Như vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một trong những bản báo cáo thống kê quan trọng nhất của một quốc gia, là bản ghi chép toàn bộ giao dịch kinh tế đối ngoại của nước đó trong một khoảng thời gian nhất định. Thời gian lập bản báo cáo này thường là một năm, nhưng tuỳ theo yêu cầu mà cán cân thanh toán có thể được lập thường xuyên hơn. Các chỉ tiêu trong cán cân thanh toán quốc tế cho biết có bao nhiêu hàng hoá, dịch vụ mà một quốc gia đã xuất khẩu và nhập khẩu và quốc gia này hiện là con nợ hay là chủ nợ với phần thế giới còn lại, để từ đó chúng ta đánh giá được sự thành công hay không trong chính sách kinh tế đối ngoại của một quốc gia.
Tóm lại, cán cân thanh toán quốc tế giữ vai trò trung tâm trong hệ thống tài khoản quốc gia. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối, đến toàn bộ nền kinh tế của một nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Vì vậy, nghiên cứu các nội dung của cán cân thanh toán quốc tế sẽ giúp chúng ta biến nó thành công cụ phân tích và quản lý có hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại.
101 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1042 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế, thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
990 xuống 81,1% năm 2001, còn tỷ trọng ngành thuỷ sản đã tăng từ 7,9% lên 13,3%. Đây cũng là năm đánh dấu bước khởi đầu trong việc cơ cấu lại trong khu vực theo hướng chuyển từ cây, con có giá trị thấp sang cây, con có giá trị cao đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong nuôi trồng thuỷ sản, tổng sản lượng tôm đã tăng từ 8,6% năm 2000 lên 10,4% năm 2001, trong đó sản lượng tôm nuôi đã tăng từ 49,2% lên 60,4% chỉ trong một năm. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng từ 18,8% năm 1990 lên 31,9% năm 2001. Công nghiệp chế biến- đặc trưng chủ yếu để phân biệt là nước nông nghiệp hay công nghiệp. Nếu năm 1990 mới đạt 12,3%, đến năm 1995 mới đạt 15% (tức là tăng 2,7%, bình quân tăng 0,5% / năm) thì đến năm 2000 đã đạt 18,7% (tức là tăng 3,7% so với năm 1995, bình quân 1 năm tăng trên 0,6%), đến năm 2001 đã đạt 19,6% (tức là tăng 0,95% so với năm 2000, nhanh hơn các kỳ trước). Với đà tăng này, và việc đầu tư khá cao cho công nghiệp chế biến thì đến năm 2020, công nghiệp chế biến có thể đạt xấp xỉ 3,7% và đưa nước ta trở thành nước công nghiệp như mục tiêu đã đề ra.
Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp- thuỷ sản, ngành lâm nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp, lại liên tục bị sút giảm, nếu năm 1990 còn chiếm 6,6%, đến năm 2000, 2001 chỉ còn chiếm 4,2 – 4,3%. Trong giá trị sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi chỉ chiếm 16,5% và hầu như không tăng trong những năm qua. Thêm vào đó, việc chuyển dịch cơ cấu trong những năm qua tuy đã tiến bộ, nhưng vẫn còn mang tính tự phát, dẫn đến tình trạng nuôi trồng, chặt phá vừa lúng túng, vừa kém hiệu quả. Việc đầu tư theo phong trào ở nhiều địa phương cũng là biểu hiện tự phát hoặc thiếu tầm nhìn xa trông rộng.
Ngành xây dựng – một ngành có liên quan đến đầu vào của nền kinh tế, chuyển vốn đầu tư thành năng lực và tài sản cố định của các ngành và tạo ra hạ tầng kinh tế – xã hội của đất nước, mấy năm trước tăng thấp, thậm chí còn có thời kỳ giảm (năm 1995 chiếm 6,9% GDP, nhưng năm 1999 chỉ còn chiếm 5,4%), thì đến năm 2000 đã chiếm 5,5% và năm 2001đã chiếm 5,8% nhờ vốn đầu tư gia tăng khá trong vài năm gần đây, nhất là sau 2 năm thực hiện Luật doanh nghiệp. Đây là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.
Khu vực dịch vụ, đầu ra của sản xuất, thì tỷ trọng chiếm trong GDP liên tục bị sụt giảm (giảm tới 5,1% trong vòng 6 năm), không chỉ trên phạm vi cả nước mà còn ở cả các trung tâm dịch vụ lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội Trong điều kiện quan hệ cung - cầu đã được cải thiện cơ bản (từ thiếu hụt lớn, sản xuất không đủ tiêu dùng phải nhập siêu lớn, chuyển sang sản xuất đáp ứng đủ tiêu dùng và có tích luỹ nội bộ nền kinh tế); hàng rào thuế quan, phi thuế quan bị dỡ bỏ hoặc hạ thấp dần theo cam kết trong quá trình mở cửa, hội nhập, hàng nhập sẽ ngày một ngày gia tăng, vì vậy nếu tiêu thụ không tốt thì càng sản xuất càng gia tăng tồn đọng, thậm chí đến sản xuất bình thường cũng không duy trì được. Vì vậy, đầu ra, tiêu thụ là vấn đề mấu chốt nhất. Trong khu vực dịch vụ, một số ngành quan trọng đang chiếm tỷ lệ rất thấp và tỷ trọng trong GDP lại giảm dần, như tài chính- tín dụng năm 1995 chiếm 2,01% đến năm 2000, 2001 chỉ còn chiếm 1,9%; hoạt động khoa học và công nghệ năm 1995 chiếm 0,61% đến năm 2001 chỉ còn chiếm 0,56%. Nguyên nhân chính là do việc đầu tư cho các hoạt động này thấp, bản thân đổi mới còn chậm, nhiều hoạt động dịch vụ còn đang do các cơ quan, doanh nghiệp kiêm nhiệm hoặc đang đứng trên danh nghĩa Nhà nước để thu lợi cục bộ, mà chưa được tách ra để mang tính chuyên nghiệp, vừa làm cho tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả của hoạt động này thấp, vừa hạn chế các cơ quan, doanh nghiệp tập trung vào chức năng nhiệm vụ chính.
Do cơ cấu chuyển dịch còn hạn chế nên chuyển dịch lao động từ ngành có năng suất sang ngành có năng suất cao rất chậm, chẳng những làm cho năng suất lao động chung cả nước còn thấp mà còn làm cho thu nhập của dân cư và sức mua có khả năng thanh toán đã thấp lại tăng lên rất chậm. Ở đây có vấn đề về đầu tư. Đó là đầu tư vào những dự án cần vốn đầu tư lớn để sản xuất hàng thay thế nhập khẩu lại cần ít lao động nhưng để những nhà máy này tồn tại và hoà vốn, Nhà nước lại phải duy trì thuế nhập khẩu cao để bảo hộ sản xuất trong nước và điều này sẽ mâu thuẫn với những cam kết hội nhập, làm tăng chi phí đầu vào của các ngành khác. Việc đầu tư từ ngân sách có những nguyên nhân ít liên quan đến kinh tế mà hậu quả là xây dựng những bến cảng không có tàu, đường cao tốc ít xe chạy,
Trước thực trạng tăng trưởng GDP và cơ cấu GDP như trên, Nhà nước cần có những chính sách để việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiệu quả hơn. Trước hết, đó là cần phân các nhóm sản phẩm để có chính sách thích hợp. Đối với nhóm sản phẩm đã có thị phần tương đối cao trên thị trường thế giới, song nhu cầu đã ở mức ổn định như gạo, cà phê, thì việc mở rộng quy mô sản xuất là không cần thiết, giảm đầu tư theo chiều rộng, tăng đầu tư chiều sâu, duy trì thị phần. Đối với nhóm mặt hàng mang tính gia công, lắp ráp như dệt may, dày dép, lắp ráp điện tử, lắp ráp xe máy, thì từng bước “nội địa hoá” sản phẩm đầu vào, Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích phát triển các ngành sản phẩm liên quan đến lĩnh vực nội địa hoá. Đối với các sản phẩm gia công xuất khẩu, Nhà nước sẽ cải thiện quan hệ với các nước để mở rộng hạn ngạch hoặc giúp doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng bạn hàng, đổi mới cơ chế phân bố hạn ngạch theo hướng bình đẳng, công khai. Đối với sản phẩm cạnh tranh chưa cao, nhưng thị trường có xu hướng tăng trong tương lai như ngành xây dựng, vật liệu xây dựng, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch, cần nâng cao kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, uy tín, từng bước mở rộng thị trường. Tập trung vào những sản phẩm có vị trí tương đối quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu, có lợi thế như thuỷ sản, rau quả, để tăng kim ngạch xuất khẩu. Đối với những sản phẩm gia công tiêu thụ chủ yếu trong nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời từng bước dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo sức ép cạnh tranh đối với doanh nghiệp, mặt khác bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng toàn xã hội. Thứ hai, đổi mới cơ cấu đầu tư, khắc phục những hạn chế như đầu tư vào những công trình cần nhiều vốn hơn là cần nhiều lao động, đầu tư vào những sản phẩm mà cung đã vượt cầu, vào những sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu Thứ ba là chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động, chuyển lao động nông nghiệp năng suất thấp sang làm công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao hơn.
Như vậy, nhìn chung cơ cấu GDP của Việt Nam còn nhiều bất cập. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp – thuỷ sản của Việt nam năm 2000 là 24,3%, cao hơn nhiều so với các nước Philippines, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựngcủa Việt Nam là 36,6%, thấp hơn Indonesia, Thái Lan, Malaysia và tỷ trọng dịch vụ của Việt Nam là 39,1% thấp hơn Campuchia (39,2%), Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore.
Bảng 16: Cơ cấu GDP của một số nước trong khu vực năm 2000
Nước
GDP
(100%)
Nông, lâm nghiệp – thuỷ sản (%)
Công nghiệp – Xây dựng
(%)
Dịch vụ
(%)
Việt Nam
100
24,3
36,6
39,1
Philippines
100
18,9
31,1
50,0
Indonesia
100
16,9
38,9
44,2
Thái Lan
100
9,1
41,7
49,2
Malaysia
100
8,6
51,7
39,7
Singapore
100
0,1
34,3
65,6
Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Thời báo kinh tế Việt Nam.
Số liệu trên phần nào chứng tỏ được sự bất cập trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam, cho thấy Việt Nam còn trong giai đoạn đầu của phát triển so với một số nước trong khu vực. Do vậy, dù đã có những bước khởi đầu tích cực nhưng cơ cấu đóng góp vào GDP của các ngành kinh tế còn phải tiếp tục chuyển dịch nhanh hơn nữa và có hiệu quả hơn nữa.
4.Tác động qua lại giữa cán cân thanh toán quốc tế và Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1995- 2001:
Ở phần trên chúng ta đã nghiên cứu về thực trạng cán cân thanh toán quốc tế cũng như tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn gần đây. Cũng theo những nội dung đã trình bày trong chương 2, hai lĩnh vực tưởng như ít liên hệ này lại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Thực tiễn ở Việt Nam cũng có thể chứng minh quan điểm này. Sau đây, những con số cụ thể của thực tiễn trong giai đoạn 1995-2001 sẽ cho thấy mức độ ảnh hưởng của cán cân thanh toán quốc tế đến phát triển kinh tế ở Việt Nam như thế nào cũng như tác động ngược lại của những chính sách tăng trưởng kinh tế đem lại hiệu quả gì cho cán cân thanh toán.
4.1 Tác động của cán cân thanh toán quốc tế đến Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1995- 2001:
Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam bao gồm rất nhiều khoản mục, mỗi khoản mục này đều chiếm một vai trò tương đối quan trọng trong việc đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trước hết, chúng ta nghiên cứu ảnh hưởng của từng cán cân bộ phận đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để thấy được tác động tổng hợp của hoạt động kinh tế đối ngoại lên sự tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của cán cân thương mại:
Cán cân thương mại của Việt Nam trong giai đoạn này tuy liên tục bị thâm hụt nhưng vẫn góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế. So với tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP), kim ngạch xuất nhập khẩu cũng có một tỷ lệ tương đối lớn.
Bảng 17: So sánh kim ngạch xuất nhập khẩu với GDP 1995-2001
Đơn vị: Nghìn tỷ VNĐ
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
GDP
228,89
272,04
313,62
361,02
399,94
444,14
484,50
Kim ngạch XNK
149,85
206,44
282,57
291,98
324,22
430,28
450,95
% XNK/ GDP
65%
75,9%
90%
80,8%
81%
96%
92%
Nguồn: General Statistical Office, Statistical Yearbook 2000 – Tạp chí kinh tế Việt Nam và thế giới 2001- 2002.
Với chỉ số trên ta có thể thấy kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam trong một năm gần bằng tổng thu nhập của quốc gia. Tỷ lệ giữa kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP tăng nhanh là do tốc độ tăng xuất nhập khẩu nhanh hơn tốc độ tăng GDP. Đồng thời, do những biến động đột ngột về tỷ giá từ mức 11.113 VNĐ/ USD năm 1995 lên mức 14.500 VNĐ/ USD vào năm 2001, cũng làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu tính theo VNĐ tăng lên nhanh chóng.
Tuy nhiên, những con số này không chứng tỏ được sự đóng góp của tình trạng cán cân thương mại vào GDP. Trên thực tế, thu nhập thu về từ hoạt động xuất khẩu không đủ bù đắp cho nhập khẩu nên không đóng góp được nhiều vào GDP nhưng nếu kim ngạch này thấp thì chi phí cho nhập khẩu cũng sẽ phải trích ra từ GDP. Khi kim ngạch xuất khẩu là lớn từ 5.448,9 triệu USD năm 1995 lên 15.100 triệu USD vào năm 2001 thì GDP cũng tăng tương ứng từ 228,89 nghìn tỷ VNĐ lên 484,5 nghìn tỷ VNĐ, nhưng không thể nói GDP tăng theo kim ngạch xuất khẩu. Nhưng khi hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra sôi nổi thì tạo ra rất nhiều công ăn việc làm cho các ngành dịch vụ phục vụ cho hoạt động này, thu nhập từ các dịch vụ này hàng năm cũng đóng góp lớn vào GDP.
Ngoài ra Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu nên mặc dù cán cân thương mại bị thâm hụt thì tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn rất cao. Có được kết quả này là do những máy móc thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu về được sử dụng cho sản xuất trong nước, nâng cao năng suất lao động cho người dân, làm cho tổng sản phẩm sản xuất tăng nhanh hơn nếu không có những thiết bị này. Và thâm hụt cán cân thương mại cũng là điều tất yếu đối với một nước đang phát triển.
Vai trò của cán cân vãng lai:
Cán cân vãng lai bao gồm cả cán cân thương mại, cán cân dịch vụ, thu nhập đầu tư và chuyển giao một chiều nên rõ ràng là ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ hơn cán cân thương mại. Nhưng cũng giống như cán cân thương mại, cán cân vãng lai của Việt Nam trong giai đoạn này luôn trong tình trạng thâm hụt. So với GDP mức thâm hụt này cũng là tương đối lớn. Thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam là lớn nhất trong khu vực.
Bảng 18: Thâm hụt cán cân vãng lai trên GDP 1995- 2001
Đơn vị tính: % GDP
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Mức thâm hụt theo % GDP
- 9,3
- 10,4
- 6,8
- 4,4
-3,5
- 3,9
- 3,3
Nguồn: Niên giám thống kê 1998, NXB Thống kê Hà Nội, 1999 và Tạp chí kinh tế Việt Nam và thế giới – Thời báo kinh tế Việt Nam 2002.
Bảng 18 cho ta thấy mức thâm hụt cán cân vãng lai năm 1995 là rất cao ở mức 9,3% GDP nhưng sau đó đã giảm dần xuống chỉ còn ở mức 3,5% vào năm 1999 và 3,3% vào năm 2001.
Cán cân dịch vụ:
Trong cán cân vãng lai, tác động của cán cân thương mại đã được xét ở phần trên, cán cân dịch vụ trong giai đoạn này cũng có những đóng góp cho GDP nhưng thực tế chưa hiệu quả so với khả năng phát triển của khu vực này. Đối với một nước kim ngạch nhập khẩu lớn hơn kim ngạch xuất khẩu, đáng lẽ Việt Nam phải có rất nhiều lợi thế đối với việc cung cấp dịch vụ cho hoạt động này vì nước nhập khẩu thường được quyền lựa chọn các dịch vụ như thuê tàu, mua bảo hiểm ở nước mình khi nhập khẩu với giá FOB. Nhưng Việt Nam lại không có ưu thế thương mại nên thường phải nhập khẩu với giá CIF. Ngay cả khi có thể nhập khẩu với giá FOB thì khả năng cung cấp dịch vụ của Việt Nam lại quá thấp, không đủ đáp ứng những yêu cầu cao của việc xuất nhập khẩu với kim ngạch lớn, những hàng hoá cần được bảo quản đặc biệt, nên vẫn phải sử dụng dịch vụ của nước ngoài. Điều này đã làm giảm khả năng đóng góp của ngành dịch vụ cho tăng trưởng kinh tế.
Với những đóng góp trên, cán cân dịch vụ chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong GDP nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng của khu vực kinh tế này. Để nâng cao vai trò của cán cân này trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam cần nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như cải thiện địa vị kinh tế của mình thông qua vị thế về chính trị trên trường quốc tế.
Thu nhập từ đầu tư ròng nước ngoài:
Đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển, thì khoản thu nhập từ hoạt động đầu tư ra nước ngoài đem lại những đóng góp to lớn cho nền kinh tế trong nước. Nhưng đối với Việt Nam trong giai đoạn này, giai đoạn kinh tế chưa phát triển thì thu nhập từ hoạt động đầu tư hầu như không có, những chi phí đầu tư thì lại rất cao do các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chuyển lợi nhuận về nước. Do các khoản tiền này chỉ được chuyển ra nước ngoài sau khi doanh nghiệp đã thực hiện đủ nghĩa vụ thuế đối với nhà nước nên không ảnh hưởng tới tổng thu nhập của toàn bộ nền kinh tế, hay thực chất là không tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn tới, khi Việt Nam có nhiều hoạt động đầu tư ra nước ngoài hơn thì những lợi nhuận thu được sẽ đóng góp cho nền kinh tế Việt Nam mà cụ thể là cho tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Chuyển giao vãng lai một chiều:
Trong cán cân này, lượng kiều hối của người Việt Nam sống ở nước ngoài chuyển về nước là nội dung quan trọng nhất. Khoản thu này được tính vào tổng sản phẩm quốc dân của toàn bộ nền kinh tế nên có vai trò đặc biệt quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Lượng kiều hối này càng ngày càng tăng lên do chính phủ Việt Nam đã thực thi những chính sách thu hút kiều hối. Không những thế, những khoản kiều hối này khi gửi về trong nước được đem đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất hàng hoá và dịch vụ lại tạo thêm những đóng góp cho xã hội. Vì đây là một nguồn thu nhập mới được khuyến khích nên việc thống kê lượng kiều hối chuyển về chưa thực sự chính xác. Số liệu thống kê về những đóng góp của nguồn thu nhập này cho nền kinh tế quốc dân cũng chưa được thực hiện do đó chúng ta chưa thể đánh giá hết tầm quan trọng của cán cân này trong thực tế.
Vai trò của cán cân vốn:
Cũng như cán cân thương mại và cán cân vãng lai, cán cân vốn cũng là một nội dung quan trọng tác động vào tăng trưởng kinh tế của một nước, đặc biệt là ở Việt Nam. Lý do là vì Việt Nam là một nước đang phát triển, muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì nguồn vốn trong nước không đủ để thực hiện nên buộc phải dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài. Hàng năm tỷ trọng của khu vực đầu tư nước ngoài trên GDP đều có xu hướng gia tăng theo đó đóng góp của khu vực này cho tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn.
Bảng 19: Tỷ trọng của đầu tư nước ngoài trên GDP 1995- 2001
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
% ĐTNN/ GDP
8,8
7,4
9,1
10,0
12,2
13,3
14,1
Tốc độ tăng GDP của ĐTNN
15
19,4
20,8
19,1
17,6
9,9
11,2
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Niên giám thống kê 2001- Tổng cục Thống kê, 2002.
Theo số liệu này tỷ trọng của đầu tư nước ngoài so với GDP năm 1995 mới chỉ là 8,8% nhưng đến năm 2001 tỷ lệ này đã đạt được 14,1%. Riêng khu vực FDI đạt doanh thu khoảng 7.400 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 3.573 triệu USD và đóng góp khoảng 13,5% GDP cả nước. Về nguồn vốn ODA, tuy có những đóng góp trực tiếp cho GDP còn hạn chế nhưng nguồn vốn này đã tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội ưu tiên của chính phủ. Trong đó, ngành giao thông chiếm tỷ trọng lớn nhất (27,5%); tiếp đến là năng lượng điện (24%); nông, lâm nghiệp thuỷ sản (12,74%); tỷ lệ còn lại dành cho các lĩnh vực y tế- xã hội, giáo dục- đào tạo, khoa học- công nghệ- môi trường, cấp thoát nước. Nguồn vốn ODA còn hỗ trợ đáng kể cho ngân sách nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cải cách kinh tế.
Trong cán cân vốn, không chỉ đầu tư nước ngoài mà còn một nguồn vốn hết sức quan trọng, đó là các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp cũng như chính phủ Việt Nam. Các khoản vay này giúp cho Việt Nam có đủ vốn để đầu tư cho sản xuất nhưng cũng tạo nên gánh nặng trả nợ cho GDP. Suốt từ năm 1995 cho đến nay, tỷ lệ vay nước ngoài của Việt Nam luôn ở trên mức 70% so với GDP. Gánh nặng này sẽ làm cho nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế nhưng Việt Nam phải chấp nhận thực trạng này cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Bảng 20: Tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP 1995- 2001
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
Nợ nước ngoài/GDP
86,1
78,1
77,7
76,8
74,0
70,0
71,2
Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế tháng 4 năm 2002
Tóm lại, tình trạng của cán cân vốn có những tác động mạnh đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn này. Cán cân vốn thặng dư sẽ giúp Việt Nam có nhiều nguồn vốn để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cán cân vốn thâm hụt sẽ gây ra những khó khăn do thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng Việt Nam sẽ không phải đối mặt với nguy cơ nợ nần trong tương lai. Dù sao Việt Nam cũng rất cần những nguồn vốn này nên để giảm bớt những nguy cơ trong tương lai thì Chính phủ phải có những biện pháp để sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
4.2 Những ảnh hưởng của Tăng trưởng kinh tế đến cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 1995- 2001:
Trong giai đoạn 1995- 2001, do Chính phủ Việt Nam liên tục có những cải cách trong chính sách kinh tế nên tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế cũng có những biến động tương ứng.
Năm 1995- 1996:
Năm 1995, Việt Nam chuyển sang chính sách kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài nhằm tạo nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng cho tăng trưởng kinh tế đồng thời tiến hành chính sách khuyến khích xuất khẩu. Chính sách kinh tế này kéo theo hàng loạt những thay đổi trong cán cân thanh toán quốc tế. Khi Chính phủ thực hiện mở cửa thu hút đầu tư bằng cách tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn cho các nhà đầu tư, xây dựng một hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, tiến hành các chính sách khuyến khích đầu tư thì lượng vốn đầu tư nước ngoài, trong đó chủ yếu là đầu tư trực tiếp, chuyển vào Việt Nam tăng nhanh. Sự tăng nhanh của lượng vốn đầu tư vào Việt Nam kéo theo sự thay đổi rất lớn trong cán cân thanh toán quốc tế mà đầu tiên là cán cân thương mại. Năm 1995 cán cân thương mại đột nhiên thâm hụt nặng nề, từ mức thâm hụt 1.865 triệu USD năm 1994 đã lên đến 3.155 triệu USD năm 1995 và 3.143 triệu USD. Sự thâm hụt này có nguyên nhân là do nguồn vốn FDI tăng nhanh kéo theo việc nhập khẩu ồ ạt máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho các dự án đầu tư. Năm 1995, kim ngạch nhập khẩu tăng lên đến 8.353 triệu USD và năm 1996 là 10.480 triệu so với mức nhập khẩu 5.919 triệu USD năm 1994. Mặc dù trong những năm này kim ngạch xuất khẩu cũng tăng lên nhưng không đáng kể so với nhập khẩu do những dự án đầu tư mới hoặc chưa đi vào hoạt động, hiệu quả chưa cao.
Cũng do chính sách tăng trưởng kinh tế này, cán cân dịch vụ cũng có những biến động. Năm 1995, cán cân dịch vụ đạt được mức thặng dư cao (159 triệu USD, cao nhất từ trước đến nay) do các khoản thu dịch vụ nhờ hoạt động nhập khẩu tăng lên. Do tốc độ tăng của xuất khẩu không bằng nhập khẩu nên các khoản chi cho dịch vụ này tuy cũng tăng nhưng không cao. Nhưng sau đó, năm 1996 cán cân dịch vụ bắt đầu thâm hụt mặc dù hoạt động nhập khẩu vẫn diễn ra tấp nập. Nguyên nhân có thể do lúc này, khả năng cung cấp dịch vụ không đủ đáp ứng với yêu cầu của mức tăng kim ngạch nhập khẩu, chúng ta phải sử dụng dịch vụ của nước ngoài.
Nguồn thu nhập đầu tư ròng và chuyển giao một chiều trong giai đoạn này cũng tăng lên do chính phủ đã nới lỏng pháp luật cho hoạt động chuyển tiền. Chỉ trong vòng một năm, từ năm 1995 đến năm 1996 chuyển giao một chiều tăng gấp đôi từ 627 triệu USD lên 1.200 triệu USD. Kết quả là cán cân vãng lai của Việt Nam trong năm 1995- 1996 tuy bị thâm hụt nặng nề về cán cân thương mại nhưng lại được bù đắp một phần nhờ chuyển giao một chiều nên cán cân vãng lai thâm hụt ở mức 2.641 triệu USD năm 1995 và 2.426 triệu USD năm 1996.
Cán cân vốn là cán cân chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất từ chính sách thu hút đầu tư của Nhà nước. Cán cân này tăng từ 1.476 triệu USD năm 1994 lên 2.326 triệu USD năm 1995 và 2.079 triệu USD năm 1996, trong đó chủ yếu là tăng từ vốn đầu tư nước ngoài. Đây là hệ quả chủ yếu của chính sách tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này.
Năm 1997- 1999:
Trong giai đoạn này Chính phủ Việt Nam nỗ lực kiểm soát nhập khẩu nhằm giảm thâm hụt của cán cân vãng lai. Có thể thấy rõ kim ngạch nhập khẩu trong những năm 1997, 1998, 1999 không hề tăng so với năm 1996, trong khi kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng lên. Cán cân thương mại từ đó giảm được thâm hụt.
Tuy nhiên, trong thời gian này, cán cân dịch vụ của Việt Nam lại thâm hụt ở mức cao so với thời kỳ trước. Mức thâm hụt là 606 triệu USD năm 1997 và tăng lên mức 1.020 triệu USD năm 1999. Nguyên nhân là do chi phí cho dịch vụ hoạt động xuất khẩu tăng lên rất nhanh trong khi thu từ dịch vụ cung cấp cho hoạt động nhập khẩu lại không tăng. Đây cũng là kết quả của việc hạn chế nhập khẩu.
Ngoài ra cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ trong khu vực gây tác động mạnh làm suy giảm nền kinh tế các nước trong khu vực dẫn đến việc giảm mạnh luồng vốn FDI cả về số lượng các dự án mới và sự chậm trễ trong việc giải ngân các dự án đã được cấp giấy phép. Giải ngân của dòng vốn FDI dưới hình thức thiết bị và máy móc cũng giảm. Trong thời gian này thâm hụt cán cân vãng lai giảm nhưng cán cân vốn cũng rơi vào tình trạng khủng hoảng, thậm chí năm 1998 chỉ đạt 216 triệu USD.
Cũng do cuộc khủng hoảng dẫn đến thiếu vốn cung cấp cho sản xuất, chính phủ đã tăng vay nợ từ nước ngoài để bù đắp cho sự thiếu hụt này. Điều đó dẫn đến tổng dư nợ nước ngoài của các doanh nghiệp đến cuối năm 1998 vào khoảng 4.063 triệu USD. Cán cân vốn trong thời gian này là hệ quả tất yếu của chính sách kinh tế của chính phủ.
Năm 2000- 2001:
Trước thực trạng dòng vốn FDI chuyển vào Việt Nam những năm trước trở nên quá trì trệ cũng như cán cân thương mại vẫn thâm hụt ở mức cao làm cản trở sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực thay đổi chính sách thu hút đầu tư cũng như những biện pháp thúc đẩy hoạt xuất khẩu trong nước. Kết quả là cán cân thương mại được cải thiện đáng kể. Mức nhập siêu trong năm 2000 chỉ còn là 892 triệu USD và năm 2001 là 900 triệu USD so với mức hơn 2.000 triệu USD của những năm 1997- 1998. Tuy nhiên cán cân dịch vụ trong giai đoạn này không được cải thiện nhiều vẫn đang ở mức thâm hụt tương đối cao.
Do đầu tư trực tiếp FDI tăng nhanh nên cán cân vốn năm 2000 tăng lên đến 2350 triệu USD và năm 2001 đã đạt 2410 triệu USD. Cán cân vốn được cải thiện thực chất là nhờ sự can thiệp tích cực của Nhà nước.
CHƯƠNG III: BIỆN PHÁP QUẢN LÝ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ NHẰM HƯỚNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Phân tích chương II, cho thấy cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam còn rất nhiều tồn tại. Nhìn chung các khoản mục quan trọng thường xuyên ở trong tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư rất ít. Tình trạng này tuy trong hiện tại không ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng kinh tế do Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển nhưng về lâu dài sẽ có những cản trở không tốt cho tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Do vậy, quản lý kinh tế vĩ mô trong đó có quản lý cán cân thanh toán là một yêu cầu cần thiết để Việt Nam có một cơ sở vững chắc cho tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Quản lý cán cân thương mại
Như chúng ta đã biết, cán cân thương mại của Việt Nam liên tục rơi vào tình trạng nhập siêu trong thời gian dài. Vậy những nguyên nhân nào làm cho cán cân thương mại Việt Nam rơi vào tình trạng này là nội dung quan trọng nhất để tìm ra phương pháp quản lý có hiệu quả.
1.1 Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu của cán cân thương mại nước ta.
a. Sự gia tăng của các dòng vốn (ODA và FDI) kéo theo việc nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đi theo các dự án đầu tư.
Từ sau năm 1995, các dòng vốn đổ vào Việt Nam không ngừng gia tăng do những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc mở rộng quan hệ hợp tác phát triển với cộng đồng quốc tế. Cho đến hết năm 2001, các nhà tài trợ đã cam kết giành cho Việt Nam trên 20 tỷ USD vốn ODA trong đó giải ngân khoảng hơn 9 tỷ USD. Chúng ta biết rằng một trong những đặc thù của nguồn vốn này đó là ODA thường đi kèm với những điều kiện ràng buộc về chính trị hoặc về kinh tế. Ngày nay phổ biến nhất vẫn là việc bên hỗ trợ yêu cầu nước tiếp nhận ODA nhập khẩu các máy móc, thiết bị từ nước họ. Chính vì vậy, nguồn ODA được triển khai khá lớn trên đây đã kéo theo việc nhập khẩu một khối lượng lớn các máy móc thiết bị từ nước cung cấp làm cho kim ngạch nhập khẩu tăng lên nhanh chóng. Ở nước ta, hỗ trợ phát triển chính thức ODA được coi là một loại hình đầu tư gián tiếp. Nguồn vốn ODA phần lớn được dùng cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội mà không trực tiếp đóng góp vào chế tạo tạo ra hàng xuất khẩu nên chỉ có nhập mà không có xuất. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế cho rằng “ODA mở đường cho đầu tư tư nhân”. Điều đó có nghĩa là tạo điều kiện cho các nước nhận ODA thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tằng cường khả năng xuất khẩu trong tương lai.
Bên cạnh nguồn vốn ODA, với những thay đổi tích cực về môi trường đầu tư, luồng vốn FDI vào Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng, từ mức chỉ đạt khoảng 18 tỷ USD vào năm 1995 đã lên đến hơn 39 tỷ USD vào năm 2001. Hầu hết nguồn vốn này cũng được thực hiện dưới dạng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu vì đây là thời kỳ các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới bắt đầu xây dựng cơ sở, lắp đặt máy móc, thiết bị, chưa có sản phẩm xuất khẩu hoặc giá trị xuất khẩu còn nhỏ. Bên cạnh đó, tỷ lệ các dự án không sản xuất hàng xuất khẩu khá lớn, họ còn nhằm vào thị trường tiêu thụ nội địa nên thường đầu tư vào kinh doanh khách sạn, văn phòng, sản xuất nước giải khát, bia, đồ dùng gia đình,
Nếu chưa phân tích kỹ về chất lượng các mặt hàng nhập khẩu thì việc nhập siêu do ODA và FDI thời kỳ này là không tánh khỏi, nhập siêu chính là cơ sở nâng cao tiềm lực xuất khẩu trong tương lai.
b.Tỷ giá hối đoái chưa hợp lý, thiếu linh hoạt cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy nhập siêu.
Tỷ giá là phương tiện biểu thị giá cả của thị trường trong nước theo ngoại tệ và ngược lại. Có thể nói rằng tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc điều tiết xuất nhập khẩu. Ví dụ khi nhà nước muốn khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu có thể phá giá đồng nội tệ hay để đồng nội tệ giảm giá (nói cách khác tỷ giá hối đoái tăng lên) 10% so với các đồng ngoại tệ khác thì giá hàng nhập khẩu cũng bị tăng lên 10% làm cho nhu cầu nhập khẩu hàng giảm xuống, đồng thời giá hàng xuất lại giảm xuống, năng lực cạnh tranh của hàng xuất lại tăng lên, khuyến khích xuất khẩu. Ngược lại, nếu duy trì một tỷ giá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu.
Ở nước ta, ngoại tệ được dùng phổ biến là đô la Mỹ, nên tỷ giá giữa đồng Việt Nam (VND) và đồng đô la Mỹ (USD) có vai trò rất quan trọng nhưng trong giai đoạn 1995- 1997, khi tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam ở mức từ 40 – 50%, chúng ta muốn đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu thì tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng USD lại tương đối ít thay đổi. Thực tế, đến giai đoạn 1999- 2001, khi tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam so với đô la Mỹ thay đổi linh hoạt hơn theo nhu cầu của thị trường thì tỷ lệ nhập siêu ở Việt Nam giảm mạnh, ở mức dưới 10%. Như vậy, tỷ giá có vai trò quan trọng trong việc điều tiết xuất nhập khẩu, việc điều chỉnh hợp lý tỷ giá hối đoái có lợi cho xuất khẩu và làm cho nhập khẩu bị đắt lên là biện pháp rất quan trọng để giảm nhập siêu.
c. Sự chênh lệch giữa lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ làm tăng nhu cầu vay vốn nước ngoài thông qua các L/C nhập hàng trả chậm.
Trong những năm trước đây, lãi suất cho vay của các ngân hàng trong nước cao hơn nhiều so với lãi suất trên thị trường thế giới, dẫn đến các doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn vốn ở thị trường nước ngoài và dùng vốn đó nhập khẩu hàng hoá. Năm 1995- 1996, lãi suất LIBOR (lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế ở Luân đôn) của đồng USD dao động ở mức 5,5- 6,5%/năm, nhưng ở Việt Nam nếu cộng thêm cả các khoản phụ phí vào lãi suất thì các doanh nghiệp Việt Nam cho vay với mức phí lên đến 18 – 20%/ năm. Điều này dẫn đến việc các doanh nghiệp do có nhu cầu về vốn kinh doanh đã chuyển sang vay vốn nước ngoài thông qua việc nhập khẩu trả chậm (điều này lý giải cho việc ứ đọng vốn tại các ngân hàng trong nước vào trước năm 1997). Việc vay vốn nước ngoài thông qua L/C nhập hàng trả chậm vào trước năm 1997 cho thấy việc nhập khẩu hàng hoá về trong thời gian này không phải là để đáp ứng nhu cầu của thị trường.Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trị giá hàng hoá nhập khẩu bằng hình thức L/C trả chậm có bảo lãnh của ngân hàng năm 1996 đã lên đến 1,3 tỷ USD (tổng số nhập khẩu trả chậm khoảng 2 tỷ USD), bằng 12% kim ngạch nhập khẩu cả năm và tương đương 30% nhập siêu năm 1996. Vì vậy, từ sau năm 1997, lãi suất cho vay ở Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể. Cho đến năm 2001, trước tình hình lãi suất của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới giảm mạnh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã giảm lãi suất cho vay xuống mức từ 8- 12%/ năm đối với đồng Việt Nam, riêng với USD thì lãi suất càng giảm mạnh, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 5,5 – 6%/ năm, trung dài hạn là từ 6 – 6,5% / năm. Nhưng trên thực tế lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại lại cao hơn nhiều so với lãi suất của NHNN. Nguyên nhân là do việc huy động vốn chỉ thông qua hai con đường là qua ngân hàng và thị trường chứng khoán, nhưng ở Việt Nam thì việc huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là hầu như không có. Trong khi đó các Ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động kém hiệu quả nên buộc phải tăng lãi suất cho vay lên cao làm chi phí vốn của các doanh nghiệp tăng lên. Kết quả là có những doanh nghiệp thua lỗ cũng chỉ vì lãi suất vay vốn quá cao. Dù vậy, việc cắt giảm lãi suất cũng đem lại những dấu hiệu tích cực về việc hạn chế nhập khẩu ở Việt Nam những năm vừa qua.
d. Sự điều chỉnh chính sách thuế quan tác động đến nhập khẩu.
Để thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan trong quá trình tham gia AFTA (Khu vực mậu dịch tự do Châu Á) và cải cách hệ thống thuế nói chung, hệ thống thuế trước đây đã được phân định thànhthuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế doanh thu, là những khoản thuế trước đây được đánh gộp cho hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam. Việc tách bạch các loại thuế này có tác dụng tương đương như việc giảm thuế nhập khẩu, trong đó chúng ta lại thiếu các loại phí khác đánh vào hàng nhập khẩu. Việc thuế nhập khẩu giảm kéo theo kim ngạch nhập khẩu tăng lên đáng kể. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu lâu dài và còn là nguy cơ cho tương lai khi mà Việt Nam thực hiện AFTA, cắt giảm thuế nhập khẩu cho hầu hết các mặt hàng trong khu vực nhập khẩu vào Việt Nam .
1.2 Ảnh hưởng của việc nhập siêu đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
Khó có thể kể hết những ảnh hưởng khác nhau của việc nhập siêu quá lớn (cán cân thương mại bị thâm hụt nghiêm trọng), song ít nhất có hai hậu quả mà nền kinh tế sẽ phải gánh chịu.
Một là, sự gia tăng nhập siêu làm cho khả năng trả nợ của nước ta giảm đi và mức tích nợ cao lên. Nhập siêu từ năm 1995 đến năm 2001 là gần 13,4 tỷ USD và nếu nhập siêu tăng mạnh thì trong vòng 20 năm tới mức nhập siêu sẽ lên tới bao nhiêu? Nguy cơ rơi vào tình trạng nợ nước ngoài quá lớn như một số nước đang phát triển là rất có thể xảy ra. Nếu nợ nước ngoài quá lớn thì lãi suất phải trả hàng năm tăng lên, như vậy các nước đang phát triển sẽ chỉ phục vụ một mục tiêu là trả nợ cho nước ngoài. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế, cán cân thanh toán quốc tế sẽ mất cân đối trong thời gian tới, nền kinh tế rất dễ rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, Việt Nam đã tương đối thành công trong việc hạn chế tỷ lệ nhập siêu trong những năm 1999- 2001 khi duy trì tỷ lệ này dưới mức 10%, đặc biệt năm 1999 chỉ nhập siêu 1% trong khi kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tăng mạnh. Nừu chúng ta tiếp tục duy trì được tình tạng hiện tại thì nguy cơ trên sẽ ít có khả năng xảy ra.
Hai là, sức cạnh tranh của hàng nội địa sẽ giảm xuống, cùng với sự gia tăng của nhập siêu, các ngành công nghiệp trong nước sẽ bị đình đốn. Ảnh hưởng này sẽ ngày càng nghiêm trọng khi nước ta chính thức thực hiện AFTA, thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ, tham gia WTO, hay các tổ chức quốc tế khác. Việc tự do hoá mậu dịch một mặt sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá nước ngoài thâm nhập thị trường nội địa, làm tăng kim ngạch nhập khẩu, mặt khác làm tăng sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu (do những mặt hàng này được hưởng thuế quan ưu đãi nên giảm được giá cả hàng hoá). Điều này dẫn đến nguy cơ phá sản của các xí nghiệp trong nước vì không đủ sức cạnh tranh với hàng nước ngoài có ưu thế về chất lượng và giá cả. Vì vậy Nhà nước cần có những chính sách kịp thời và hiệu quả để hạn chế nhập siêu gây những ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Bên cạnh những ảnh hưởng trên thì nhập siêu cũng có những ảnh hưởng tích cực đến xuất khẩu. Đó là nhập siêu làm máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất hàng hoá tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Điều này cũng đóng góp được một phần cho tăng trưởng kinh tế và trong thời gian sau đó nhập siêu lại chính là nguyên nhân làm tăng kim ngạch xuất khẩu, làm giảm tỷ lệ nhập siêu.
Trên đây chỉ là những ảnh hưởng lớn nhất, bao quát nhất đối với sự tăng trưởng kinh tế của nhập siêu. Tuy chúng ta đã đạt được những mục tiêu đề ra trong thời gian trước là đưa xuất khẩu tăng lên đạt mức trên 15 tỷ USD vào năm 2001, nhưng nếu không tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới thì Việt Nam vẫn có nguy cơ rơi vào tình trạng nhập siêu. Việt Nam muốn đuổi kịp các nước trong khu vực và nâng cao hiệu quả kinh tế, cần không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu từ đó giảm thâm hụt thương mại cho đất nước.
1.3 Biện pháp quản lý cán cân thương mại và tình trạng nhập siêu.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu
Như đã phân tích về tác hại của tình trạng nhập siêu, chúng ta phải đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế tình trạng này. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là việc khuyến khích xuất khẩu vì biện pháp này không những có thể cải thiện được cán cân thanh toán mà còn thúc đẩy các ngành công nghiệp trong nước phát triển. Dưới đây là một số biện pháp để thúc đẩy nhập khẩu ở Việt Nam.
Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại cấp quốc gia, đặc biệt là hoạt động thương mại của chính phủ với các quốc gia khác như ký kết các hiệp định thương mại, các văn bản cam kết xuất nhập khẩu, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có được một môi trường kinh doanh thuận lợi. Các thị trường tiềm năng cho hoạt đọng xuất khẩu hiện nay là các thị trường lớn như Nhật Bản, Mỹ, các nước trong khối Asean, Trung Quốc, các nước EU Việt Nam cũng phải phấn đấu từng bước để có thể tham gia tổ chức kinh tế thương mại Châu Á Thái Bình Dương, tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Thực hiện khai thác có hiệu quả tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, đất đai, cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu của thị trường thế giới, tăng các mặt hàng chế biến gia công, giảm tỷ trọng sản phẩm thô. Cần đầu tư thích đáng vào những mặt hàng Việt Nam có ưu thế như gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, các sản phẩm khai khoáng như dầu mỏ, khí đốt,
Hướng xuất khẩu phấn đấu chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang sản phẩm đã qua chế biến. Vì vậy cần phải coi trọng việc phát triển công nghệ chế biến, coi trọng các công nghệ từ khi thu hoạch đến khi chế biến. Mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài để nâng cao nămg lực ngành công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu.
Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như thuế, lãi suất cho vay đối với các mặt hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu có điều kiện giảm giá thành và nâng cao tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Đối với hàng nông sản, Nhà nước cần có chính sách trợ giá để giúp người nông dân tránh được những thiệt thòi do sự xáo trộn của thị trường nội địa, đồng thời cũng là biện pháp giúp họ yên tâm sản xuất và cải thiện đời sống của người nông dân.
Cần tổ chức công tác điều tra, nghiên cứu thị trường các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với từng thị trường cụ thể. Mở rộng các hình thức gia công xuất khẩu cho nước ngoài bằng chính nguyên liệu của mình hoặc của người đặt hàng.
Các biện pháp hạn chế nhập khẩu
Bên cạnh việc khuyến khích xuất khẩu thì quản lý nhập khẩu cũng là một biện pháp hữu hiệu, giúp bảo hộ nền sản xuất trong nước. Các biện pháp chính đó là:
Đối với những quốc gia có quan hệ thương mại với Việt Nam, Việt Nam có thể quản lý nhập khẩu thông qua những yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn chất lượng, yêu cầu vệ sinh môi trường,
Ngoài những luồng nhập khẩu hợp pháp, hàng năm lượng hàng hoá nhập khẩu phi pháp vào Việt Nam chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Chúng ta cần tăng cường công tác chống buôn lậu thông qua việc đào tạo đội ngũ cán bộ, trang thiết bị đầy đủ và tạo điều kiện mọi mặt về vật chất lẫn tinh thần để các cán bộ hoàn thành nhiệm vụ.
Xây dựng cơ chế điều hành ổn định lâu dài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu, tiếp tục mở rộng quyền tự chủ kinh doanh.
Các biện pháp quản lý cán cân thương mại
Khuyến khích xuất khẩu và quản lý nhập khẩu chưa thể nói là đã hoàn toàn đủ để cải thiện cán cân thanh toán nếu không biết cách quản lý nó một cách chặt chẽ. Để quản lý cán cân thương mại chúng ta cần thực hiện việc thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu hoàn toàn thông qua hệ thống ngân hàng. Dưới đây là một số phương pháp để thu hút thanh toán tiền hàng thông qua hệ thống Ngân hàng:
Mở rộng hệ thống Ngân hàng ra cả nước tại các Tỉnh, Thành phố, đặc biệt là ở các khu vực có khu công nghiệp mới, khu chế xuất và các tỉnh biên giới có vị trí chiến lược như Lạng Sơn, Móng Cái, Lào Cai, Các Tỉnh, Thành Phố này một mặt có nhu cầu thanh toán quốc tế cao một mặt lại ít có chi nhánh của các Ngân hàng thương mại, việc mở rộng thị trường của các Ngân hàng ở đây gặp nhiều thuận lợi.
Tăng cường hợp tác với các Ngân hàng nước ngoài để nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ ngân hàng và đào tạo đội ngũ cán bộ Ngân hàng tài giỏi, đủ năng lực quản lý,
Mở rộng phạm vi dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng nhằm thu hút thêm khách hàng mới đồng thời củng cố vững chắc thêm các mối quan hệ đã có sẵn.
Quản lý cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm cả cán cân thương mại, nhưng do vai trò quan trọng của cán cân thương mại nên chúng ta đưa nó thành một mục riêng để nghiên cứu. Như vậy, trong phần này chúng ta chỉ đề cập đến việc quản lý các cán cân còn lại trong cán cân vãng lai, đó là cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập đầu tư và chuyển giao một chiều.
Quản lý cán cân dịch vụ
Trước hết, chúng ta sẽ xem xét về việc quản lý cán cân dịch vụ và các biện pháp nhằm cải thiện cán cân này.
Các biện pháp cải thiện cán cân dịch vụ
Tăng cường hợp tác quốc tế với các doanh nghiệp nước ngoài, cử cán bộ đi đào tạo chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm trong hoạt động cung cấp các dịch vụ vận tải, bảo hiểm, thanh toán qua Ngân hàng,
Nhận làm đại lý cho các ngân hàng lớn, tổ chức tín dụng, các hãng vận tải, các công ty thương mại có tiềm lực kinh tế cao.
Phát huy nội lực trong nước để nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thu hút các hãng nước ngoài sử dụng dịch vụ của Việt Nam.
Biện pháp quản lý cán cân dịch vụ
Đào tạo đội ngũ cán bộ thống kê có đủ kinh nghiệm và năng lực để có thể thống kê đầy đủ và chính xác toàn bộ nguồn thu chi dịch vụ của quốc gia.
Ban hành các mẫu, biểu thống kê đến các đơn vị kinh doanh dịch vụ, thực hiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động cung cấp và sử dụng dịch vụ.
Quản lý các khoản thu nhập đầu tư và chuyển giao một chiều
Trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thì hạng mục thu nhập đầu tư luôn ở trong tình trạng thâm hụt vì thực tế người dân Việt Nam chưa quen với hoạt động đầu tư cũng như chưa đủ tiềm lực kinh tế để đầu tư ra nước ngoài nhằm thu lợi nhuận, các dự án đầu tư ra nước ngoài vẫn đang trong giai đoạn chưa có lãi, trong khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thì hoạt động tương đối hiệu quả.
Phải xuất phát từ quan điểm đối với việc quản lý luồng vốn chảy ra nước ngoài là có lợi cho nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới hay không. Nếu chưa thể để luồng vốn của Việt Nam chảy ra nước ngoài một cách tự do thì chúng ta sẽ phải chấp nhận tình trạng thâm hụt hạng mục thu nhập đầu tư và quản lý chặt chẽ luồng vốn thông qua các văn bản pháp luật. Nếu Việt Nam đã có đủ nguồn vốn để đầu tư trong nước và không cần quản lý chặt chẽ luồng vốn chảy ra nước ngoài thì chúng ta có thể tiến hành đào tạo các lớp chuyên sâu về nghiệp vụ đầu tư gián tiếp ra nước ngoài giúp mọi người hiểu biết thêm về nghiệp vụ này để khi có điều kiện họ có thể đầu tư thu lợi một cách hợp pháp.
Hoạt động chuyển giao một chiều là hoạt động mới ở Việt Nam trong những năm gần đây do chính phủ đã tiến hành các biện pháp thu hút các khoản chuyển tiền bằng ngoại tệ từ người Việt Nam sống ở nước ngoài thông qua việc bãi bỏ thuế chuyển tiền từ năm 1995. Tuy nhiên, thủ tục chuyển tiền ở Việt Nam còn phức tạp rườm rà do đó chính phủ cần có chính sách giảm bớt thủ tục, tạo điều kiện cho hoạt động chuyển tiền được dễ dàng, thông thoáng hơn.
Quản lý cán cân vốn
Quản lý đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta đã khẳng định rằng “nguồn vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng”. Trong giai đoạn đầu khi thu nhập của chúng ta còn thấp, khả năng tích luỹ chưa cao, nền kinh tế thường xuyên thiếu vốn thì việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp càng cần thiết hơn. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài không chỉ mang lại cho chúng ta một nguồn vốn mới mà điều quan trọng là qua quá trình đầu tư chúng ta sẽ nắm bắt được kinh nghiệm quản lý, tiếp thu bí quyết công nghệ của các nước tiên tiến, cải thiện được môi trường kinh doanh và nâng cao thực lực của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó làm việc với chuyên gia nước ngoài sẽ là một môi trường lý tưởng để công nhân Việt Nam nâng cao tay nghề. Để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và quản lý một cách có hiệu quả thì trong việc cấp giấy phép đầu tư, Nhà nước cần phải đứng trên quan điểm có lợi cho cả quốc gia và cho cả nhà đầu tư nước ngoài, kết hợp với các chiến lược phát triển kinh tế. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có hoạt động xuất khẩu thì phải cân đối ngoại tệ, không được mua ngoại tệ từ các ngân hàng trong nước để nhập nguyên liêu, vật tư thiết bị và chuyển vốn ra nước ngoài mà phải thông qua hoạt động xuất khẩu thu ngoại tệ để phục vụ mình. Các biện pháp cụ thể là:
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư một cách đồng bộ, có sức cạnh tranh với các nước xung quanh để thu hút đầu tư mới (cả khung pháp lý và việc thi hành luật pháp, kết cấu hạ tầng và các dịch vụ cần thiết với giá cả hợp lý).
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động ở nước ta kinh doanh và mở rông đầu tư có hiệu quả, đúng luật pháp, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Chú trọng thu hút đầu tư của các nước và tập đoàn có công nghệ nguồn, có thị trường lớn, hướng vào sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, sản xuất nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các sản phẩm cuối cùng xuất khẩu, giảm dần gia công và lắp ráp, hình thành các ngành sản xuất có khả năng cạnh tranh cao, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, thâm nhập được các thị trường mới.
Quản lý nợ nước ngoài
Việc quản lý vay nợ cần phải được hoàn thiện, phải đáp ứng hai mục tiêu: Một là, nâng cao hiệu quả vốn vay, hai là giữ được mức nợ nước ngoài trong một tỷ lệ tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Phải có chiến lược vay nợ và quy chế sử dụng vay nợ. Việc quản lý vay nợ phải bao quát tất cả các khoản vay nợ như vay nợ của Chính phủ, của các Ngân hàng thương mại và các Doanh nghiệp (kể cả vay thương mại). Phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc quản lý và sử dụng vay nợ.
Kết luận:
Tóm lại, sau khi nghiên cứu đề tài, tôi đi đến các kết luận sau:
Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại của một quốc gia, cho thấy quốc gia đó có triển vọng phát triển kinh tế hay khôngdo ngày nay, hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển của một đất nước. Còn về tăng trưởng kinh tế, đây là một chỉ tiêu kinh tế hết sức quan trọng, cũng hướng đến mục tiêu cuối cùng là phát triển nền kinh tế của đất nước, đem lại cuộc sống ổn định với mức sống cao cho người dân. Tăng trưởng kinh tế được đánh giá thông qua rất nhiều chỉ tiêu nhưng nhìn chung là tổng sản phẩm thực tế do quốc gia đó sản xuất ra và chỉ tiêu này chịu những ảnh hưởng không nhỏ của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Mối quan hệ biện chứng giữa cán cân thanh toán quốc tế và tăng trưởng kinh tế:
Cán cân thanh toán quốc tế thực tế chỉ là một bảng biểu thống kê nhưng tình trạng của nó lại thể hiện những tác động tích cực hay tiêu cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế do nó không chỉ thể hiện tình trạng xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ mà còn thể hiện tình trạng cán cân vốn, cụ thể là đầu tư trực tiếp, gián tiếp, Tình trạng của những cán cân này tác động trực tiếp đến nền sản xuất của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu tổng quát bao gồm cả kinh tế đối ngoại và tưởng như không thể ảnh hưởng đến kinh tế kinh tế đối ngoại. Nhưng thực tế, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, các nhà hoạch định chính sách phải đặt ra các chính sách tăng trưởng khác nhau và mỗi chính sách này đều gây ra các phản ứng riêng biệt trên cán cân thanh toán quốc tế.
Thực tiễn ở Việt Nam
Trong giai đoạn 1995-2001 kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong cả hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên cũng còn không ít những bất cập như cán cân thanh toán quốc tế vẫn liên tục ở trong tình trạng thâm hụt, tăng trưởng kinh tế tuy đạt được tốc độ cao nhưng cơ cấu nền kinh tế còn chưa hợp lý, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP còn cao trong khi tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp còn chưa phù hợp với tiềm năng. Những bất cập này cần được khắc phục để có thể đưa nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đề ra các biện pháp quản lý
Trên cơ sở những lý thuyết đã phân tích, luận văn đưa ra một số giải pháp mang tính gợi ý nhằm góp phần vào việc quản lý cán cân thanh toán quốc tế một cách có hiệu quả hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong dài hạn. Những biện pháp này bao gồm: thay đổi và hoàn thiện hệ thống luật pháp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, hoàn thiện cơ chế và hệ thống cán bộ quản lý kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế, đưa ra các chính sách khuyến khích đầu tư cũng như khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu và xuất khẩu, Tất cả các biện pháp này nếu được áp dụng và phối hợp một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả mong muốn.
Danh mục tài liệu tham khảo:
+ Ngọc Đào – Năm 2002 phải là năm cơ cấu lại – Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Trang 7 - Thời báo kinh tế Việt Nam.
+ Dương Ngọc – Năm 2001: GDP đạt mức tăng cao nhất sau 4 năm - Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Trang 4 - Thời báo kinh tế Việt Nam.
+ N. Gregory Mankiw – Harvard University - Macroeconomics (Second edition) – Worth Publisher.
+ Paul A Samuelson- William D. Nordhalls – Dịch giả: Vũ Cương; Đinh Xuân Hà; Nguyễn Xuân Nguyên; Trần Đình Toàn - Kinh Tế Học (Tập 2) – NXB Thống Kê - Tái bản lần thứ nhất.
+ TS Trần Ngọc Thơ; THS Nguyễn Thị Ngọc Trang; TS Nguyễn Ngọc Định; TS Nguyễn Thị Liên Hoa - Đại học Kinh Tế TP Hồ Chí Minh - Tài chính quốc tế – NXB Thống Kê - Năm 2000.
+ TS Nguyễn Văn Tiến - Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở – NXB Thống kê - Năm 2002.
+ PGS. Đinh Xuân Trình - Giáo trình Thanh toán Quốc tế - NXB Giáo Dục - Năm 2002.
+ Thông tư số 05/2000/ TT - NHNN1 ngày 28/3/2000 hướng dẫn thi hành một số điểm về lập cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam theo nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ.
+ Bảng: Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam 1993- 1999 - Tạp chí Ngân Hàng, trang 24 – Số 10 Năm 2000.
+ Bảng: Kiều hối và mối tương quan với đầu tư nước ngoài 1995-2001 – Tạp chí kinh tế và dự báo tháng 4 năm 2002, Trang 12 – Tạp chí hàng tháng của bộ kế hoạch đầu tư.
+ Bộ môn Kinh tế vĩ mô - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - Những vấn đề cơ bản về Kinh tế vĩ mô - NXB Thống kê - Năm 1996.
+ Kinh tế - xã hội Việt Nam qua các con số thống kê - Tạp chí kinh tế Việt Nam và Thế giới 2001- 2002, Trang 48,49,50,51,52 – Thời báo kinh tế Việt Nam.
+ www.vneconomy.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C¸n c©n thanh to¸n quèc tÕ vµ t¨ng trëng kinh tÕ,......doc