Thứ tư, theo quy định tại khoản 5
Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì lệnh tạm
giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ
quan điều tra phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận
được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê
chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm
giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết
thúc việc xét phê chuẩn. Theo chúng tôi,
quy định thời hạn phê chuẩn đối với lệnh
tạm giam của Cơ quan điều tra trong thời
hạn 3 ngày là quá dài. Cần phải hiểu,
trường hợp Cơ quan điều tra ra lệnh tạm
giam là trường hợp bị can trước đó đang
bị áp dụng biện pháp tạm giữ. Thời hạn
tạm giữ, gia hạn tạm giữ tối đa cũng chỉ
có thời hạn 3 ngày. Viện kiểm sát xét phê
chuẩn lệnh tạm giam đối với trường hợp
bị can trước đó đang bị tạm giữ sẽ thuận
lợi hơn rất nhiều so với trường hợp bắt
bị can để tạm giam vì trước đó Viện kiểm
sát đã thực hiện chức năng kiểm sát quyết
định tạm giữ, thực hiện việc phê chuẩn
đối với quyết định gia hạn tạm giữ. Do
đó, chúng tôi kiến nghị giảm thời hạn xét
phê chuẩn lệnh tạm giam của Viện kiểm
sát trong trường hợp này xuống còn 24
giờ để phù hợp với thực tế áp dụng8.
Điều này giúp việc xét phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối
với người đang bị tạm giữ còn trong thời
hạn tạm giữ, đảm bảo quyết định khởi
tố bị can, lệnh tạm giam chỉ có hiệu lực
sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn. Cụ thể
Khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 cần
sửa đổi như sau:
“5. Những người có thẩm quyền quy
định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này
có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh
tạm giam của những người được quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải
được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113
của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời
hạn 24h kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam,
đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đề
việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho
Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc
xét phê chuẩn”./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Căn cứ và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
ĐẶNG VĂN THỰC
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành
án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền
của mình có thể áp dụng một hoặc một số
biện pháp ngăn chặn. Thông qua thực tế
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, có thể
thấy rằng biện pháp tạm giam được xem
là biện pháp hữu hiệu nhất để đảm bảo
việc giải quyết vụ án được thuận lợi. Tuy
nhiên, do tính chất nghiêm khắc của biện
pháp ngăn chặn tạm giam nên biện pháp
này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền bất
khả xâm phạm về thân thể và các quyền
con người cơ bản của người phạm tội
nếu được áp dụng tùy tiện. Do vậy, đòi
hỏi khách quan luật phải quy định hết
sức cụ thể và rõ ràng căn cứ, thẩm quyền
áp dụng nhằm hạn chế hiện tượng biến
tướng, dùng biện pháp ngăn chặn này
thay thế cho biện pháp điều tra trong thực
tiễn vừa qua1.
1 PGS.TS Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những
nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015”, tr252, Nxb.Chính trị quốc gia
CĂN CỨ VÀ THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015
ĐẶNG VĂN THỰC*
* Thạc sĩ, Phó trưởng khoa Pháp luật hình sự và
Kiểm sát hình sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà
Nội
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn phổ biến trong tố tụng hình sự. Với tính chất
cưỡng chế nghiêm khắc, biện pháp này đã phát huy hiệu quả trong việc ngăn chặn
tội phạm, tạo điều kiện cho Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Bài viết đi
sâu phân tích về căn cứ và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định
tại Điều 119 và 419 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, từ đó tìm ra các
điểm chưa hợp lý trong quy định và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện nhằm đảm
bảo tốt hơn nữa việc áp dụng biện pháp này trên thực tế.
Từ khóa: Tạm giam, biện pháp ngăn chặn, Bộ luật tố tụng hình sự.
Ngày nhận bài: 28/11/2019; Ngày biên tập xong: 9/12/2019; Ngày duyệt đăng:
24/12/2019.
By strict coercive nature, detention which is a popular preventive measure in
criminal procedures has effectively promoted in preventing crimes and supporting
presiding authorities to resolve criminal cases as well. This article concentrates on
grounds and authority to implement detention according to Article 119 and
Article 419 of the Criminal Procedure Code in 2015, then points out inadequacies and
proposes some recommendations to better ensure the application of this measure
in reality.
Keywords: Detention, preventive measure, the Criminal Procedure Code.
30
CĂN CỨ VÀ THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
1. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam
Tạm giam có thể áp dụng đối với bị
can, bị cáo thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo về
tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng (khoản 1 Điều 119 BLTTHS năm
20152).
Nếu bị can, bị cáo phạm vào tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
thì việc áp dụng biện pháp tạm giam là
cần thiết. Tuy nhiên, điều luật đã quy
định rõ “tạm giam có thể áp dụng”,
tức là không phải mọi bị can, bị cáo phạm
tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng đều bị tạm giam, mà chủ thể phải
căn cứ vào tình hình thực tế của vụ án.
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
cụ thể cũng phải thỏa mãn các căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn quy định tại
Điều 109 BLTTHS năm 2015. Theo đó, chỉ
áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có căn
cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi
hành án. Cần lưu ý, căn cứ tạm giam khi
bị can phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng chỉ là biểu hiện về mặt hình
thức của các căn cứ về mặt nội dung quy
2 Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của
khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; Tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và
mức độ nguy hiểm hco xã hội đặc biệt lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình.
định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015. Nhà
làm luật lấy căn cứ này với nhận định rút
ra trên thực tế rằng, người phạm tội rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nếu
không bị áp dụng biện pháp tạm giam thì
khả năng bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là rất
cao. Do trường hợp bị can phạm tội rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng thì
tương ứng với mức hình phạt được áp
dụng đối với người phạm tội cũng sẽ nặng.
Vì vậy, không phải trong mọi trường hợp
khi bị can phạm tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng thì đều áp dụng biện
pháp tạm giam.
Trên thực tế, có trường hợp bị can
phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng nhưng không có khả năng
bỏ trốn cũng như gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử. Ví dụ: Nguyễn
Văn A đang chấp hành án tạm trại giam
B thì bị Cơ quan điều tra X khởi tố về tội
cướp tài sản, hành vi phạm tội này của
Nguyễn Văn A chưa bị xem xét xử lý ở
bản án đang chấp hành hình phạt. Đối với
trường hợp trên, nếu áp dụng biện pháp
tạm giam với lý do tội cướp tài sản là tội
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng3
3 Khoản 1 Điều 168 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) quy định về Tội cướp tài sản như
sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
hoặc có thủ đoạn khác làm cho người bị tấn công
lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm
chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tù từ
3 năm đến 10 năm tù”. Đối chiếu quy định về phân
loại tôi phạm quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) khoản 1
Điều 168 BLHS năm 2015 là tội phạm rất nghiêm
trọng: Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
phạm đó là đến 7 năm tù.
31Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
ĐẶNG VĂN THỰC
thì sẽ không phù hợp vì bị can A không có
khả năng bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử. Trên thực tế,
đã có những nơi áp dụng biện pháp tạm
giam với lý do việc quản lý đối với người
bị tạm giam sẽ chặt chẽ hơn so với người
chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, nếu áp
dụng biện pháp tạm giam đối với Nguyễn
Văn A trong trường hợp này sẽ gặp khó
khăn trong việc thực hiện lệnh tạm giam
đối với A? Cơ sở giam giữ nào thực hiện
lệnh tạm giam đối với A? Luật thi hành án
hình sự hiện nay không quy định về việc
điều chuyển đổi với người chấp hành án
phạt tù khi Cơ quan điều tra ra lệnh tạm
giam đối với người chấp hành án4. Vì vậy,
theo chúng tôi, trường hợp trên không
cần thiết phải ra lệnh tạm giam. Trường
hợp việc người chấp hành án tại Trại giam
gây khó khăn cho việc điều tra, giải quyết
vụ án, Cơ quan điều tra làm văn bản đề
nghị Cơ quan quản lý thi hành án hình sự,
Cơ quan thi hành án hình sự trích xuất để
phục vụ hoạt động điều tra5.
4 Điều 40 Luật thi hành án hình sự năm 2019 chỉ
quy định về việc trích xuất phạm nhân: “Cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có yêu
cầu trích xuất phạm nhân phải gửi văn bản yêu cầu
cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan
thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có yêu cầu
trích xuất để yêu cầu người có thẩm quyền quy
định tại khoản 2 Điều này ra lệnh trích xuất. Khi
nhận được yêu cầu trích xuất phạm nhân, người
có thẩm quyền phải ra lệnh trích xuất”.
5 Khoản 6 Điều 40 Luật thi hành án hình sự năm
2019 quy định về việc đưa phạm nhân được trích
xuất ra khỏi nơi chấp hành án: “Trường hợp đưa
phạm nhân được trích xuất ra khỏi nơi chấp hành
án thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu
tiếp nhận phạm nhân được trích xuất phải bảo
đảm chế độ ăn, ở, sinh hoạt cho người đó theo quy
định của pháp luật trong thời gian trích xuất. Căn
Trường hợp thứ hai: Tạm giam có
thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội
nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tù trên
02 năm. Khi có căn cứ xác định người đó
thuộc một trong các trường hợp: a) Đã
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
nhưng vi phạm; b) Không có nơi cư trú
rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch
của bị can; c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; d)
Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp
tục phạm tội; đ) Có hành vi mua chuộc,
cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo
gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu
hủy, giải mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật
của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến
vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người
làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm
và người thân thích của những người này.
Ngoài căn cứ bỏ trốn và tiếp tục phạm
tội như BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm
2015 đã bổ sung thêm “có dấu hiệu bỏ
trốn” (điểm c khoản 2) hoặc “có dấu hiệu
tiếp tục phạm tội” (điểm d khoản 2), bỏ
những căn cứ rất chung như “cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử” và thay vào đó
là những căn cứ cụ thể như: “đã bị áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi
phạm” (điểm a khoản 2), “không có nơi cư
trú rõ ràng hoặc không xác định được lý
lịch của bị can” (điểm b khoản 2); “có hành
vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài
liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên
cứ lệnh trích xuất, trại tại giam hoặc nhà tạm giữ
nơi cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có yêu cầu
phải quản lý phạm nhân được trích xuất theo quy
định của pháp luật”.
32
CĂN CỨ VÀ THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả
thù người làm chứng, bị hại, người tố giác
tội phạm và người thân thích của những
người này” (điểm đ khoản 2).
Trường hợp thứ ba: Tạm giam có thể áp
dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm
trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm
tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã. Đây là trường hợp mới được quy
định trong BLTTHS năm 2015, để có thể
áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị
can, bị cáo phải thỏa mãn hai điều kiện.
Như vậy, mặc dù bị can, bị cáo chỉ phạm
tội ít nghiêm trọng, mức hình phạt tù đối
với tội đó đến 2 năm tù là tính nguy hiểm
thiệt hại đối với xã hội không lớn nhưng
trong quá trình giải quyết vụ án thì bị can,
bị cáo lại tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn
và bị bắt theo quyết định truy nã. Lúc này
bị can, bị cáo đó đã trở nên nguy hiểm
hơn, có thể gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử. Do đó, việc bổ sung
trường hợp này tạo cơ sở pháp lý cho cơ
quan tiến hành tố tụng có thể tạm giam bị
can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng khi
xét thấy cần thiết.
2. Áp dụng biện pháp tạm giam đối
với một số chủ thể đặc biệt
Tạm giam phụ nữ có thai hoặc đang nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, người
bị bệnh nặng
Khoản 4 Điều 119 BLTTHS năm 2015
quy định đối với bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng
tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì
không tạm giam mà áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác nhằm bảo đảm cho sức
khỏe của người phụ nữ khi có thai, cũng
như tạo điều kiện tốt nhất để họ được
nuôi con nhỏ, hoặc đối với người già yếu,
người bị bệnh nặng nếu bị tạm giam thì
cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức
khỏe của họ. Quy định này thể hiện chính
sách nhân đạo của Nhà nước trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, tuy nhiên
nếu họ thuộc một trong bốn trường hợp
kể trên thì vẫn tiến hành tạm giam. Cần
hiểu rằng quy định tại khoản 4 Điều 119 là
quy định hạn chế việc áp dụng biện pháp
tạm giam đối với các chủ thể cần bảo vệ.
Do vậy, việc áp dụng biện pháp tạm giam
đối với các chủ thể này vẫn phải tuân theo
các căn cứ cụ thể về phân loại tội phạm
và điều kiện áp dụng tại các khoản 1, 2, 3
BLTTHS năm 2015. Các căn cứ tại khoản 4
Điều 119 BLTTHS năm 2015 chỉ là các căn
cứ bổ sung thêm các điều kiện để có thể
áp dụng biện pháp tạm giam đối với các
chủ thể này.
Tạm giam đối với người dưới 18 tuổi
Đối với trường hợp bị can bị áp dụng
biện pháp tạm giam là người dưới 18 tuổi:
Theo tinh thần tại Điều 419 BLTTHS năm
2015, thì việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ được thực hiện trong trường
hợp biện pháp giao người dưới 18 tuổi
cho người đại diện gia đình, các biện pháp
ngăn chặn không tước tự do không thể áp
dụng. Đồng thời, bị can thuộc các căn cứ
tạm giam quy định tại khoản 3, 4 Điều 419
BLTTHS năm 2015: Người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam về tội
phạm quy định tại khoản 2 Điều 12 của
BLHS nếu có căn cứ quy định tại các điểm
a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119; Người từ
33Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
ĐẶNG VĂN THỰC
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm
giam về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
nếu có căn cứ quy định tại các điểm a, b,
c, d, đ khoản 2 Điều 119; Đối với bị can, bị
cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội nghiêm
trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tù đến
02 năm thì có thể tạm giam nếu họ tiếp
tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã.
3. Thẩm quyền áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam
Theo quy định tại khoản 5 Điều 119
BLTTHS năm 2015, những người có thẩm
quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của
Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định
tạm giam, tức là bao gồm các chủ thể: Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự
các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa
án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
Như vậy, việc áp dụng biện pháp
tạm giam đối với bị can, bị cáo có thể
được thực hiện trong giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử. BLTTHS năm 2015 đã
không còn quy định về thẩm quyền ra
lệnh tạm giam của Thẩm phán giữ chức
vụ Chánh án Tòa án, Phó chánh án Tòa
phúc thẩm TANDTC như BLTTHS năm
2003 bởi theo Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014, hệ thống Tòa án đã có sự
thay đổi về mặt cơ cấu, đã không còn Tòa
phúc thẩm TANDTC nên việc quy định
như vậy là hoàn toàn phù hợp. Đồng thời,
trước đây BLTTHS năm 2003 quy định về
các chủ thể có thẩm quyền ra lệnh bắt bị
can, bị cáo để tạm giam (cũng là chủ thể
có quyền ra lệnh tạm giam) được sắp xếp
một cách ngẫu nhiên theo thứ tự là Viện
kiểm sát, Tòa án, Cơ quan điều tra thì
BLTTHS năm 2015 đã sắp xếp lại các chủ
thể này theo trình tự điều tra, truy tố, xét
xử vụ án hình sự. Vụ án đang ở giai đoạn
tố tụng nào thì sẽ có cơ quan tiến hành
tố tụng tương ứng có thẩm quyền ra lệnh
tạm giam. Riêng lệnh tạm giam của Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra
các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp
phê chuẩn trước khi thi hành6.
4. Hoàn thiện một số vấn đề về căn cứ
và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm
giam
Thứ nhất, về điều kiện áp dụng biện
pháp tạm giam. Như đã phân tích, tạm
giam có thể được áp dụng đối với người
phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng. Nhà áp dụng pháp luật
phải mặc nhiên hiểu không phải trong
mọi trường hợp khi bị can, bị cáo phạm
tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng thì phải áp dụng biện pháp tạm
giam mà cần xem xét có cần thiết áp dụng
biện pháp tạm giam hay không, đáp ứng
các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn
quy định tại Điều 109 hay không? Đặc
biệt, trường hợp bị can, bị cáo đang chấp
hành án phạt tù hoặc bị tạm giam về tội
phạm khác là trường hợp cụ thể nhất để
6 ThS. Nguyễn Thị Mai, “Một số vấn đề về biện
pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015”, tr, 39- Kỷ yếu Hội
thảo khoa học: Biện pháp cưỡng chế theo Bộ luật
tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015.
34
CĂN CỨ VÀ THẨM QUYỀN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG...
Khoa học Kiểm sát Số 06 - 2019
thấy rõ việc không cần thiết áp dụng biện
pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm
tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiệm
trọng. Để tránh trường hợp còn máy móc
áp dụng biện pháp tạm giam trên thực tế,
chúng tôi đề nghị sửa đổi khoản 1 Điều
119 BLTTHS năm 2015 như sau:
“1. Tạm giam có thể áp dụng đối với
bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng,
tội rất nghiêm trọng trừ trường hợp họ
đang chấp hành án phạt tù”.
Thứ hai, cụ thể hóa nội dung tại khoản
4 Điều 119 BLTTHS năm 2015 theo hướng
bổ sung đầy đủ căn cứ áp dụng biện pháp
tạm giam, tránh việc thực hiện không
đúng, không đầy đủ trên thực tế. Cụ thể
điều kiện đầy đủ để áp dụng biện pháp
tạm giam đối với các chủ thể này như sau:
Chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối
với các chủ thể này khi thuộc một trong
các trường hợp sau đây: a) Bỏ trốn và bị
bắt theo quyết định truy nã; b) Tiếp tục
phạm tội; c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng
ép, xúi giục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả
mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án,
tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa,
khống chế, trả thù người làm chứng, bị
hại, người tố giác tội phạm và người thân
thích của những người này; d) Bị can, bị
cáo về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng thuộc nhóm tội xâm phạm
an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây
nguy hại đến an ninh quốc gia. đ) Bị can,
bị cáo về tội nghiêm trọng thuộc nhóm tội
xâm phạm an ninh quốc gia trong trường
hợp có đủ căn cứ xác định nếu không tạm
giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến
an ninh quốc gia và thuộc một trong các
trường hợp quy định tại các điểm a, b, c,
d, đ khoản 1 Điều 119 BLTTHS năm 20157.
Thứ ba, về việc áp dụng biện pháp tạm
giam đối với người dưới 18 tuổi. Điều 419
BLTTHS năm 2015 đã quy định rất chặt
chẽ và cụ thể về việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy
nhiên, với cách quy định về căn cứ áp
dụng biện pháp tạm giam đối với người
dưới 18 tuổi sẽ gây khó khăn, vướng mắc
cho Cơ quan tiến hành tố tụng trong thời
gian sắp tới, khi mà BLTTHS năm 2015
chính thức có hiệu lực. Theo quy định
của BLTTHS năm 2015, người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam
trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng
do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng nếu có căn cứ quy định tại
các điểm a, b, c, d và đ khoản 2 Điều 119
hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý, tội
ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy
định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp
tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết
định truy nã. Như vậy, với việc quy định
như trên, BLTTHS năm 2015 đã không đề
cập đến trường hợp người dưới 18 tuổi
phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình
sự quy định phạt tù từ trên 2 năm đến 3
năm tù. Với cách quy định này, BLTTHS
năm 2015 một lần nữa lại trở lại vấn đề
vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua,
7 Đối với trường hợp này không bao gồm căn cứ:
Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và
có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với
họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia vì theo
quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) thì các tội xâm phạm an ninh quốc gia
không có trường hợp nào là tội ít nghiêm trọng.
35Khoa học Kiểm sátSố 06 - 2019
ĐẶNG VĂN THỰC
khi không thể áp dụng biện pháp tạm
giam đối với họ mặc dù đã áp dụng các
biện pháp khác nhưng vẫn vi phạm. Do
đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 4
Điều 419 BLTTHS năm 2015 như sau: “Đối
với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội
nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng thì
có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu họ tiếp
tục phạm tội, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã”.
Thứ tư, theo quy định tại khoản 5
Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì lệnh tạm
giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ
quan điều tra phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận
được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê
chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm
giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết
thúc việc xét phê chuẩn. Theo chúng tôi,
quy định thời hạn phê chuẩn đối với lệnh
tạm giam của Cơ quan điều tra trong thời
hạn 3 ngày là quá dài. Cần phải hiểu,
trường hợp Cơ quan điều tra ra lệnh tạm
giam là trường hợp bị can trước đó đang
bị áp dụng biện pháp tạm giữ. Thời hạn
tạm giữ, gia hạn tạm giữ tối đa cũng chỉ
có thời hạn 3 ngày. Viện kiểm sát xét phê
chuẩn lệnh tạm giam đối với trường hợp
bị can trước đó đang bị tạm giữ sẽ thuận
lợi hơn rất nhiều so với trường hợp bắt
bị can để tạm giam vì trước đó Viện kiểm
sát đã thực hiện chức năng kiểm sát quyết
định tạm giữ, thực hiện việc phê chuẩn
đối với quyết định gia hạn tạm giữ. Do
đó, chúng tôi kiến nghị giảm thời hạn xét
phê chuẩn lệnh tạm giam của Viện kiểm
sát trong trường hợp này xuống còn 24
giờ để phù hợp với thực tế áp dụng8.
Điều này giúp việc xét phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối
với người đang bị tạm giữ còn trong thời
hạn tạm giữ, đảm bảo quyết định khởi
tố bị can, lệnh tạm giam chỉ có hiệu lực
sau khi Viện kiểm sát phê chuẩn. Cụ thể
Khoản 5 Điều 119 BLTTHS năm 2015 cần
sửa đổi như sau:
“5. Những người có thẩm quyền quy
định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này
có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh
tạm giam của những người được quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải
được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113
của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời
hạn 24h kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam,
đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đề
việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho
Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc
xét phê chuẩn”./.
8 Điều 16 Thông tư liên tịch Số 04/2018/TTLT-
VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định
về phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự quy định: “Trường hợp khởi
tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì chậm
nhất 24 giờ trước khi hết thời hạn tạm giữ hoặc gia
hạn tạm giữ, Cơ quan điều tra phải chuyển hồ sơ
đề nghị phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh
tạm giam cho Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ đã
chuyển cho Viện kiểm sát để xét phê chuẩn, nếu
có chứng cứ, tài liệu bổ sung thì Cơ quan điều tra
phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát. Việc xét phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can được tiến hành
cùng với việc xét phê chuẩn lệnh tạm giam bị can”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- can_cu_va_tham_quyen_ap_dung_bien_phap_tam_giam_trong_bo_lua.pdf