PHẦ N IV - CH ĂM SÓC
4.1. TƯỚI NƯỚC
T ưới nước là m ộ t công vi ệc tưởng chừ ng r ất đơn gi ản nh ưng t ưới nước đủ
để cây sinh tr ưởng, phát triển tố t là r ất khó. Tưới thi ếu nước lan s ẽ khô héo dần rồ i
ch ết, tưới th ừ a nước lại làm cho b ộ r ễ ẩm ướt, thi ếu ô-xy, cây khó hấp thu d ưỡng
ch ất, bộ r ễ thố i và ch ết.
Việc tưới nước ph ải đả m bảo hài hoà gi ữ a ẩm độ v ườn, nhiệt độ , ánh sáng.
Đ ó là cả mộ t nghệ thu ật, kinh nghi ệm củ a ng ười trồ ng lan, không có công thứ c
chung nh ất đị nh cho các vườn, cũng không th ể l ấy công th ứ c t ưới c ủa vườn này áp
d ụng cho v ườn kia trong khi môi trường chung quanh khác nhau, giá thể tr ồng
khác nhau.
Chế độ t ưới nước thay đổi tu ỳ theo mùa, loài lan, thờ i kỳ sinh tr ưởng, giá
th ể và môi tr ường tr ồng.
8 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2315 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cẩm nang trồng hoa phong lan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cẩm nang trồng hoa lan phần IV
Nguồn: hoind.tayninh.gov.vn
PHẦN IV - CHĂM SÓC
4.1. TƯỚI NƯỚC
Tưới nước là một công việc tưởng chừng rất đơn giản nhưng tưới nước đủ
để cây sinh trưởng, phát triển tốt là rất khó. Tưới thiếu nước lan sẽ khô héo dần rồi
chết, tưới thừa nước lại làm cho bộ rễ ẩm ướt, thiếu ô-xy, cây khó hấp thu dưỡng
chất, bộ rễ thối và chết.
Việc tưới nước phải đảm bảo hài hoà giữa ẩm độ vườn, nhiệt độ, ánh sáng.
Đó là cả một nghệ thuật, kinh nghiệm của người trồng lan, không có công thức
chung nhất định cho các vườn, cũng không thể lấy công thức tưới của vườn này áp
dụng cho vườn kia trong khi môi trường chung quanh khác nhau, giá thể trồng
khác nhau.
Chế độ tưới nước thay đổi tuỳ theo mùa, loài lan, thời kỳ sinh trưởng, giá
thể và môi trường trồng.
Các loài lan khác nhau thì nhu cầu nước cũng khác nhau. Cây lan có nhiều
lá, lá to dễ mất nước, do đó cần lượng nước tưới nhiều hơn. Cây lan lớn, cành
mập, lá dày thì chịu hạn khá hơn nên số lần tưới ít hơn. Thời kỳ cây ra hoa, ra rễ,
đâm chồi cây cần nhiều nước hơn nên cần tưới nhiều hơn bình thường. Thời kỳ
cây nghỉ, cây cần lượng nước ít hơn nhưng cũng cần phải giữ ẩm xung quanh
vườn lan.
Tuỳ thuộc vào cường độ ánh sáng giàn che, độ thông thoáng của vườn lan,
giá thể trồng và loại chậu,… mà có cách tưới phù hợp. Nếu vườn lan bị nắng
nhiều, gió nhiều, chậu trồng thoáng, giá thể giữ nước kém thì phải tưới nhiều lần
hơn.
Cách tưới: Cách tưới tốt nhất là tưới phun cho giọt nước rơi nhẹ nhàng,
không làm chấn thương cây. Có thể trang bị hệ thống tưới phun, tưới bằng vòi
hoặc bằng bình xịt. Không phải tưới xói xả mà tưới phun sương và tưới đi tưới lại
nhiều lần. Thông thường tưới vào buổi sáng và chiều mát. Nếu trời nóng quá thì
tăng số lần tưới và tăng lượng nước tưới, tránh tưới nước quá ít sẽ làm hơi nước
bốc lên nóng cây. Vào buổi trưa, nắng gắt, tưới trực tiếp vào cây lan sẽ không tốt
bằng việc làm ẩm môi trường trồng (tăng ẩm độ vườn). Sau những trận mưa bất
thường, nhất là mưa đầu mùa cần tưới lại ngay để rửa bớt các chất cạn bã đọng lại
trên lá lan.
4.2. BÓN PHÂN
Dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng đối với cây lan, nhất là đối với việc
trồng qui mô lớn, khai thác hàng hoá. Khi cây lan đầy đủ dinh dưỡng, cây sinh
trưởng và phát triển tốt, cây ra nhiều hoa, hoa to, bền. Khi cây thiếu dinh dưỡng
thì còi cọc, kém phát triển, không hoặc ít có hoa. Cây lan cần 13 chất dinh dưỡng
khoáng, thuộc nhóm đa, trung và vi lượng. Dinh dưỡng đa lượng gồm Đạm (N),
Lân (P) và Kali (K). Dinh dưỡng trung lượng gồm Lưu huỳnh (S), Magiê (Mg) và
Canxi (Ca). Dinh dưỡng vi lượng gồm Sắt (Fe), Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Mangan
(Mn), Bo (B), Molypđen (Mo) và Clo (Cl).
Các triệu chứng biểu hiện của cây khi thừa, thiếu dinh dưỡng:
Thiếu đạm: Cây còi cọc, ít ra lá, ra chồi mới, lá dần chuyển màu vàng theo
qui luật lá già vàng trước, lá non sau. Rễ mọc ra nhiều nhưng cằn cõi, cây khó ra
hoa.
Thừa đạm: Thân lá xanh mướt nhưng mềm yếu, dễ đổ ngã và sâu bệnh hại,
đầu rễ chuyển sang màu xám đen, cây khó ra hoa.
Thiếu lân: Cây còi cọc, lá nhỏ, ngắn, chuyển sang xanh đậm, rễ không
trắng sáng mà chuyển sang màu xám đen, cây không ra hoa.
Thừa lân: Cây thấp, lá dày, ra hoa sớm nhưng hoa ngắn, nhỏ và xấu, cây
mất sức rất nhanh sau khi ra hoa và khó phục hồi. Thừa lân thường dẫn đến thiếu
kẽm, sắt và Mangan.
Thiếu Kali: Cây kém phát triển, lá già vàng dần từ 2 mép lá và chóp lá, sau
đó lan dần vào trong; lá đôi khi bị xoắn lại, cây mềm yếu dễ bị sâu bệnh tấn công,
cây chậm ra hoa, hoa nhỏ, màu sắc không tươi và dễ bị dập nát.
Thừa Kali: Thân, lá không mỡ màng, lá nhỏ. Thừa Kali dễ dẫn đến thiếu
Magiê và Canxi.
Thiếu Lưu huỳnh: Lá non chuyển sang màu vàng nhạt, cây còi cọc, kém
phát triển, sinh trưởng của chồi bị hạn chế, số hoa giảm.
Thiếu Magiê: Thân, lá èo uột, xuất hiện dải màu vàng ở phần thịt của các
lá già trong khi 2 bên gân chính vẫn còn xanh do diệp lục tố tạo thành không đầy
đủ, cây dễ bị sâu bệnh và khó nở hoa.
Thiếu Canxi: Cây kém phát triển, rễ nhỏ và ngắn, thân mềm, lá nhỏ, cây
yếu, dễ bị đổ ngã và sâu bệnh tấn công.
Thiếu Kẽm: Xuất hiện các đốm nhỏ rải rác hay các vệt sọc màu vàng nhạt
chủ yếu trên các lá đã trưởng thành, các lá non trở nên ngắn, hẹp và mọc sít nhau,
các đốt mắt ngọn ngắn lại, cây thấp, rất khó ra hoa.
Thiếu Đồng: Xuất hiện các đốm màu vàng và quăn phiến lá, đầu là chuyển
trắng, số hoa hình thành ít, cây yếu, dễ bị nấm bệnh tấn công.
Thiếu Sắt: Các lá non úa vàng sau đó chuyển sang trắng nhạt, cây còi cọc,
ít hoa và dễ bị sâu bệnh tấn công.
Thiếu Mangan: Uá vàng giữa các gân của lá non, đặc trưng là sự xuất hiện
của các đốm vàng và hoại tử, các đốm này xuất hiện từ cuống lá non sau lan ra cả
lá, cây còi cọc, chậm phát triển.
Thiếu Bo: Lá dày, đôi khi bị cong lên và dòn, cây còi cọc, dễ bị chết khô
đỉnh sinh trưởng, rễ còi cọc, số nụ ít, hoa dễ bị rụng, không thơm và nhanh tàn.
Thiếu Molypden: Xuất hiện đốm vàng ở giữa các gân của những lá dưới,
nếu thiếu nặng, các đốm này lan rộng và khô, mép lá cũng khô dần, cây kém phát
triển.
Thiếu Clo: Xuất hiện các vệt úa vàng trên các lá trưởng thành, sau đó
chuyển sang màu đồng thau, cây còi cọc, kém phát triển.
Cây lan rất cần phân bón nhưng không cần nồng độ dinh dưỡng cao. Vì
vậy, việc bón phân cho cây lan phải thực hiện thường xuyên và tốt nhất là bằng
cách phun qua lá.
Phân bón cho lan phải chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng đa, trung và vi
lượng với thành phần và tỉ lệ phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển
của cây. Nguyên tắc chung là lan trong thời kỳ sinh trưởng thân, lá mạnh nên cần
hàm lượng đạm cao; hạm lượng lân và kali thấp. Trước khi cây ra hoa cần hạm
lượng lân và kali cao, đạm thấp; trong khi cây nở hoa cần Kali cao, đạm và lân
thấp.
Các loại phân bón thường sử dụng cho lan là Growmore, Miracrle, HVP,
Phân bón đầu trâu, Dynamic, phân cá (Fish emulsion),… Bên cạnh đó, có thể sử
dụng nguồn phân hữu cơ sẵn có để ngâm ủ rồi sử dụng như bánh dầu, phân
chuồng, xác bã động vật (có bổ sung EM để mau phân hủy và ít có mùi hôi).
4.3. PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI
4.3.1. Phòng ngừa
- Khi mua lan về trồng cần phải kiểm tra kỹ lưỡng nếu cây khoẻ mạnh
không bị sâu bệnh thì mới tiến hành trồng chung với những cây khác.
- Dọn vệ sinh vườn lan sạch sẽ, thông thoáng. Trong giàn lan không nên để
những cây lạ, to lớn (Ví dụ: xoài, chôm chôm…) trong vườn lan vì dễ bị lây bệnh.
- Không nên trồng nhiều tầng (Ví dụ: trên treo, dưới luống) vì nguồn bệnh
cây trên (nếu có) sẽ lây xuống cây dưới thông qua việc tưới nước hay mưa.
- Khi giá thể trồng đã hư mục thì tiến hành thay kịp thời, tránh động nước,
ẩm thấp. Thường xuyên sang chậu, kết hợp tách chiết lan.
- Quan sát vườn lan thường xuyên để phát hiện những cây bị sâu bệnh kịp
thời cách ly, xử lý.
- Phun thuốc phòng trừ sâu bệnh định kỳ cho lan.
4.3.2. Trị sâu bệnh
* Bệnh hại trên lan
- Bệnh đen thân cây lan: Do nấm Fusarium sp. gây nên. Phòng trị: Nên tách
những cây bị bệnh để riêng và dùng thuốc phòng trừ hay nhúng cả cây vào thuốc
trị nấm. Nếu cây lớn hơn thì cắt bỏ phần thối rồi phun thuốc diệt nấm như
Carbenzim, Zin, Zineb 3/2000, Benlat 1/2000, Bendazol.
- Bệnh đốm lá: Do nấm Cercospora sp. gây nên. Bệnh thường phát sinh
mạnh trên cây lan Dendrobium sp., gây hại trong mùa mưa ở những vườn lan có
độ ẩm cao. Phun thuốc trừ nấm (như trên) Carbenzim + Dipamate: hỗn hợp thuốc
hiệu quả cao hay Cadilac.
- Bệnh thán thư: Do nấm Colletotricum sp. gây ra. Bệnh phát triển mạnh
vào mùa mưa nên phải phòng trừ trước. Thường cắt bỏ lá vàng rồi phun thuốc diệt
nấm 5 - 7 ngày/phun 1 lần: Thio-M, Cabenzim, Bendazol.
- Bệnh thối mềm vi khuẩn: Do vi khuẩn Pseudomonas gladioli gây ra. Vết
bệnh có hình dạng bất định, ủng nước, màu trắng đục, thường lan rộng theo chiều
rộng của lá. Gặp thời tiết ẩm ướt mô bệnh bị thối úng, thời tiết khô hanh mô bệnh
khô tóp có màu trắng xám.
- Bệnh thối nâu vi khuẩn: Do vi khuẩn Erwnia carotovora gây ra. Ban đầu
vết bệnh có màu nâu nhạt, hình tròn mọng nước về sau chuyển thành màu nâu đen.
Bệnh hại cả thân, lá, mầm làm các bộ phận trên bị thối. Sử dụng Kasumin, dùng 1
trong những hỗn hợp: Saipan + Mexyl; Saipan + Alpine; Mexyl + Alpine để phun
phòng trị.
- Bệnh đốm vòng (đóm mắt cua)
Do nấm Cercospora resae gây ra.
+Triệu chứng: Vết bệnh là những đốm nhỏ, hình mắt cua, hình trong hơi
lõm, ỡ giữa màu nâu nhạt, xung quanh có gờ nổi màu nâu đậm. Bệnh gây hại chủ
yếu trên lá bánh tẻ, lá già tạo thành nhiều vết nhỏ li ti làm lá vàng, nhanh rụng.
+ Phòng trừ: Dùng thuốc Topsin M 70 WD hoặc Score 250 ND, Bendazol,
Carbenzim, Thio-M.
- Bệnh đốm vòng
Do nấm Alternaria rasae gây ra.
+ Triệu chứng: Vết bệnh hình tròn hoặc hình bầu dục, trên vết bệnh có các
vòng đồng tâm khá rõ. Khi gặp thời tiết ẩm ướt, ấm áp, trên vết bệnh thường hình
thành một lớp nấm mốc màu đen gồm cành và bào tử phân sinh của nấm gây bệnh.
Bệnh thường gây hại trên các lá già, lá bánh tẻ làm lá vàng dễ khô rụng.
+ Phòng trừ: Sử dụng Daconil 500 SC, Carbenzim + Dipomate, Cadilac.
* Sâu hại lan
- Rệp vảy: rệp thường bám trên các thân giả hành còn non. Phòng trị bằng
cách: Dùng bàn chải chà xát rồi nhúng cây lan vào dung dịch thuốc Malathion 50
pha loãng, Sagosuper 20EC.
- Bọ trĩ: gây hại chủ yếu trong mùa nắng. Dùng Malathion 5 mg/bình 4 lít
nước, phun 1 tuần/lần, phun liên tiếp liên tục trong 3 tuần, Dragon (5cc) + SK99
(20cc)/bình 8 lít.
4.4. THU HOẠCH VÀ ĐÓNG GÓI
Đối với trường hợp lan cắt cành:
- Chuẩn bị chậu (hoặc thau) nước với kích thước vừa phải.
- Khi cành hoa còn khoảng 2 búp nữa mới nở (trường hợp cành có khoảng
7 - 9 bông) thì ta tiến hành cắt cành.
- Cắt xong cả luống bông đó thì ngâm vào chậu nước đã chuẩn bị trước
nhằm bảo quản để cành hoa không héo tàn.
- Khi vận chuyển đi xa (trên 3 giờ) cần dùng mốp để giữ nước cho cành hoa
bằng cách: khoảng 10 cành được buộc 1 miếng mốp thấm nước sẵn bó ở phía gốc
của cành.
- Xếp các bó bông đã bó sẵn vào trong thùng giấy đã có lót trước miếng
nhựa phin (thùng giấy được đục các lỗ trống xung quanh thùng), sau đó dùng băng
keo dán lại. Lưu ý là không nén chắt các bó bông với nhau.
Trong trường hợp, bảo quản hoa bằng các phòng lạnh vẫn tốt hơn (nhiệt độ
phòng từ 14 - 17 độ C) để kéo dài thời gian hoa tươi lâu hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CamnangtronghoalanphanIV.pdf