Cải tiến phương pháp nuôi ấu trùng giun tròn trong thạch

Nhiệt độ và độ pH không chỉ là yếu tố duy nhất kích thích sự lột vỏ của ấu trùng, mà còn do tác động của các yếu tố cơ học (Stone và ctv, 1965). Sau khi lột vỏ, có thể quan sát được thực quản gấp khúc, không thấy rõ phình thực quản (Hình 3C). Ấu trùng lột vỏ 2 lần, chúng phát triển đến giai đoạn L3 hay còn gọi là ấu trùng dạng sợi do đặc tính di chuyển rất linh động hình sin (Hình 3D, E). Theo Bogitsh và cs (2013), sau 2 lần lột xác, ấu trùng dạng hình que – rhabditiform phát triển thành ấu trùng gây nhiễm dạng sợi – filariform. Ở giai đoạn này, chúng dễ dàng xâm nhập qua da của vật chủ, ở trên người chúng gây nên “hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da”. Lớp vỏ cuticun hình thành sau 2 lần lột xác bao bọc ấu trùng như một cái bao, ngăn ấu trùng tiêu hoá thêm thức ăn, và chỉ tiếp tục đến giai đoạn L4 khi di hành trong mô/cơ thể vật chủ. Trong thí nghiệm này, chúng tôi đã cải tiến phương pháp nuôi ấu trùng trên thạch giúp cho việc thu ấu trùng dễ dàng hơn, đồng thời rút ngắn thời gian ấu trùng phát triển đến giai đoạn L3 - giai đoạn chứa nhiều đoạn gen mã hoá nên các protein đặc hiệu có ý nghĩa trong việc sản xuất các chế phẩm sinh học hỗ trợ trong việc phòng trị bệnh giun móc truyền lây.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cải tiến phương pháp nuôi ấu trùng giun tròn trong thạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 77 đậm hơn so với lô ĐC. Trong đó độ đậm màu của lô TN3 là cao nhất (đạt 8,55 điểm) cao hơn 2,30 điểm so với lô ĐC (6,25 điểm), tiếp đến là lô TN2 (8,00 điểm), cao hơn 1,75 điểm so với lô ĐC, sau đó là lô TN1 (6,75 điểm) cao hơn lô ĐC 0,50 điểm. Như vậy, việc bổ sung Px-Agro Super đã giúp cải thiện đáng kể màu của chân gà. Việc bổ sung PX-Agro super có ảnh hưởng đến việc tăng màu của da và chân gà là do trong thành phần của Px-Agro Super chứa các sắc chất tạo màu đặc trưng (Xanthophyl, Lutein, Zea- xanthin và ß Caroten). Ngoài ra, bổ sung chế phẩm này còn làm tăng độ đậm màu của da và chân gà. Màu sắc da và chân gà là những chỉ tiêu không có ý nghĩa trong đánh giá chất lượng thịt, nhưng có giá trị trong thương mại (Schuberth và Ruhland, 1978) vì đây là những chỉ tiêu có ảnh hưởng rất lớn tới thị hiếu người tiêu dùng. Ở Việt Nam, người tiêu dùng thường thích chọn gà có màu da và chân vàng (vấn đề về màu sắc da và chân gà là nhược điểm lớn của gà thịt thương phẩm nuôi nhốt). Điều này cũng đồng nghĩa với việc gà ăn thức ăn có bổ sung Px-Agro Super sẽ thuận lợi hơn trong việc bán sản phẩm đầu ra do đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. 4. KẾT LUẬN Việc bổ sung chế phẩm Px-Agro Super với các mức khác nhau (1, 2, 3%) không làm ảnh hưởng đến các chỉ tiêu về chất lượng thịt gà, nhưng đã góp phần làm tăng tỷ lệ các phần thịt có giá trị (thịt đùi và thịt lườn). Đồng thời, bổ sung chế phẩm Px-Agro Super còn làm tăng độ đậm màu của da và chân gà. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Thái Hải (2006). Đáp ứng của đàn gà thịt Cobb500 với khẩu phần protein thấp được bổ sung 1 số axít amin không thay thế, Tạp chí KHKT Nông nghiệp, 4(6): 56-60. 2. Nguyễn Thị Hải, Trần Thanh Vân và Đoàn Xuân Trúc (2008). Khảo nghiệm khả năng sản xuất của gà thương phẩm Sasso nuôi vụ Thu - Đông tại Thái Nguyên. Tạp chí Chăn nuôi, 2: 9-10. 3. Nguyễn Thị Mai, Bùi Hữu Đoàn và Hoàng Thanh (2009). Giáo trình Chăn nuôi gia cầm, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Proudman J.A., W.J. Mellon and D.I. Anderson (1970). Utilization of feed in fast and slows growing lines of chickens, Poul. Sci., 49: 177-82. 5. Schuberth L. and Ruhand R. (1978). Cơ sở sinh học của nhân giống và nuôi dưỡng gia cầm (Người dịch: Nguyễn Chí Bảo). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ Thuật Hà Nội, trang 486-24. 6. Schilling M.W., V. Radhakrishan, Y.V. Thaxton, K. Christensen, J.P. Thaxon and V. Jackson (2008). The effects of broiler catching method on breast meat quality, Meat Sci., 79: 163-71. 7. Nguyễn Trọng Thiện, Phùng Đức Tiến, Nguyễn Quý Khiêm, Đỗ Thị Sợi, Lê Thị Thu Hiền và Nguyễn Thị Mười (2010). Khả năng sản xuất của gà ông bà Hub- bard Redbro nhập nội và con lai của chúng, Tạp chí KHCN Chăn nuôi, 24: 1-8. 8. Vũ Đình Tôn và Hán Quang Hạnh (2010). Xác định mức sử dụng bột giun quế (Perionyx excavatus) thích hợp trong khẩu phần ăn của gà broiler (Hồ x Lương Phượng) nuôi thả vườn, Tạp chí KHPT, 8(6): 949-58. 9. Trần Công Xuân (1995). Nghiên cứu các mức năng lượng thích hợp trong khẩu phần nuôi gà broiler: Ross 208, Ross 208-V35, Tuyển tập công trình nghiên cứu KHKT chăn nuôi (1969-1995), NXB Nông nghiệp, Hà Nội, trang 127-33. 10. Yu L.H., E.S. Lee, J.Y. Jeong, H.D. Paik, J.H. Choi and J.C. Kim (2005). Effects of thawing temperature on the physicochemical properties of pre-rigor frozen chicken breast and leg muscles, Meat Sci., 71: 375-82. CẢI TIẾN PHƯƠNG PHÁP NUÔI ẤU TRÙNG GIUN TRÒN TRONG THẠCH Vũ Hoài Nam1, Công Hà My1 và Bùi Khánh Linh1* Ngày nhận bài báo: 22/06/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 10/07/2020 Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 31/07/2020 1 Học viện Nông nghiệp Việt Nam *Tác giả liên hệ: TS. Bùi Khánh Linh. Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tel: 0888945599. Email: bklinh5@gmail. com CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202078 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Các loài giun tròn truyền qua đất (soil transmitted helminths - STHs) gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam (Santarem và ctv, 2011). Ước tính một tỷ người hiện đang bị nhiễm STHs trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nơi điều kiện sống còn nghèo khó (WHO, 2011). Trong đó, các loài giun móc, giun đũa, giun lươn, giun tóc là nhóm giun tròn được quan tâm nhiều nhất, do có tỷ lệ nhiễm cao ở chó và có khả năng truyền lây sang người. Đối với bệnh giun móc và giun lươn, những nghiên cứu sâu về bệnh đều yêu cầu một lượng lớn ấu trùng giun ở giai đoạn L3, vì đây là giai đoạn mầm bệnh có khả năng lây nhiễm cho người và động vật. Ấu trùng L3 thu được sẽ được sử dụng cho những thử nghiệm đánh giá thuốc và chế phẩm sinh học in vitro, phân tích và điều chế kháng nguyên phục vụ cho mục đích chẩn đoán sớm, và để gây nhiễm cho động vật thí nghiệm. Do đó phương pháp thu trứng từ phân động vật bệnh và nuôi hình thành ấu trùng là một bước tiến hành quan trọng trong những nghiên cứu về bệnh. Phương pháp Baermann là phương pháp thường quy được sử dụng để thu ấu trùng giun tròn, tuy nhiên phương pháp có một số nhược điểm nhất định như hệ thống thiết kế thí nghiệm cồng kềnh, số lượng ấu trùng thu đươc không cao do ấu trùng có khả năng bám vào hệ thống ống dẫn hay vải gạc, và khó có thể điều chỉnh điều kiện cho sự phát triển của chúng.Trong khi đó, phương pháp nuôi ấu trùng trong thạch là một trong những phương pháp hiện đang được sử dụng tại một số phòng thí nghiệm ký sinh trùng trên thế giới để thu ấu trùng rất hiệu quả (Buonfrate và ctv, 2015; Jucelene, 2003), nhưng chưa được giới thiệu tại Việt Nam. Trứng giun sau khi thu được đặt trên bề mặt thạch agar thường, sẽ nở thành ấu trùng và có thể quan sát thấy dễ dàng, thông thường sẽ phải mất 5-10 ngày để ấu trùng phát triển đến giai đoạn L3 (https:// www.cdc.gov/dpdx/hookworm/index.html). Ở thí nghiệm này, chúng tôi tiến hành cải tiến phương pháp nuôi ấu trùng trên thạch nhằm rút ngắn thời gian nuôi cấy đồng thời tăng tỷ lệ nở và phát triển của ấu trùng. Kết quả từ nghiên cứu này sẽ là nền tảng cho những nghiên cứu về giun tròn phục vụ các mục tiêu nghiên cứu khác nhau và giảng dạy ký sinh trùng thú y. TÓM TẮT Phương pháp nuôi ấu trùng trong thạch được sử dụng để thu ấu trùng giun tròn phục vụ chẩn đoán và nghiên cứu một số bệnh giun tròn. Nghiên cứu này được tiến hành với mục đích cải tiến phương pháp nuôi ấu trùng trong thạch giúp tăng khả năng sống sót và giảm thời gian phát triển của ấu trùng đến giai đoạn gây nhiễm. Kết quả thu được cho thấy, tỷ lệ ấu trùng sống sót duy trì trên 60% trong vòng 7 ngày, đồng thời rút ngắn thời gian phát triển của ấu trùng đến giai đoạn L3. Sự rút ngắn về thời gian nuôi và số lượng ấu trùng thu được từ phương pháp này rất hữu ích cho các thí nghiệm xác định các yêu cầu tăng trưởng cho sự phát triển, cũng như đánh giá các tác động của các hợp chất đối với ấu trùng giun tròn. Từ khoá: Giun tròn, giun móc, ấu trùng, thạch. ABSTRACT A modified agar plate method for culturing nematoda larvae Agar plate method (AP) used for maintenance and collection of nematoda larvae. This study aims to modify the AP method, shortening the time larvae develop to infective stage (L3) and increasing the larval survival rate. The results showed that, the larvae survival rate remained above 60% during a 7-day period, while the larval development time were reduced. This data is useful for further studies on identifying the growth requirements for development, as well as assessing the impacts of numerous substances on nematoda larvae. Keywords: Nematode, Hookworm, larvae, Agar. CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 79 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Mẫu phân chó sử dụng trong thí nghiệm được thu thập theo phương pháp ngẫu nhiên đơn giản tại Gia Lâm, Trâu Quỳ, Hà Nội. Mẫu được tiến hành kiểm tra tại phòng thí nghiệm Bộ môn Ký sinh trùng - Khoa Thú y - Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Giun móc được sử dụng trong thí nghiệm làm đại diện cho một số loài giun tròn khác. 2.2. Phương pháp thu trứng giun móc Mẫu phân chó dương tính với giun móc được hòa với nước muối bão hoà, lọc qua rây lọc và chuyển vào ống fancol, ly tâm 6.000 vòng/phút trong 10 phút. Giữ lại 2ml phần nổi và chuyển vào ống mới, bổ sung 8ml nước cất, ly tâm 6.000 vòng/phút trong 10 phút. Giữ lại phần cặn, rửa 2 lần với nước cất bằng cách ly tâm 10.000 vòng/phút trong 5 phút. Phần cặn thu được chứa trứng giun móc. Hút nhỏ lên phiến kính, quan sát dưới kính hiển vi và đếm số lượng trứng thu được. 2.3. Phương pháp nuôi ấu trùng trong thạch Tiến hành pha 3 môi trường thạch có nồng độ khác nhau: cho bột agar và các thành phần khác hoà với nước cất theo tỷ lệ (bảng 1), hấp ở nhiệt độ 121oC trong vòng 20 phút để dung dịch đồng nhất, đồng thời loại bỏ vi khuẩn, nấm. Đổ thạch ra đĩa petri, dày khoảng 2 cm rồi chờ 20-30 phút để thạch đông. Nhỏ dung dịch cặn có trứng giun móc lên bề mặt thạch, mỗi đĩa thạch chứa khoảng 1000 trứng. Đặt đĩa thạch (đường kính 30mm) vào trong đĩa petri to (đường kính 90mm) có chứa 5ml Glycerin 25%. Đậy nắp lại, quấn parafilm để trong tủ ấm 37oC - nhiệt độ tối ưu để trứng phát triển thành ấu trùng. Sau 1 ngày, chuyển nhiệt độ tủ ấm xuống 25oC để phù hợp với nhiệt độ phát triển của ấu trùng. Sau 24h, lấy đĩa thạch ra kiểm tra theo các chỉ tiêu theo dõi và nhỏ 0,5ml PBS 1X láng đều bề mặt thạch. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí làm 3 lô theo bảng dưới đây. Bảng 1: Tỷ lệ thành phần trong ba môi trường thạch khác nhau Lô Thành phần 1 (Lô đối chứng) Thạch thường (2%) 2 (Lô thí nghiệm) Thạch thường (2%) bổ sung thêm peptone (0,25%) 3 (Lô thí nghiệm) Thạch thường (2%) bổ sung thêm peptone (0,25%) và Nystatin (200 UI/ml) 2.4. Phương pháp đánh giá kết quả Sau 24h, kiểm tra ấu trùng nở hàng ngày bằng cách đếm số ấu trùng nở dưới kính hiển vi có độ phóng đại 10. Tỷ lệ phát triển của ấu trùng được đánh giá vào các ngày thứ nhất, thứ 4, thứ 7 và thứ 10. Theo dõi trong 10 ngày. - Tỷ lệ phát triển của ấu trùng giun móc = ( % ) (kết quả tỷ lệ phát triển là giá trị trung bình lặp lại trên 3 đĩa thạch khác nhau). Kích thước của 30 ấu trùng ngẫu nhiên được đo trực tiếp trên đĩa thạch mỗi ngày bằng cách soi dưới kính hiển vi có độ phóng đại 400 và sử dụng phần mềm Infinity Analyzer. 2.5. Phương pháp xử lý số liệu Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê sinh học. So sánh thống kê các giá trị trung bình sử dụng phần mềm Medcalc 19.2 (https://www.medcalc.org/index.php). Sự sai khác giữa các công thức được coi là có ý nghĩa thống kê nếu P≤0,05. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Ảnh hưởng của môi trường nuôi đến kích thước của ấu trùng giun móc. Kết quả đo 30 ấu trùng trên các môi trường thạch khác nhau cho thấy sự khác biệt về kích thước ấu trùng giữa các lô thí nghiệm từ ngày 1 đến ngày 10 (Hình 1). CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202080 Hình 1. Kích thước của ấu trùng giun móc (n=30) Lô 1: môi trường thạch thường; Lô 2: môi trường thạch+bổ sung peptone; Lô 3: môi trường thạch+bổ sung peptone và thuốc kháng nấm Quan sát kích thước ấu trùng của lô 2 và 3 cho thấy sự phát triển của ấu trùng vượt trội hơn hẳn so với lô 1. Ở lô 1, ấu trùng chỉ đạt kích thước lớn nhất vào ngày thứ 6 và trung bình 500µm, trong khi đó ấu trùng ở lô 2 và 3 đã đạt tới kích thước 600µm ngay ở ngày thứ 4. Đối với lô có bổ sung peptone, ấu trùng phát triển nhanh, tăng từ 303±45µm ở ngày thứ nhất và đạt kích thước 601±47µm vào ngày thứ 4 (P<0,01). Sự phát triển nhanh tương tự cũng được quan sát thấy ở lô 3, khi kích thước trung bình tăng từ 306±36µm tới cực đại là 632±39µm vào ngày thứ 5 (P<0,01). Ngoài môi trường, ấu trùng giun móc sống trong đất cần 5-10 ngày để phát triển đến giai đoạn L3 (https://www.cdc.gov/dpdx/ hookworm/index.html). Tuy nhiên, đối với môi trường thạch được bổ sung peptone, thời gian phát triển đến giai đoạn này được rút ngắn hơn (Bảng 2). Bảng 2. Thời gian ấu trùng giun móc đạt kích thước ở giai đoạn gây nhiễm nuôi trên 3 môi trường thạch Lô Thời gian ấu trùng đạt kích thước ở giai đoạn gây nhiễm 1 Ngày 6 495,39±93,62µm 2 Ngày 4 601,1±47,35µm 3 Ngày 4 613,9±55,23µm Ở ngày thứ 4 sau khi nuôi trên đĩa thạch có bổ sung peptone (lô 2) và peptone + nystatin (lô 3), kích thước ấu trùng đạt trên 600 µm, tương tự với kích thước trung bình của ấu trùng khi đạt đến giai đoạn L3 - giai đoạn gây nhiễm (Brooker và ctv, 2004). Kích thước cực đại của ấu trùng nuôi trên thạch thường (lô 1) là 495,39±93,62µm ở ngày thứ 6, chưa đạt đến kích thước của ấu trùng giai đoạn gây nhiễm. Việc không quan sát được ấu trùng L3 ở lô 1 có thể do môi trường thạch agar thường không đủ dinh dưỡng để duy trì sự phát triển của ấu trùng, do vậy ấu trùng chỉ đạt đến kích thước nhất định rồi chết. Thí nghiệm của Reiss (2007) cho thấy kích thước của ấu trùng giun móc nuôi trong môi trường không có vi khuẩn hay có bổ sung chủng E. coli bất hoạt đều ngắn hơn rõ rệt so với môi trường có sự xuất hiện của vi khuẩn sống. Thí nghiệm của McCoy (1929) tiến hành nuôi ấu trùng trên môi trường có bổ sung các chủng vi khuẩn khác nhau, kết quả cho thấy ấu trùng phát triển tốt nhất trên môi trường có bổ sung các chủng trực khuẩn, bao gồm cả Bacterium colt, B. lactis aerogenes và B. alcaligenes. Đây là các chủng vi khuẩn phổ biến nhất có trong phân và có thể dễ dàng phát triển trong môi trường có peptone. Trong thí nghiệm của chúng tôi, do lô 2 và lô 3 có bổ sung thêm peptone - ngoài việc cung cấp năng lượng cho hoạt động của ấu trùng còn là nguồn bổ sung protein cho vi sinh vật phát triển. Trong thí nghiệm này chúng tôi không bổ sung kháng sinh với mục đích giữ lại những vi khuẩn có trong mẫu phân, để những vi khuẩn này phát triển trong môi trường có bổ sung peptone và trở thành nguồn thức ăn cho ấu trùng. 3.2. Ảnh hưởng của môi trường nuôi đến khả năng phát triển của ấu trùng giun móc. Trứng giun móc sau khi thải ra ngoài môi trường theo phân sẽ tiếp tục phát triển và nở thành ấu trùng trong vòng 24h. Ở ngoài môi trường, gặp điều kiện thuận lợi như độ ẩm, ánh sáng, dinh dưỡng ấu trùng sẽ tiếp tục phát triển đến giai đoạn gây nhiễm và gây bệnh cho vật chủ. Chúng tôi tiến hành theo CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 2020 81 dõi sự phát triển của ấu trùng trong các môi trường thí nghiệm, kết quả như sau: Hình 2. Tỷ lệ phát triển của ấu trùng giun móc Hình 2 cho thấy tỷ lệ phát triển của ấu trùng cao nhất ở lô 3 và đạt tỷ lệ cao nhất vào ngày thứ 4 (87,1%±12,9), theo sau đó là lô 2 với tỷ lệ phát triển là 66,6%±22,5. Đối với lô 1 thì tỷ lệ phát triển này cao nhất là vào ngày thứ 4 (28,75%), thấp hơn nhiều so với lô 2 và 3. Trong quá trình nuôi ấu trùng, chúng tôi quan sát được sự xuất hiện của nấm ký sinh trên đĩa thạch ở lô 1 và 2 vào ngày thứ 4. Với sự xuất hiện của nấm, tỷ lệ sống sót của ấu trùng trên lô 2 giảm mạnh so với lô 3 từ sau ngày thứ 4, và giảm xuống tương đương với tỷ lệ phát triển của lô 1 vào ngày 10. Tỷ lệ phát triển ở lô 3 cũng có xu hướng giảm từ sau ngày thứ 4, nhưng vẫn đạt tỷ lệ cao hơn 2 lô còn lại, hơn 60% ở ngày thứ 10, so với khoảng 15-25% của lô 1-2. Một số loại nấm như D. flagrans, F. solani, V. chlamidosporium và T. harzianum có khả năng bắt giữ ấu trùng giun tròn, đặc biệt D. flagrans có khả năng tiêu diệt 100% ấu trùng sau 14 ngày nuôi (Zarrin và ctv, 2017), trong đó D. flagrans là một chủng nấm tự nhiên được phân lập từ môi trường và được tìm thấy trên khắp thế giới. Hiện nay, các biện pháp diệt trừ giun tròn phổ biến là sử dụng những loại thuốc ngừa ký sinh trùng do tính tiện lợi và chi phí thấp, tuy nhiên việc lạm dụng các loại thuốc ngừa ký sinh trùng sẽ dẫn đến hiện tượng kháng thuốc nếu sử dụng lâu dài. Vì vậy, nhờ vào khả năng “bẫy” ấu trùng, việc sử dụng các loại nấm để ức chế ấu trùng là một hướng đi mới thân thiện với môi trường nhằm kiểm soát dịch bệnh. Mặc dù chưa phân định rõ loài, thí nghiệm của chúng tôi cũng cho thấy tác động đáng kể của nấm trong việc hạn chế sự phát triển của ấu trùng giun móc. Để đảm bảo cho quá trình phát triển bình thường của ấu trùng, việc bổ sung thuốc kháng nấm là cần thiết. Trong thí nghiệm này, tỷ lệ phát triển của ấu trùng của lô 3 là cao nhất do có bổ sung thuốc kháng nấm nystatin, tỷ lệ này luôn duy trì trên 60% ở tất cả các ngày thí nghiệm và cao hơn nhiều so với 2 lô còn lại không được bổ sung thuốc kháng nấm. Điều này cho thấy việc bổ sung nystatin có tác động tích cực trong việc hỗ trợ duy trì sự sống của ấu trùng. Bên cạnh yếu tố kích thước và sự hình thành lớp vỏ cuticle, sự chuyển động của ấu trùng cũng là 1 yếu tố để đánh giá sự phát triển đạt đến giai đoạn L3 của ấu trùng. Ấu trùng trong quá trình phát triển và khi đạt đến L3 sẽ có chuyển động theo biểu đồ hình sin đặc trưng (Kotze và ctv, 2004), tương tự như sự di động của phần lớn ấu trùng của lô 2 và lô 3 trong nghiên cứu của chúng tôi. Ở lô 1 không quan sát thấy chuyển động này, ấu trùng di động chậm hoặc hầu như không chuyển động. 3.3. Một số đặc điểm hình thái của ấu trùng giun móc khi nuôi trong môi trường thạch Ấu trùng giai đoạn L1 - ấu trùng dạng hình que quan sát được nhiều nhất ở ngày thứ 1 sau khi nở (Hình 3A). Ấu trùng có thực quản thẳng, hình que, dài khoảng 90µm - bằng khoảng ¼ kích thước ấu trùng, tính từ sau miệng đến hết phình thực quản. Trong giai đoạn này, không quan sát được vỏ bọc hình thành bên ngoài, phần miệng hở, dài và hẹp, cho phép ấu trùng ăn vi khuẩn và các chất hữu cơ khác ngoài môi trường. Phần lỗ sinh dục nhỏ, gần phía đuôi, đuôi thon nhỏ và nhọn. Đến ngày thứ 4, tất cả ấu trùng ở cả lô 2 và lô 3 đều quan sát thấy có sự hình thành lớp vỏ bao bên ngoài. Sau một thời gian, vỏ bao bên ngoài bắt đầu vỡ một đầu để ấu trùng chui ra bên ngoài (Hình 3B) CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 260 - tháng 10 năm 202082 Nhiệt độ và độ pH không chỉ là yếu tố duy nhất kích thích sự lột vỏ của ấu trùng, mà còn do tác động của các yếu tố cơ học (Stone và ctv, 1965). Sau khi lột vỏ, có thể quan sát được thực quản gấp khúc, không thấy rõ phình thực quản (Hình 3C). Ấu trùng lột vỏ 2 lần, chúng phát triển đến giai đoạn L3 hay còn gọi là ấu trùng dạng sợi do đặc tính di chuyển rất linh động hình sin (Hình 3D, E). Theo Bogitsh và cs (2013), sau 2 lần lột xác, ấu trùng dạng hình que – rhabditiform phát triển thành ấu trùng gây nhiễm dạng sợi – filariform. Ở giai đoạn này, chúng dễ dàng xâm nhập qua da của vật chủ, ở trên người chúng gây nên “hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da”. Lớp vỏ cuticun hình thành sau 2 lần lột xác bao bọc ấu trùng như một cái bao, ngăn ấu trùng tiêu hoá thêm thức ăn, và chỉ tiếp tục đến giai đoạn L4 khi di hành trong mô/cơ thể vật chủ. Trong thí nghiệm này, chúng tôi đã cải tiến phương pháp nuôi ấu trùng trên thạch giúp cho việc thu ấu trùng dễ dàng hơn, đồng thời rút ngắn thời gian ấu trùng phát triển đến giai đoạn L3 - giai đoạn chứa nhiều đoạn gen mã hoá nên các protein đặc hiệu có ý nghĩa trong việc sản xuất các chế phẩm sinh học hỗ trợ trong việc phòng trị bệnh giun móc truyền lây. 4. KẾT LUẬN Phương pháp nuôi ấu trùng trong thạch cải tiến giúp tăng tỷ lệ phát triển của ấu trùng giun móc, đạt trên 60%, đồng thời rút ngắn thời gian phát triển của ấu trùng đến giai đoạn L3 xuống còn 4 ngày và giảm tối đa sự phát triển của nấm tạp nhiễm giúp cho việc thu nuôi ấu trùng đạt hiệu quả. (A) (B) (C) (D) (E) Hình 3. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng A: Ấu trùng ở giai đoạn L1 – quan sát được ở 1 ngày sau khi nở (ảnh được chụp ở độ phóng đại 400) a. miệng b. thực quản c. phình thực quản, d. mầm mống cơ quan sinh dục; B: Ấu trùng trải qua giai đoạn lột vỏ (ảnh được chụp ở độ phóng đại 100); C: Ấu trùng sau khi lột vỏ (ảnh được chụp ở độ phóng đại 400); D, E: Sau 2 lần lột vỏ, ấu trùng phát triển đến giai đọan gây nhiễm L3 (ảnh được chụp ở độ phóng đại 400).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcai_tien_phuong_phap_nuoi_au_trung_giun_tron_trong_thach.pdf
Tài liệu liên quan