Ba là, chính sách thu hút và sử dụng
vốn FDI cần có thay đổi mạnh mẽ.
Ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng, dù không phân biệt đối xử, nhưng
trên thế giới vẫn có sự ưu đãi hơn nhất
định đối với doanh nghiệp nội địa, đồng
thời cũng có những yêu cầu tập trung hơn
cho các doanh nghiệp FDI vào các dự án
có thị trường lớn, năng suất lao động cao,
công nghệ cao, có độ lan tỏa rộng. Cũng
có thể từ chối các dự án FDI “tầm thường”
chỉ chiếm chỗ của lao động trong nước
và khai thác không công bằng tài nguyên
thiên nhiên, thậm chí gây ô nhiễm. Thêm
vào đó, cũng cần có những quy định về
chế độ hạch toán và giải pháp “liên thông”
để chống chuyển giá. Tất cả các yêu cầu
đó đòi hỏi các cơ quan quản lý cần sớm
nghiên cứu hoàn thiện Luật đầu tư nói
chung và các điều khoản liên quan đến
thu hút và sử dụng vốn FDI để nâng cao
hơn nữa hiệu quả của nguồn vốn này. Việc
hoàn thiện Luật quy hoạch và vai trò của
kinh tế vùng cũng tạo điều kiện để phát
huy hết lợi thế cạnh tranh của vốn FDI
thích ứng với từng vùng lãnh thổ và các
điều kiện đang thay đổi nhanh chóng.
Hy vọng là, từ thực tiễn thành công và
chưa thành công, Việt Nam sẽ có những
điều chỉnh thích ứng và linh hoạt để thu
được kết quả cao nhất./.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cần điều chỉnh lớn chính sách thu hút và sử dụng FDI, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Nhìn lại thực trạng FDI
Trong điều kiện hội nhập và phát triển
hiện nay, việc thu hút và sử dụng vốn FDI
có ý nghĩa rất quan trọng. Báo cáo của
UNCTAD hằng năm về đầu tư thế giới
[9] đã cho thấy mỗi năm các nước đã thu
hút gần $1.500 tỷ, nhưng chỉ 1/3 đến các
nước đang phát triển. Chẳng hạn, trong số
$1.452 tỷ vốn FDI đầu tư vào các nước, đã
có $1.043 tỷ vào các nước phát triển, kèm
theo chuyển giao công nghệ cao, chỉ có
$383 tỷ, hay là dưới 30%, đầu tư vào các
nước đang phát triển [9, tr. 222]. Trong số
vốn này, Việt Nam được tiếp nhận $12 tỷ,
tăng liên tục $7,5 tỷ từ 2011.
Trong quá trình đổi mới và phát triển,
vấn đề vốn, lao động và công nghệ có ý
nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát
triển [1,2,10]. Vì thế, ngay trong giai đoạn
khởi đầu đổi mới, Việt Nam đã thông qua
Luật đầu tư nước ngoài cuối năm 1987.
Sau ba mươi năm (1987-2017), Việt Nam
đã thu hút được hơn $336 tỷ FDI với
khoảng 12 nghìn doanh nghiệp đang hoạt
động từ hơn 100 nước và vùng lãnh thổ.
Cho đến nay đã giải ngân được hơn $150
tỷ, chiếm 45% vốn đăng ký, đóng góp hơn
20% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội,
thu hút hơn 3 triệu lao động, chiếm 28%
lao động của các doanh nghiệp, đóng góp
hơn 2/3 giá trị xuất khẩu với chất lượng
ngày càng cao, đóng khoảng 20% GDP
của cả nước1. Đó là những thành tựu đáng
ghi nhận.
CẦN ĐIỀU CHỈNH LỚN CHÍNH SÁCH
THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI
TS. Bùi Trinh *
Tóm tắt: Các nhà đầu tư nước ngoài đã có 30 năm đầu tư vào Việt Nam, đóng
góp quan trọng, bổ sung các nguồn vốn để phát triển, công nghiệp và xuất khẩu. Tuy
nhiên, so với kỳ vọng, vốn FDI vẫn chưa phát huy được các lợi thế trong việc đầu tư
công nghệ cao, trong việc phát huy lan tỏa và đào tạo nguồn nhân lực. Bài viết đề xuất
những ý kiến mới để nâng cao hiệu quả của khu vực vốn FDI và tăng cường sự lan tỏa
với kinh tế trong nước.
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, hiệu quả, phát triển bền vững.
Abstract: Foreign investors investing in Vietnam for 30 years, have made
significant contributions to domestic capital for development, industry and export.
In comparison with expectations, however, FDI has not yet brought into full play the
advantages of investing in high technology, in promoting the spread and training of
human resources. In this article the author proposes fresh ideas so as to improve the
efficiency of the FDI and enhance the spread to the domestic economy.
Key words: Foreign direct investment, efficiency, sustainable development.
* Hội Kinh tế Việt Nam
1 Các số liệu FDI của Việt Nam bao gồm khoảng 20% vốn trong nước tham gia đối ứng
trong dự án. Trong các báo cáo quốc tế chỉ tính phần vốn ngoại thuần. Ví dụ năm 2016, vốn
FDI vào Việt Nam chỉ là $12,6 tỷ trong Báo cáo Đầu tư thế giới WIR 2017 [9] so với $15,8 tỷ
trong báo cáo của Việt Nam về vốn đầu tư thực hiện của các dự án FDI.
34
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Nguồn: Tạp chí Kinh tế và dự báo, 1/2017 và số liệu của TCTK các năm
Tuy nhiên, so với các mục tiêu và kỳ
vọng ban đầu, nguồn vốn FDI còn các các
nhược điểm như sau:
Một là, nhận xét tổng quát: Tỷ trọng
của khu vực FDI lớn trong nền kinh tế,
nhưng tác động không tương xứng đối với
nền kinh tế Việt Nam.
Tỷ trọng của khu vực FDI quá lớn
trong lĩnh vực vốn đầu tư (FDI hằng năm
chiếm trên 20% tổng vốn), trong khi ở
Trung Quốc đạt kỷ lục thu hút vốn FDI
trong các nước đang phát triển năm 2016
thu hút $134 tỷ, nhưng cũng chỉ chiếm
khoảng vài phần trăm trong tổng vốn đầu
tư khoảng $5.000 tỷ, chủ yếu dựa vào vốn
nội địa [8,9]. Trung Quốc đẩy mạnh chính
sách cần kiệm xây dựng, tổng tích lũy tài
sản do với GDP của Trung Quốc là 47,6%
(2010) và 45,7% (2015), là mức rất cao
và không chênh lệch nhiều giữa các năm,
thì tương ứng ở Việt Nam tỷ lệ tích lũy tài
sản so GDP chỉ là 35,7% (2010) và 27,7%
(2015), không những thấp mà còn giảm
đi nhanh chóng, một phần vì tăng trưởng
thấp và tiêu dùng cao. Trong điều kiện đó,
có tình trạng vốn ngoại “đẩy lùi” vốn nội
trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Hệ quả
là tại Việt Nam xẩy ra tình trạng “rỗng
ruột” của kinh tế và công nghiệp trong
nhiều lĩnh vực quan trọng. Công nghiệp
nội địa chiếm chưa tới 1/2 giá trị sản xuất
công nghiệp nhưng lại “từ bỏ” các ngành
chủ chốt (các ngành cơ khi chế tạo, điện
tử hoàn toàn bị khu vực FDI lấn lướt, khi
64% vốn đăng ký và 55% dự án đầu tư
FDI là vào công nghiệp trong thời gian
1988-2015) và không thực hiện được
“ước vọng” chuyển giao công nghệ và đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Cho
đến năm 2016, theo báo cáo của Tổng
cục Hải quan [3], tỷ lệ sản xuất và xuất
khẩu nhiều sản phẩm công nghiệp quan
trọng vẫn do doanh nghiệp FDI nắm giữ
như điện thoại và linh kiện (99,7% trong
doanh số $34 tỷ), máy tính và linh kiện
(97% trong doanh số $19 tỷ), máy ảnh và
linh kiện (99,5% trong doanh số $3 tỷ),....
Trong xuất khẩu, tỷ trọng đóng góp của
Bảng 1. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1988-2016
Đơn vị tính: tỷ USD
35
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
kinh tế nội địa chỉ còn chiếm khoảng 1/3,
phần lớn do doanh nghiệp vừa và nhỏ
thực hiện, chất lượng thấp. Do đó tỷ lệ giá
trị gia tăng của doanh nghiệp nội địa khó
cải thiện, chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước
và xuất khẩu lẻ. Công nghệ thực tế của
các doanh nghiệp, kể cả FDI, loại trung
bình và thấp là chủ yếu. Nếu có một ít
công nghệ cao thì phía bên nước ngoài
vẫn nắm, chỉ lợi dụng “made in Vietnam”
để tận dụng lợi thế của các Hiệp định tự
do thương mại FTA Việt Nam ký với các
nước. Hơn nữa, tình trạng “chuyển giá”
còn năng nề khi có tới 45% doanh nghiệp
FDI báo lỗ liên tiếp nhiều năm, nhưng vẫn
mở rộng đầu tư [6]. Trong khi đó, không
có nhiều doanh nghiệp hay Viện nghiên
cứu nội địa có thể nối kết với doanh
nghiệp FDI để cung ứng sản phẩm (nội địa
hóa thấp) và hơn thế càng khó có thể học
tập, “giải mã” công nghệ. Các chính sách
thiếu khuyến khích khu vực tư nhân trong
nước càng làm cho tác động của khu vực
FDI thêm hạn hẹp. Trong điều kiện đó, tỷ
lệ tiêu hao vật chất trong nền kinh tế cứ
tăng lên mãi, năng lực cạnh tranh chậm
cải thiện. Thiết nghĩ, một mai, các doanh
nghiệp FDI rút về nước hay đi nước khác
với công nghệ đã đổi mới khác trước thì
“bài toán” kinh tế Việt Nam trong mạng
sản xuất và thị trường toàn cầu trở nên
cực kỳ khó khăn.
Hai là, khu vực FDI phần lớn là doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu phục vụ cho
thị trường nội địa và xuất khẩu giá trị gia
tăng thấp, hiệu quả giảm sút liên tục.
Các dự án FDI chủ yếu có quy mô
vừa và nhỏ (dưới 200 lao động/dự án),
thậm chí nhiều dự án siêu nhỏ, xét cả về
lao động (L) và vốn tích lũy (K). Chẳng
hạn, đối với thu hút lao động, trong 10
năm (2005-2014), số dự án dưới 10 lao
động chiếm 24%; số dự án có dưới 200
lao động/doanh nghiệp đến 76%, trong
khi chưa tới 1% doanh nghiệp thu hút trên
5.000 lao động trong một doanh nghiệp
[5]. Về phương diện tài sản, khu vực FDI
có tài sản từ $10-25 triệu/DN chỉ có dưới
20% số doanh nghiệp cả nước còn với
tài sản trên $25 triệu/DN chỉ chiếm dưới
30% số với doanh nghiệp cả nước [6,7,8].
Vì thế, sản phẩm của các doanh nghiệp
FDI vẫn bị hạn chế khai thác ưu thế “quy
mô” để tham gia mạnh hơn vào chuỗi giá
trị gia tăng toàn cầu GVC. Gần đây, dù
có một số doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn
Quốc có quy mô khá lớn, tỷ lệ xuất khẩu
cao gia tăng đầu tư vào Việt Nam, nhưng
thực chất phần gia công tại Việt Nam còn
thấp và đơn giản, nên cũng không thoát
cảnh doanh nghiệp FDI tập trung tận
dụng ưu đãi của các địa phương mới đến
đầu tư (như Bắc Ninh, Thái Nguyên,...),
trong khi phần mở rộng đầu tư theo chiều
sâu trên nền công nghệ cao còn khiêm
tốn. Việc lan tỏa ảnh hưởng với các doanh
nghiệp nội địa cũng bị hạn chế. Nhiều
doanh nghiệp Việt còn nằm ngoài mạng
lưới cung cấp nguyên liệu, bán thành
phẩm có giá trị lớn cho các doanh nghiệp
FDI do cả nguyên nhân chủ quan và về
mối quan hệ. Mặc dù vậy, tỷ lệ đóng góp
thêm việc làm từ 2,7% (2005) đã tăng lên
6,4% (2014). Từ đó đóng góp ngày càng
nhiều cho xuất khẩu và tăng trưởng GDP
cả nước [5, tr.20]. Tuy nhiên, các tính toán
cho thấy hiệu quả “danh nghĩa” riêng có
từng năm của khu vực FDI vẫn rất thấp,
giảm nhanh xét về các chỉ số hiệu quả hay
tỷ lệ ICOR. Chẳng hạn, tỷ suất lợi nhuận
trên vốn sản xuất kinh doanh giảm từ 11,9
đ/đ (2005) xuống 6,6 đ/đ (2010) và 6,2
đ/đ (2014), hay là “khoảng cách” hiệu
quả từ mức 4 lần DNNN (2005) giảm
xuống chỉ còn hơn 2 lần (2014). Với khu
vực tư nhân, tuy hiệu quả cao hơn, nhưng
36
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
“khoảng cách” hiệu quả cũng đã giảm từ
8 lần (2005) xuống chỉ còn 5 lần (2014)
[5, tr. 80]. Hiệu quả giảm thấp do nhiều
nguyên nhân, nhưng điều đáng lo ngại là
hiệu quả các doanh nghiệp đều liên tục
giảm bớt, nhưng doanh nghiệp FDI giảm
nhanh hơn cả [5].
Ba là, khu vực FDI phần lớn là sử
dụng công nghệ thấp và vừa.
Đây là vấn đề lớn, nhưng thường bị
che lấp bởi việc “cạnh tranh” thu hút FDI
của các địa phương, khi các địa phương
đều xác định cơ cấu kinh tế “giống”
nhau, cùng “trải thảm đỏ” thu hút dự án
FDI tương tự nhau. Hệ quả là các dự án
FDI thường chỉ có công nghệ thấp hoặc
trung bình. Do các doanh nghiệp FDI có
thị trường rộng lớn ở Việt Nam cũng như
khu vực và toàn cầu, nên tạm thời vẫn
bám trụ được. Nhưng trong dài hạn, khi
cạnh tranh gay gắt hơn, công nghệ tiến bộ
nhanh thì có khả năng các doanh nghiệp
FDI đã đầu tư vào Việt Nam sẽ phải bị thay
thế do hiệu quả giảm quá mức cho phép.
Nhà đầu tư ngoại có thể không mở rộng
hay cải tiến doanh nghiệp mà sẽ “chuyển”
sang nước khác có lợi thế hơn, hay “về
nhà” (go-home nước chính quốc). Khi
đó, những hệ lụy sẽ rất lớn. Công nghiệp
Việt Nam lại rỗng ruột hơn nữa, vì không
thể lấp được chỗ trống. Điều tra về trình
độ công nghệ đã phản ánh một phần yếu
kém này, khi phần lớn doanh nghiệp thu
hút lao động nhiều, có công nghệ thấp là
doanh nghiệp dệt may, địa ốc... Hệ quả
là trong nước chỉ có 12,7% doanh nghiệp
thuộc nhóm ngành công nghệ cao, nhưng
công nghệ thực tế đầu tư lại chưa thật
cao, vì các bí quyết công nghệ đã được
sản xuất và sở hữu bởi công ty mẹ ở chính
quốc. Ngay các dự án có vẻ công nghệ
cao thì thực chất chỉ là từng công đoạn
“ẩn tàng” trong một dây chuyền sản xuất
với “bí quyết” Know-how đã bị doanh
nghiệp FDI giữ kín. Ngay các phòng thí
nghiệm được lập ở các dự án FDI cũng
thường không lớn và chỉ làm hỗ trợ mà
không phải là nghiên cứu nhằm mục tiêu
đổi mới sáng tạo, mà chủ yếu là phục vụ
cải tiến và thích nghi với điều kiện trong
nước, kể cả doanh nghiệp mới lập có số
kỹ sư chiếm tới 10% lao động mới được
lập ở Hưng Yên. Trên thực tế, một số
doanh nghiệp có học hỏi, sáng tạo thêm,
nhưng thành quả còn khiêm tốn, như điện
thoại Bphone của FPT có chất lượng chưa
được kiểm định rộng. Các cuộc điều tra
phối hợp của TCTK cùng CIEM và Đan
Mạch [4] cho thấy khá chi tiết thực trạng
và nguyên nhân trình độ công nghệ nói
chung của các doanh nghiệp (trong đó có
hơn 20% là các doanh nghiệp FDI) còn
khá thấp.
Bốn là, khu vực FDI phần lớn tận
dụng lao động có trình độ thấp, nhất là
lao động nữ, trẻ tay nghề thấp.
Các dự án FDI tuy có thu hút thêm
nhiều lao động trẻ, nhưng đòi hỏi tay
nghề thấp, nên năng suất lao động trong
các doanh nghiệp FDI không cao. Tính
đến cuối năm 2014 số lao động làm việc
trong các doanh nghiệp FDI đã lên tới 3,4
triệu lao động trong số 12,1 triệu người
làm việc trong các doanh nghiệp cả nước
(chiếm 28% lao động trong độ tuổi). Số
lao động nữ làm việc trong doanh nghiệp
FDI là 2,3 triệu, chiếm 68% lao động của
doanh nghiệp FDI, cao hơn bình quân lao
động nữ trong tất cả các ngành và chiến
hơn 40% lao động trong số gần 5,5 triệu
lao động nữ trong các doanh nghiệp cả
nước [6]. Như vậy các doanh nghiệp FDI
trong lĩnh vực dệt may, điện tử đã “tận
dụng” lao động nữ ở mức rất cao, nhưng
gần như không đào tạo hoặc chỉ qua các
lớp tập huấn ngắn ngày, không đáng kể.
37
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Đặc biệt với lao động nữ có thể mắc các
bệnh nghề nghiệp về mắt (chỉ điều khiển
máy qua kính hiển vi, ô nhiễm do tiếng ồn,
bụi, ...), nên sức khỏe bị giảm sút nhanh.
Phần lớn lao động nữ đã bị “rời khỏi”
doanh nghiệp ở độ tuổi 30-35 khi không
còn khả năng làm việc năng động nữa,
nhưng không biết chuyển sang ngành nghề
nào và cũng không có điều khoản nào trong
hợp đồng lao động bảo vệ họ.
Tầm nhìn mới
Điều cũng rất đáng lưu tâm là bốn
nhược điểm nêu trên sẽ ngày càng trở
nên nghiêm trọng, vì cạnh tranh thu hút
FDI trong khu vực và thế giới cũng rất
gay gắt. Những diễn biến mới của cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 và cạnh tranh
trong hội nhập và phát triển bền vững đòi
hỏi mỗi quốc gia phải có điều chỉnh thích
hợp, kể cả trong lĩnh vực thu hút và sử
dụng vốn FDI.
Trong ngắn hạn, kinh tế thế giới dù
trồi sụt khác nhau, nhưng chiều hướng
chung vẫn đang đà khôi phục không đều.
Khi tiến bước vào giai đoạn cạnh tranh
mới, năng suất lao động của các doanh
nghiệp FDI có xu hướng tăng chậm hơn
và giảm sút. Các dự báo đều cho thấy xu
hướng chung là phục hồi, mặc dù có giảm
sút ở Tây Âu, Trung Quốc.
Vì thế, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi
mới mô hình tăng trưởng sẽ đòi hỏi có
cách tiếp cận mới. Đó là nhu cầu cấp thiết
cả đối với Việt Nam, các doanh nghiệp
nội địa và bản thân các doanh nghiệp FDI
cũng như các nhà đầu tư mới. Thêm vào
đó, chính sách mới của Tổng thống Hoa
Kỳ muốn chuyển hướng đầu tư vào Mỹ,
làm cho nước Mỹ chiếm vị trí hàng đầu
thế giới không chỉ là khẩu hiệu, mà đang
diễn ra, càng làm cho cạnh tranh vốn FDI
thêm gay gắt.
38
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
Các phân tích dòng vốn FDI toàn cầu
trong 10 năm gần đây cho thấy, quy mô
dòng vốn tăng lên, nhưng dòng vốn vào
các nước đang phát triển lại giảm sút ít
nhiều. Tuy nhiên, vốn FDI cam kết và thực
hiện đều liên tục tăng ở Việt Nam. Đây có
phải là xu hướng dài hạn và Việt Nam có
cần điều chỉnh gì trong chính sách?
Có thể nêu ra mấy gợi ý như sau:
Một là, tăng cường nguồn vốn FDI về
số lượng khi nguồn tích lũy nội bộ không
tăng mạnh và do kinh tế tăng trưởng
chậm.
Vốn FDI vẫn cần thiết cho Việt Nam
trong giai đoạn 10 năm tới (ít ra tới 2025,
khi vẫn còn tình trạng cơ cấu “dân số
vàng”). Trên bình diện quốc gia, nếu tỷ lệ
đầu tư là 35% GDP được duy trì, nhưng
tích lũy nội địa chỉ khoảng 25-30% GDP
thì nhu cầu bổ sung nguồn bên ngoài cần
5-10% GDP, tức là trên $10-15 tỷ/năm.
Tỷ lệ vốn ngoại vẫn cần cao trên dưới
20% trong tổng vốn đầu tư, để đóng góp
phát triển các lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, hạ tầng. Một khi các
quan hệ hội nhập kinh tế khu vực và giao
lưu quốc tế được mở rộng, các hoạt động
“chuyển giá” bị ngăn chặn mạnh hơn thì
khả năng nguồn vốn FDI có chất lượng
hơn, dù tỷ lệ dự án FDI bị “lỗ” vẫn còn
nguy cơ lớn do chế độ hạch toán khác
nhau và tính liên thông của hạch toán
chưa cao. (Ngay ở Trung Quốc, có thời
gian dài 30-40% số doanh nghiệp FDI bị
lỗ). Cạnh tranh về thu hút vốn cũng là vấn
đề lớn khi thấy rằng: Trung Quốc năm
2016 thu hút $133 tỷ từ mức $136 tỷ của
năm 2015. Cũng năm 2016, Hong Kong
thu hút $62 tỷ, Đài Loan $18 tỷ, thậm chí
Hàn Quốc xưa nay ít dùng FDI cũng thu
hút $27 tỷ (năm 2015 chỉ chưa tới $24
tỷ) ...[9]. Sự cạnh tranh gay gắt này đòi
hỏi có những thay đổi trong quan điểm
và chính sách. Đó là nói về quy mô vốn
“in-flows”.
Hai là, quan trọng hơn là tăng cường
vốn FDI về chất lượng (trình độ khoa học-
công nghệ, mở rộng thị trường, đào tạo
lao động và phát huy tác động lan tỏa).
Trong điều kiện mới về cơ cấu lại nền
kinh tế, tăng năng suất lao động và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế thì nâng
cao chất lượng FDI thu hút và sử dụng
vốn có ý nghĩa rất quan trọng.
Có thể nêu ra mấy khía cạnh cần lưu ý:
- Về trình độ khoa học-công nghệ,
không những cần công nghệ cao, mà phải
liên tục đổi mới sáng tạo mới có thể cạnh
tranh được và mới có khả năng gắn kết với
thị trường không ngừng thay đổi;
- Về mở rộng thị trường, cần có thông
tin dự báo và đánh giá nhanh nhạy hơn để
tranh thu hút vốn FDI vào các hoạt động
đầu tư ngắn hạn, tận dụng các ưu đãi của
chính sách thì triển vọng mới lâu dài.
- Chú trọng các dự án FDI sử dụng và
đào tạo lao động với mức độ ngày càng
được nâng lên, có chế độ bảo hiểm để
chăm sóc người lao động dài hạn, kể cả
lao động nữ sau 35 tuổi.
- Vai trò của các viện nghiên cứu của
Việt Nam cũng cần được đề cao để có thể
nâng cao chất lượng các doanh nghiệp nội
địa nối kết, học hỏi và tiếp thu các dự án
FDI ngày càng tốt hơn.
Đó sẽ là định hướng để chuyển đổi
trong chính sách FDI.
Ba là, chính sách thu hút và sử dụng
vốn FDI cần có thay đổi mạnh mẽ.
Ý kiến được nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng, dù không phân biệt đối xử, nhưng
trên thế giới vẫn có sự ưu đãi hơn nhất
định đối với doanh nghiệp nội địa, đồng
thời cũng có những yêu cầu tập trung hơn
cho các doanh nghiệp FDI vào các dự án
có thị trường lớn, năng suất lao động cao,
39
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 01/2019
công nghệ cao, có độ lan tỏa rộng. Cũng
có thể từ chối các dự án FDI “tầm thường”
chỉ chiếm chỗ của lao động trong nước
và khai thác không công bằng tài nguyên
thiên nhiên, thậm chí gây ô nhiễm... Thêm
vào đó, cũng cần có những quy định về
chế độ hạch toán và giải pháp “liên thông”
để chống chuyển giá... Tất cả các yêu cầu
đó đòi hỏi các cơ quan quản lý cần sớm
nghiên cứu hoàn thiện Luật đầu tư nói
chung và các điều khoản liên quan đến
thu hút và sử dụng vốn FDI để nâng cao
hơn nữa hiệu quả của nguồn vốn này. Việc
hoàn thiện Luật quy hoạch và vai trò của
kinh tế vùng cũng tạo điều kiện để phát
huy hết lợi thế cạnh tranh của vốn FDI
thích ứng với từng vùng lãnh thổ và các
điều kiện đang thay đổi nhanh chóng.
Hy vọng là, từ thực tiễn thành công và
chưa thành công, Việt Nam sẽ có những
điều chỉnh thích ứng và linh hoạt để thu
được kết quả cao nhất./.
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Quang Thái (2010). Đầu tư công. Nhà xuất bản Tự
điển Bách Khoa. Hà Nội.
2. Nguyễn Quang Thái (2016). Trăn trở đổi mới (1986-2015). Nhà xuất bản Đại
học Kinh tế quốc dân. Hà Nội.
3. Tổng cục Hải quan (2016). Báo cáo xuất nhập khẩu hằng tháng và năm. Hà Nội.
4. Tổng cục Thống kê, CIEM (2014). Điều tra năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội.
5. Tổng Cục Thống kê (2016). Hiệu quả của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài giai đoạn 2005-2014. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội.
6. Tổng cục Thống kê (2016). Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giai
đoạn 2010-2014. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội.
7. Tổng Cục Thống kê (2017). Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ (2000-
2015). Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội.
8. Tổng cục Thống kê (2017). Niên giám Thống kê 2016. Nhà xuất bản Thống kê,
Hà Nội.
9. UNCTAD (2017). World Investment Report 2017. Investment and the Digital
Economy. United Nations. New York
10. WB-MPI (2016). Vietnam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng
và dân chủ. Hanoi-Washington,
11. Bùi Trinh (2017). Tăng trưởng GDP và FDI, Tạp chí Tia sáng, 12/2017
12.
lo-rac-cong-nghe/c/21984960.epi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- can_dieu_chinh_lon_chinh_sach_thu_hut_va_su_dung_fdi.pdf