.
7, pp. 832-855, 2010.
[11] K. W. Daily, The FMEA Pocket Handbook, DW Publishing
Co., USA, 2004.
[12] L. Zambrano, K. Sublettle, K. Duncan, and G. Thoma,
“Probabilistic reliability modeling for oil exploration &
production (E&P) facilities in the tallgrass prairie preserve,”
Risk Anal., vol. 27, pp. 1323-1333, 2007.
[13] L. A. Cox Jr., D. Babajev, and W. Huber, “Some limitations
of qualitative risk rating systems,” Risk Anal., vol. 25, pp.
651-662, 2007.
[14] L. A. Cox Jr., “What’s wrong with risk matrices?” Risk
Anal., vol. 28, pp.497-512, 2008.
[15] D. Patrick, Practical Reliability Engineering, 4th Ed.,
Beijing: Publish House of Electronics Industry, 2004.
[16] S. Karthik, A. Sivakumar, P. Sevvel, “Comparative study of
risk assessment value against risk priority number,” Int. J.
Innovative Res. Sci. Eng. Technol., vol. 4, no. 2, pp. 114-
123, February 2015.
[17] W. Gilchrist, “Modeling failure modes and effects analysis,”
Int. J. Qual. Reliab. Manage., vol. 10, pp. 16-23, 1993.
[18] S. Kmenta, and K. Ishii, “Scenario-based failure modes and
effects analysis using expected cost,” J. Mech. Des., vol.
126, pp. 1027-1035, 2004.
[19] D. C. Montgomery, Statistical Quality Control – A Modern
Introduction, 7th Ed. Asia: Wiley, 2013.
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
TS. Nguyễn Thanh Lâm
Sinh năm 1980, hiện là Phó trưởng Phòng Nghiên cứu Khoa học - Trường Đại học Lạc Hồng, tp. Biên Hòa, tỉnh
Đồng Nai. Năm 2011, với học bổng của Chính phủ Đài Loan, Lâm sang Đài Loan làm nghiên cứu sinh chuyên
ngành Quản lý công nghiệp tại Trường Đại học Khoa học ứng dụng Cao Hùng và đã tốt nghiệp vào tháng 6 năm
2014 với nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí khoa học uy tín và các kỷ yếu hội thảo quốc tế.
ThS. Lê Văn Tú
Hiện đang công tác tại Phòng quản lý thương mại trực thuộc Sở Công Thương tỉnh Đồng Nai. Tú tốt nghiệp cao
học chuyên ngành Quản trị kinh doanh tại Khoa Sau đại học – Trường Đại học Lạc Hồng năm 2014 và dự định
tiếp tục nâng cao trình độ nghiên cứu và làm nghiên cứu sinh cùng ngành cũng tại Trường Đại học Lạc Hồng.
Hướng nghiên cứu: Nguồn nhân lực, Chuỗi cung ứng và Quản trị chất lượng.
Huỳnh Quang Tuyến
Hiện đang công tác tại Ban Tổ chức của Đảng ủy Khối doanh nghiệp tỉnh Đồng Nai. Tuyến học cao học chuyên
ngành Quản trị kinh doanh tại Khoa Sau đại học – Trường Đại học Lạc Hồng dưới sự hướng dẫn của NGND.TS.
Đỗ Hữu Tài và dự định tiếp tục nâng cao trình độ nghiên cứu và làm nghiên cứu sinh cùng ngành tại Trường Đại
học Lạc Hồng. Hướng nghiên cứu: Nguồn nhân lực và Quản trị chất lượng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cai_tien_he_so_uu_tien_rui_ro_trong_phan_tich_loi_san_pham.pdf