Kết luận và kiến nghị
Dấu hiệu pháp lý của các tội danh nói
chung và dấu hiệu của hành vi đồng phạm
nói riêng đã được cơ quan lập pháp quy định
khá rõ ràng trong BLHS, vừa có tính bao
quát, nhưng cũng vừa có tính phân biệt giữa
các trường hợp tội phạm và không phải là tội
phạm, trường hợp tội này với tội kia, đồng
phạm hay không đồng phạm Tuy vậy, việc
nhận thức và vận dụng cùng một quy phạm
pháp luật hình sự vào giải quyết một vụ án,
có thể không tránh khỏi các quan điểm xung
đột. Ở những trường hợp này, chúng tôi cho
rằng, cần phải lưu tâm và đề cao giá trị của
chứng cứ chứng minh. Nếu không đủ và
không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội,
kết tội người bị tình nghi thì phải áp dụng
triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội, có lợi
cho họ - nguyên tắc mới được quy định tại
Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đây cũng là một biện pháp phòng ngừa oan
sai thiết thực trong hoạt động tố tụng, đáp
ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà nước và
đòi hỏi của xã hội đối với công tác điều tra,
truy tố, xét xử trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền.
Đối với việc xác định đồng phạm
liên quan đến trường hợp tội phạm do pháp
nhân thực hiện, đây là vấn đề mới, cần được
nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận
các quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi
năm 2017, và cần được liên ngành tư pháp
trung ương hướng dẫn thống nhất. Theo quan
điểm của chúng tôi, cần thừa nhận trường
hợp đồng phạm giữa pháp nhân thương mại
với pháp nhân thương mại, giữa cá nhân với
pháp nhân thương mại. Việc xác định đồng
phạm đối với trường hợp pháp nhân phạm
tội sẽ căn cứ vào hành vi và dấu hiệu chủ
quan của những con người cụ thể đại diện
cho pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực
hiện các hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành
của pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp
nhân, có như vậy, việc áp dụng pháp luật
hình sự mới thực sự đảm bảo công bằng,
bình đẳng giữa các trường hợp phạm tội của
cá nhân và pháp nhân thương mại
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cần nhận thức thống nhất về dấu hiệu pháp lý của đồng phạm trong thực tiễn áp dụng pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Trong thực tế, mỗi tội phạm cố ý có thể do một người thực hiện,
nhưng cũng có thể do nhiều người cùng cố ý thực hiện. Trường hợp
tội phạm do một người thực hiện, pháp luật hình sự Việt Nam gọi
là “phạm tội riêng lẻ” (hay đơn lẻ), trường hợp nhiều người cùng
cố ý thực hiện một tội phạm được gọi là “đồng phạm”. Nhận thức
đúng đắn các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm là tiền đề xác định
trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, qua đó, đảm bảo cho hoạt
động của các cơ quan tố tụng xác định được đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Dưới góc nhìn
từ hoạt động thực tiễn, bài viết khái quát lịch sử lập pháp về khái
niệm đồng phạm, chỉ ra các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm được
lý luận và thực tiễn xét xử thừa nhận, từ đó vận dụng vào giải quyết
một tình huống pháp lý có sự xung đột quan điểm giữa các cơ quan
tố tụng và đưa ra khuyến nghị khi áp dụng pháp luật.
Nguyễn Minh Hải*
Phạm Ngọc Cao**
* ThS. Tòa án quân sự Khu vực 1 - Quân khu 2.
* ThS. Ban Pháp chế - Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng.
Abstract
Each crime, in reality, can be intentionally done by one person,
but it can also be done by a group of people. In cases where a
crime is conducted by one person, the Vietnamese criminal law
is called "individual offense" (or single case), in cases a group of
people conduct the same offense known as "accomplice". Proper
recognition of the legal signs of the offender is the premise of
determining the criminal liability in the offender, thereby it is to
ensure the operation of the prosecuting authorities to determine
the accurate crimer and his crime, the law to be applied and also
avoid misconduct, miss the crimer. From a practical aspects, this
article provides in brief the legislative history of the concept of co-
signer, showing the legal signs of the accomplice's theoretical and
practical adjudication, identifying a legal situation that conflicts
with the views of the judicial authorities and provides relevant
recommendations.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: khái niệm đồng phạm; dấu
hiệu của đồng phạm; dấu hiệu pháp lý
trong đồng phạm; dấu hiệu pháp lý của
đồng phạm; quy định về đồng phạm.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 03/08/2017
Biên tập : 11/09/2017
Duyệt bài : 25/09/2017
Article Infomation:
Keywords: concept of accomplice;
signal of accomplice; legal signs in the
offender; legal sign of the accomplice;
legal provisions on accomplice.
Article History:
Received : 03 Aug. 2017
Edited : 11 Sep. 2017
Approved : 25 Sep. 2017
CẦN NHẬN THỨC THỐNG NHẤT VỀ DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA ĐỒNG PHẠM
TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 9(361) T5/2018
Đồng phạm là trường hợp phạm tội
đặc biệt so với các trường hợp phạm tội riêng
lẻ. Khái niệm đồng phạm được sử dụng lần
đầu tiên trong Bộ luật Hình sự (BLHS) năm
1985. Trong BLHS năm 2015 đã được sửa
đổi năm 2017, khái niệm đồng phạm được
quy định như sau: “Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện
một tội phạm” (khoản 1 Điều 17).
Dấu hiệu pháp lý trong đồng phạm
được BLHS hiện hành quy định khá rõ ràng,
ít có xung đột quan điểm trong khi nghiên
cứu, giảng dạy về luật hình sự. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc áp dụng chế định này đôi
khi lại có những quan điểm trái chiều giữa
các cơ quan tố tụng. BLHS có những sửa
đổi, bổ sung lớn cả về chính sách hình sự
lẫn kỹ thuật lập pháp, trong đó có quy định
trách nhiệm hình sự (TNHS) của pháp nhân
thương mại. Vậy, có đặt ra vấn đề đồng phạm
ở các tội do pháp nhân thương mại thực hiện
hay không? nếu có thì thực hiện theo cơ sở,
nguyên tắc nào? là vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu.
1. Khái quát lịch sử lập pháp về chế định
đồng phạm
Trong luật hình sự Việt Nam, chế định
đồng phạm đóng vai trò là cơ sở pháp lý để
giải quyết vấn đề TNHS trong đồng phạm,
trong đó, “khái niệm pháp lý về đồng phạm”
được coi là “hạt nhân” của chế định này. Báo
cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân
năm 1963 có nêu “Coi là cộng phạm nếu hai
hoặc nhiều người cùng chung ý chí và hành
động, nghĩa là hoặc tổ chức, hoặc xúi giục,
hoặc giúp sức, hoặc trực tiếp cùng tham gia
tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội”1.
Đây được coi là cơ sở tiền đề để xây dựng
và pháp điển hóa chế định đồng phạm trong
các BLHS sau này.
Năm 1985, Quốc hội ban hành BLHS
đầu tiên của nước ta - là lần pháp điển hóa
pháp luật hình sự thứ nhất. Khoản 1 Điều 17
BLHS năm 1985 quy định: “Hai hoặc nhiều
1 Tòa án nhân dân tối cao, Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, 1975, tr. 30, trích dẫn trong: Lê Cảm (chủ biên), “Trách
nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự”, 2005, tr.134 - 135.
người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là
đồng phạm”. Việc xây dựng được khái niệm
này là một thành tựu lớn trong kỹ thuật lập
pháp hình sự lúc bấy giờ, khái niệm này có
ý nghĩa quan trọng trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Dưới góc độ lý luận, nó đáp ứng được
yêu cầu của công tác nghiên cứu, giảng dạy,
đào tạo cán bộ và sinh viên luật; dưới góc
độ thực tiễn, giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng nhận thức thống nhất khi truy cứu
TNHS các trường hợp tội phạm do nhiều
người cùng thực hiện, tránh được tình trạng
bất đồng quan điểm có thể gây oan sai, sót,
lọt tội phạm.
Trong lần pháp điển hóa pháp luật
hình sự lần thứ hai - bằng việc ban hành
BLHS năm 1999, cơ quan lập pháp tiếp tục
kế thừa quy định về đồng phạm của BLHS
năm 1985, đồng thời tách quy định về quyết
định hình phạt trong đồng phạm để xây dựng
thành một điều độc lập (Điều 53 - BLHS
năm 1999). So sánh về kỹ thuật lập pháp
trong cách quy định về đồng phạm, chúng
tôi nhận thấy, quy định của BLHS năm 1999
khoa học, chặt chẽ hơn so với BLHS năm
1985, bởi lẽ: quy định về quyết định hình
phạt thuộc về căn cứ, nguyên tắc quyết định
hình phạt trong đồng phạm, chứ nó không
thuộc nội dung của khái niệm đồng phạm.
Khoản 1 Điều 20 BLHS 1999 quy định:
“Đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Về
bản chất, khái niệm pháp lý này giống như
khái niệm đồng phạm quy định tại khoản 1
Điều 17 BLHS năm 1985, chỉ khác ở cách
diễn đạt. Cách diễn đạt khái niệm đồng phạm
tại BLHS 1999 khắc phục được tình trạng
trùng lặp về từ ngữ, cụ thể: BLHS năm 1985
quy định “hai hoặc nhiều người” là trùng lặp
vì “nhiều người” đã bao gồm cả trường hợp
“hai người”.
Tại lần pháp điển hóa pháp luật hình
sự lần thứ ba - với việc ban hành BLHS
năm 2015 (Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 9(361) T5/2018
sung bởi Luật số 12/2017/QH14, có hiệu
lực thi hành từ 01/01/2018), các quy định
về đồng phạm được cơ quan lập pháp điều
chỉnh theo hướng luật hóa một số nội dung
đã được khoa học luật hình sự và thực tiễn
xét xử thừa nhận, sửa đổi về quyết định
hình phạt đối với người đồng phạm là người
phạm tội lần đầu và là người giúp sức, có
vai trò không đáng kể trong vụ án đồng
phạm; bổ sung nguyên tắc người đồng phạm
không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá
của người thực hành. Khi quy định về khái
niệm đồng phạm, BLHS năm 2015 vẫn giữ
nguyên như quy định của BLHS năm 1999,
điều đó thể hiện rằng, dấu hiệu pháp lý của
đồng phạm trong quy định của BLHS năm
2015 không khác so với quy định của BLHS
năm 1999.
Như vậy, lịch sử lập pháp về chế định
đồng phạm cho thấy, khái niệm pháp lý về
đồng phạm chính thức xuất hiện trong đời
sống pháp luật nước ta được hơn 30 năm
qua, được đúc kết từ thực tiễn xét xử của
ngành Tòa án nhân dân và được pháp điển
hóa lần thứ nhất vào năm 1985, lần thứ hai
vào năm 1999, lần thứ ba vào năm 2015,
qua mỗi lần đều được sửa đổi, bổ sung, điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Chúng tôi
cho rằng, khái niệm đồng phạm như hiện
nay tiếp tục đáp ứng được yêu cầu của công
tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
2. Dấu hiệu pháp lý của đồng phạm
Dấu hiệu pháp lý của đồng phạm là
vấn đề có sự thống nhất cao trong lý luận
khoa học luật hình sự cũng như trong thực
tiễn xét xử, bao gồm: Dấu hiệu khách quan
và Dấu hiệu chủ quan. Trong đó, dấu hiệu
khách quan bao gồm cả dấu hiệu chủ thể của
tội phạm. Theo chúng tôi, dấu hiệu chủ thể
của tội phạm có tính độc lập tương đối, nhất
là khi BLHS năm 2015 đã quy định TNHS
của pháp nhân thương mại, do vậy, cần xem
2 Về dấu hiệu pháp lý của đồng phạm, xem thêm: Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - tập
1, tr.175 và các trang tiếp theo; Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần
chung, tr. 251 và tiếp theo; Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung), tr.457
và tiếp theo.
xét, nghiên cứu dấu hiệu này một cách độc
lập, qua đó có góc nhìn toàn diện, thấu đáo
khi xem xét TNHS của cá nhân và pháp
nhân trong đồng phạm. Các dấu hiệu pháp
lý của đồng phạm cần được xem xét, đề cập
theo chúng tôi gồm: (1) Dấu hiệu về chủ thể;
(2) Dấu hiệu khách quan; (3) Dấu hiệu chủ
quan2.
(1) Dấu hiệu về chủ thể: Có từ hai
người trở lên có đủ điều kiện là chủ thể
của tội phạm. Để có thể được coi là đồng
phạm, điều kiện đầu tiên thuộc về chủ thể là
phải có sự tham gia của hai người trở lên và
những người này có đủ điều kiện là chủ thể
của tội phạm. Đây là dấu hiệu bắt buộc, nếu
thiếu dấu hiệu về số lượng người tham gia
thực hiện tội phạm thì sẽ không đặt ra vấn
đề đồng phạm, mà chỉ là trường hợp phạm
tội riêng lẻ. Đủ điều kiện về chủ thể của tội
phạm nghĩa là đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự theo luật định (Điều 12 BLHS năm 1999
và BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017), và
không ở trong tình trạng không có năng lực
TNHS (Điều 13 BLHS năm 1999 và Điều
21 BLHS năm 2015).
Liên quan đến chủ thể của tội phạm
trong đồng phạm có hai vấn đề lưu ý: Một
là, về tuổi chịu TNHS, BLHS năm 2015 sửa
đổi năm 2017 quy định theo hướng nhân đạo
trong chính sách xử lý hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội so với BLHS 1999.
Theo đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại các Điều 123, 134, 141, 142, 143,
144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178,
248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 BLHS; nếu chuẩn
bị phạm tội quy định tại Điều 123 (Tội giết
người), Điều 168 (Tội cướp tài sản) thì mới
phải chịu TNHS. Do vậy, trong giai đoạn
hiện hay, khi xem xét TNHS của người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong các vụ án hình
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 9(361) T5/2018
sự nói chung, vụ án đồng phạm nói riêng, các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần
áp dụng các quy định có lợi của BLHS năm
2015 sửa đổi năm 2017 đối với họ.
Hai là, về vấn đề đồng phạm của pháp
nhân thương mại: BLHS năm 2015 được
sửa đổi năm 2017 quy định TNHS của pháp
nhân thương mại với 33 tội danh được liệt kê
tại Điều 76. Khi Bộ luật có hiệu lực thi hành,
một vấn đề đặt ra là có hay không có đồng
phạm giữa pháp nhân với với pháp nhân?
giữa cá nhân với pháp nhân? Vấn đề này tuy
không được cơ quan lập pháp quy định cụ
thể trong BLHS nhưng theo chúng tôi, trước
hết, về điều kiện chủ thể của tội phạm, pháp
nhân thương mại đó phải là tổ chức được
thành lập hợp pháp theo quy định của pháp
luật Việt Nam, có điều kiện, tiêu chí cụ thể3;
và về nguyên tắc, khi thỏa mãn các dấu hiệu
khách quan và chủ quan trong đồng phạm,
thì tất cả các hành vi triển khai thực hiện
nhiệm vụ theo sự phân công của pháp nhân,
hành vi giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết nhằm
hỗ trợ cho pháp nhân thương mại thực hiện
tội phạm đều được coi là đồng phạm. Ở đây
có thể sẽ xuất hiện trường hợp hành vi của
cá nhân, pháp nhân này giúp đỡ cho pháp
nhân khác thực hiện tội phạm thỏa mãn một
cấu thành tội phạm (CTTP) của một tội danh
độc lập (tội phạm khác với tội mà pháp nhân
đang bị xử lý). Theo chúng tôi, nếu hành vi
của cá nhân, pháp nhân này thỏa mãn CTTP
của tội danh độc lập và tội danh đó nặng hơn
tội mà pháp nhân khác đã phạm, thì sẽ xử
lý thu hút về tội danh nặng hơn, mà không
xác định đồng phạm với pháp nhân thương
mại. Trường hợp không thỏa mãn CTTP của
tội danh độc lập thì cần phải xác định đồng
phạm với pháp nhân thương mại đang bị xử
lý. Tuy vậy, để áp dụng trên thực tế, vấn đề
này cần có sự nghiên cứu, đánh giá thêm về
mặt lý luận, và phải được liên ngành tư pháp
Trung ương hướng dẫn thống nhất.
3 Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: 1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi
nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. 2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh
tế khác. 3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này,
Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.
(2) Dấu hiệu khách quan: Các đồng
phạm cùng thực hiện một tội phạm. Cùng
thực hiện một tội phạm có nghĩa là, tất cả
những người đồng phạm phải có hành vi
tham gia vào việc thực hiện một tội phạm
(do cố ý). Cùng thực hiện tội phạm còn được
hiểu là cùng chung hành động - hành vi của
mỗi người đều nhằm thực hiện tội phạm
hoặc góp phần thực hiện tội phạm. Hành vi
của người này hỗ trợ, bổ sung và là điều kiện
cho hành vi của người khác, có ảnh hưởng
tác động đến hành vi đó, làm cho nó có hiệu
quả hơn.
Hành vi tham gia thực hiện một tội
phạm có thể là: hành vi trực tiếp thực hiện
tội phạm; hành vi tổ chức thực hiện tội
phạm; hành vi xúi giục thực hiện tội phạm;
hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Nếu
không có một trong bốn loại hành vi này thì
không được coi là cùng thực hiện tội phạm,
và do vậy cũng không phải là đồng phạm.
Lý luận và thực tiễn cho thấy, trong vụ đồng
phạm, có thể có tất cả bốn loại hành vi nêu
trên, nhưng cũng có thể chỉ có một loại hành
vi. Một người đồng phạm có thể tham gia
thực hiện một loại hành vi nhưng cũng có
thể tham gia thực hiện nhiều loại hành vi
khác nhau. Hành vi của mỗi người đồng
phạm có mối quan hệ nhân quả đối với hậu
quả chung của tội phạm, hậu quả chung của
tội phạm là kết quả hoạt động chung của tất
cả những người cùng tham gia thực hiện tội
phạm đem lại. Hành vi của người thực hành
là nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu
quả chung, còn hành vi của những người
khác thông qua hành vi của người thực hành
mà gây ra hậu quả.
(3) Dấu hiệu chủ quan: Tất cả những
người đồng phạm đều có lỗi cố ý (cùng cố ý)
khi thực hiện tội phạm, “sự cùng cố ý phạm
tội làm cho ý chí của những người đồng
phạm được thống nhất với nhau và hành
động phạm tội của mỗi người đều thống
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 9(361) T5/2018
nhất trong sự chi phối chung của sự cùng cố
ý”4. Sự cùng cố ý được thể hiện trên hai mặt
lý trí và ý chí như sau:
- Về lý trí: Dấu hiệu này phản ánh khả
năng nhận thức của những người phạm tội
về tính chất tội phạm của hành vi của mình
và của những người đồng phạm khác. Mỗi
người đồng phạm đều biết hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người
khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội
cùng với mình. Biết hành vi nguy hiểm cho
xã hội nghĩa là mỗi người đồng phạm đều
nhận thức được rõ hành vi của mình và của
người khác có tính chất nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đó cũng như hậu quả
chung của tội phạm mà họ tham gia thực
hiện - nhận thức được tính chất tội phạm của
hành vi.
- Về ý chí: Dấu hiệu này phản ánh
ý muốn (mong muốn), nguyện vọng của
những người thực hiện tội phạm đối với
hành vi của những người đồng phạm khác
và đối với hậu quả chung của tội phạm. Dấu
hiệu này đòi hỏi những người đồng phạm
cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để
mặc cho hậu quả phát sinh. Những trường
hợp không mong muốn có sự liên kết hành
vi để cùng gây ra hậu quả nguy hiểm cho
xã hội thì không phải là đồng phạm. Trong
thực tiễn, việc phân biệt rạch ròi các dấu
hiệu thuộc về lý trí với các dấu hiệu thuộc
về ý chí trong dấu hiệu chủ quan của đồng
phạm chỉ là tương đối. Đôi khi, với những
biểu hiện của lý trí như vậy không cần phải
làm rõ thêm dấu hiệu của ý chí, chẳng hạn
trong trường hợp mỗi người phạm tội đều
thấy trước tính tất yếu gây ra hậu quả cho
xã hội của hành vi mà mình đã thực hiện,
cũng như hành vi của người khác nhưng họ
vẫn thực hiện, thì đương nhiên tất cả những
người này cũng đều có chung một ý chí -
mong muốn cho hậu quả chung của tội phạm
xảy ra.
4 Xem: Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam; tlđd, tr. 255.
Ngoài ra, ở những tội có dấu hiệu
mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP, để được coi là đồng phạm, tất
cả những người đồng phạm đều có chung
mục đích mà CTTP phản ánh, nếu người
nào không có dấu hiệu này thì không phải
là đồng phạm mà chỉ là trường hợp phạm tội
riêng lẻ.
Một vấn đề đặt ra là, việc xác định
dấu hiệu chủ quan khi xem xét TNHS trong
đồng phạm giữa pháp nhân thương mại
với pháp nhân thương mại, giữa pháp nhân
thương mại với cá nhân được dựa trên cơ
sở nào? Trước và trong quá trình xây dựng
BLHS năm 2015, đã có nhiều ý kiến bàn
luận về vấn đề xác định lỗi của pháp nhân,
bởi lẽ, quan niệm truyền thống được thừa
nhận chung trong khoa học luật hình sự,
được thực tiễn xét xử từ trước đến nay thừa
nhận, đó là: lỗi trong luật hình sự là lỗi của
cá nhân, lỗi của con người cụ thể khi thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vậy, khi
quy định TNHS của pháp nhân thương mại
thì xác định lỗi của pháp nhân như thế nào?
Pháp nhân là một thực thể trừu tượng, là một
chủ thể pháp lý vô hình, không thể tự mình
thực hiện hành vi, và cũng không có ý chí và
lý trí như thể nhân (con người cụ thể), phải
chăng khi đặt vấn đề TNHS của pháp nhân
thương mại thì không cần xem xét đến yếu
tố lỗi, mà chỉ cần căn cứ vào hành vi gây
thiệt hại?
Chúng tôi nhận thấy, khi quy định về
khái niệm tội phạm, cả BLHS năm 1985,
BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 đều
khẳng định tội phạm là hành vi có lỗi Tại
khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy định
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, được quy định trong BLHS, do người
có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,”.
Điều này thể hiện rằng, nguyên tắc có lỗi là
nguyên tắc nhất quán trong chính sách pháp
luật hình sự của Việt Nam. Khi tiến hành tố
tụng, cơ quan có thẩm quyền bắt buộc phải
xác định và chứng minh được lỗi của chủ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 9(361) T5/2018
thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
cho dù họ là thể nhân (cá nhân) hay pháp
nhân thương mại, nếu không có lỗi thì cũng
không có tội phạm. Ngoài ra, chúng tôi cho
rằng, khi chính sách hình sự đã thay đổi, bổ
sung - với việc quy định TNHS của pháp
nhân thương mại trong BLHS năm 2015,
thì lý luận của khoa học luật hình sự cũng
buộc phải thay đổi theo, bởi suy cho cùng,
một nhiệm vụ quan trọng của khoa học luật
hình sự là nghiên cứu, làm sáng tỏ các vấn
đề lý luận của luật hình sự. Do vậy, kể từ khi
BLHS năm 2015 được ban hành, quan niệm
về lỗi của khoa học luật hình sự cũng thay
đổi - tức là phải thừa nhận lỗi trong luật hình
sự có thể là lỗi của cá nhân hoặc lỗi của pháp
nhân thương mại, đó là điều hiển nhiên và
tất yếu trong quá trình phát triển của khoa
học luật hình sự.
Trên cơ sở nhận thức đó, việc xác định
lỗi của pháp nhân thương mại khi thực hiện
hành vi mà BLHS quy định là tội phạm nhất
định phải tiếp cận theo một cách khác biệt
so với trường hợp xác định lỗi của cá nhân.
Chúng tôi đồng tình với PGS. TS. Phạm
Hồng Hải khi nhận định rằng, “mặc dù là
thực thể trừu tượng nhưng pháp nhân được
con người lập ra và hoạt động của nó (hành
vi khách quan) chỉ có thể thực hiện được
thông qua những con người cụ thể. Những
con người đó hoặc là chỉ huy, lãnh đạo hoặc
là đại diện của pháp nhân. Khi những người
này thực hiện nghĩa vụ hoặc nhiệm vụ của
pháp nhân thì ý chí và hành vi của họ được
coi là ý chí và hành vi của pháp nhân”5.
Nghiên cứu Điều 75 BLHS năm 2015 quy
định về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự
của pháp nhân thương mại, có đề cập đến
03 điều kiện: hành vi phạm tội được thực
hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích
của pháp nhân thương mại; hành vi phạm
tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành
hoặc chấp thuận của pháp nhân thương
mại. Theo chúng tôi, các điều kiện này vừa
là cơ sở để xác định hành vi nào được coi là
5 Xem: Phạm Hồng Hải (1999), Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, Tạp chí Luật học số 6/1999, tr.16.
hành vi của pháp nhân, đồng thời còn là cơ
sở để xác định lỗi của pháp nhân, từ đó làm
cơ sở, căn cứ để buộc tội pháp nhân thương
mại. Sự thống nhất lý trí và ý chí của những
người nhân danh pháp nhân, đại diện cho
pháp nhân thực hiện hành vi mang lại lợi ích
cho pháp nhân sẽ hợp thành lý trí và ý chí
của pháp nhân thương mại.
Vậy, có thể đưa ra nhận định rằng,
việc xác định hành vi, dấu hiệu chủ quan của
pháp nhân thương mại sẽ căn cứ vào hành vi
và dấu hiệu chủ quan của những con người
cụ thể đại diện cho pháp nhân, nhân danh
pháp nhân thực hiện các hành vi theo sự chỉ
đạo, điều hành của pháp nhân, mang lại lợi
ích cho pháp nhân. Do vậy, khi xem xét dấu
hiệu chủ quan trong đồng phạm giữa pháp
nhân với pháp nhân, giữa cá nhân với pháp
nhân, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần căn
cứ vào dấu hiệu chủ quan của những con
người cụ thể, đại diện cho pháp nhân, nhân
danh pháp nhân, và giải quyết theo nguyên
tắc thông thường như trường hợp đồng phạm
giữa cá nhân với cá nhân.
3. Tình huống pháp lý và các quan điểm
xử lý của cơ quan tố tụng
Với các dấu hiệu pháp lý nêu trên cho
thấy, cơ quan lập pháp đã xây dựng khá rõ
ràng về dấu hiệu pháp lý của đồng phạm, tạo
thuận lợi cho việc nhận thức và áp dụng pháp
luật được thống nhất. Đối với dấu hiệu pháp
lý của đồng phạm ở trường hợp phạm tội của
pháp nhân vừa được xác định theo nguyên tắc
chung, nhưng cũng có phương pháp xác định
đặc thù. Tuy nhiên đây là vấn đề mới, cần
được nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm về mặt lý
luận một số quy định của BLHS năm 2015. Ở
đây, chúng tôi xin nêu một vụ án có sự xung
đột quan điểm giữa các cơ quan tố tụng trong
việc xác định đồng phạm đối với trường hợp
phạm tội của cá nhân:
Nội dung vụ án: Sau khi biết trong
trạm phát sóng của một chi nhánh viễn
thông Viettel có máy phát điện, A nói cho
B biết, hai người hẹn nhau 22 giờ ngày hôm
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 9(361) T5/2018
sau có mặt tại trạm phát sóng để lấy trộm, B
nói sẽ rủ thêm C cùng đi. Tối hôm sau, B rủ
C và nói: “Tí nữa A sang rồi 03 người cùng
đi lấy máy phát điện”. Tuy nhiên, sau đó B,
C không đợi A đi cùng mà cả 02 đi trước
lên trạm phát sóng, mang theo 02 cờ lê, 01
kìm và 01 thanh gỗ. Đến nơi khoảng 20 giờ,
C đứng dưới cảnh giới còn B lên trạm phát
sóng dùng kìm, cờ lê phá khoá cửa nhà trạm.
Không phá được, B bảo C về nhà lấy cái gì
để phá khoá, C về nhà lấy 01 thanh sắt đưa
cho B, rồi tiếp tục đứng dưới cảnh giới. Sau
đó B, C lấy được 01 máy phát điện mang về
nhà C cất giấu.
Do uống rượu say nên A ngủ ở nhà tới
gần 22 giờ mới dậy, khi sang nhà C thì hai
người vừa khiêng máy phát điện về. A hỏi:
“Chúng mày lấy được máy phát điện này
à?” C và B trả lời: “Ừ”; C nói: “Dưới đó còn
nhiều bình ắc quy lắm”. A mượn B 02 cờ lê,
rồi một mình đi lên trạm phát sóng, dùng cờ
lê tháo ốc vít lấy trộm được 02 bình ắc quy.
B và C sau khi lấy được máy phát điện ai về
nhà nấy đi ngủ và không biết A có lấy được
gì hay không. 02 bình ắc quy trộm cắp được,
A bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Tài sản bị
chiếm đoạt qua định giá xác định: máy phát
điện trị giá 49.000.000đ, 02 bình ác quy trị
giá 9.000.000đ.
A và C bị bắt giữ còn B bỏ trốn nên cơ
quan tố tụng đã tách vụ án để điều tra, xử lý
ở vụ án khác. Quá trình điều tra xác định: từ
khi B và C lấy được máy phát điện cho đến
khi vụ việc bị phát hiện (khoảng 02 tháng),
việc cất giấu, xử lý máy phát điện như thế
nào A không được bàn bạc và cũng không
hay biết.
Quan điểm xử lý của các cơ quan tố
tụng: Viện kiểm sát truy tố A và C về tội
“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138
BLHS về hành vi chiếm đoạt máy phát điện
(đồng phạm); A còn bị truy tố về tội “Phá
huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc
gia” theo khoản 1 Điều 231 BLHS (chiếm
6 Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền thì bình ắc quy là 01 bộ phận không thể tách rời để đảm bảo hoạt động
bình thường của trạm phát sóng Viettel; và trạm phát sóng của Viettel thuộc danh mục công trình quan trọng về an ninh
quốc gia.
đoạt 02 bình ắc quy).
Trước cơ quan điều tra (CQĐT), A
khai nhận mình là người rủ rê B thực hiện
việc chiếm đoạt máy phát điện. Vì vậy, Viện
kiểm sát xác định A là người khởi xướng, rủ
rê, lôi kéo các đối tượng đi trộm cắp, B tiếp
nhận ý chí từ A, rủ rê C cùng phạm tội. Về
vai trò của từng người, B và C là người thực
hành; A là người khởi xướng nên phải chịu
trách nhiệm chính trong vụ án. Quá trình
thẩm vấn công khai tại phiên toà, A thay đổi
lời khai: A biết trong trạm phát sóng có máy
phát điện nên nói với B, nghe thấy vậy B rủ
rê A đi lấy trộm máy phát điện, đồng thời B
nói sẽ rủ thêm C cùng đi. B mới là người rủ
rê, khởi xướng việc lấy trộm máy phát điện.
Đối với C: Trước CQĐT và tại phiên tòa có
lời khai thống nhất: C chỉ biết qua lời nói
của B là A sẽ cùng đi lấy trộm, nhưng thực
tế A có đi hay không thì C không biết. Giữa
A và C không có sự trao đổi, bàn bạc nào
về việc đi lấy máy phát điện (B bỏ trốn nên
không có lời khai trong hồ sơ vụ án).
Đối với tội “Phá hủy công trình quan
trọng về an ninh quốc gia” của A (do chiếm
đoạt 02 bình ắc quy6), giữa các cơ quan tố
tụng đều có sự thống nhất, ở đây chỉ tập
trung vào vấn đề có hay không có đồng
phạm đối với tội “Trộm cắp tài sản” (chiếm
đoạt máy phát điện) của A và C.
Không đồng tình với quan điểm truy
tố của Viện kiểm sát về tội danh đối với A.
Tòa án cho rằng, không đủ căn cứ để kết
luận A đồng phạm với C về tội “Trộm cắp tài
sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS; mà chỉ
đủ cơ sở xét xử A về tội “Phá hủy công trình
quan trọng về an ninh quốc gia” theo khoản
1 Điều 231 BLHS.
Quan điểm bảo vệ cáo trạng cho rằng,
tại phiên toà A phủ nhận lời khai trước
CQĐT rằng mình không phải là người khởi
xướng, rủ rê, mà B mới là người khởi xướng,
rủ rê A thực hiện tội phạm, điều này không
ảnh hưởng tới việc xác định tội danh của A.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 9(361) T5/2018
Bởi lẽ, thực tế thì giữa B và A có sự bàn bạc
về việc đi lấy máy phát điện từ ngày hôm
trước, thể hiện qua việc: Hẹn nhau 22 giờ
ngày hôm sau có mặt tại trạm phát sóng; khi
đi B sẽ rủ C đi cùng, và B cũng nói với C lát
nữa A cùng đi lấy máy phát điện. Như vậy,
A và C đều biết người kia sẽ tham gia thực
hiện việc lấy máy phát điện với mình. Đến
hẹn 22 giờ A tới nhà C, nhưng tới nơi thì B,
C đã lấy được máy phát điện mang về. Điều
đó chứng tỏ trong ý thức chủ quan của mình,
A muốn thực hiện việc lấy máy phát điện
như đã bàn bạc từ trước với B. Việc B và C
không bàn bạc, chia phần khai thác, sử dụng
chiếc máy phát điện chiếm đoạt được cho A
là do B, C “bội ước”, và điều này không làm
thay đổi bản chất pháp lý của hành vi mà A
đã thực hiện trước đó: Cùng bàn bạc, lên kế
hoạch chiếm đoạt máy phát điện với B, đi
đến điểm hẹn để thực hiện tội phạm.
Trong vụ án này, khó có cơ sở để xác
định được giữa B và A ai là người đầu tiên
khởi xướng ra ý định phạm tội (do không có
lời khai của B), tuy nhiên có đủ cơ sở để xác
định có sự bàn bạc trước đó giữa B và A về
việc lấy trộm máy phát điện, thể hiện qua lời
khai của A và lời khai của C. Như vậy, xét
về ý định, kế hoạch phạm tội thì B và A có
trước (cùng là người chủ mưu, khởi xướng
ra ý định phạm tội), C là người tiếp nhận
ý định và tham gia vào việc thực hiện tội
phạm đã được B và A dự kiến trước. Từ việc
A đi đến điểm đã hẹn để thực hiện tội phạm,
và tội phạm (nằm trong kế hoạch đã bàn của
B và A) đã được những người thực hành là
B, C thực hiện xong. Vì vậy, khi tội phạm
đã được thực hiện, cho dù bản thân không
được hưởng lợi ích từ tài sản đã chiếm
đoạt được, thì A vẫn phải chịu TNHS về tội
phạm chung.
Quan điểm của Tòa án: Do B bỏ trốn
nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án, bản
thân C cũng không trực tiếp có mặt khi B và
A bàn bạc đi lấy trộm máy phát điện; C chỉ
được B nói rằng A sẽ cùng đi, nhưng A có
đi hay không thì C không biết (thực tế thì
7 Xem: Trường ĐH. Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật, tài liệu đã dẫn, tr. 273.
A không cùng đi lấy trộm máy phát điện).
Trước CQĐT chỉ có lời khai nhận tội duy
nhất của A rằng mình là người chủ mưu,
khởi xướng ra ý định phạm tội, tại phiên
tòa A thay đổi lời khai rằng B mới là người
khởi xướng, chủ mưu, đây cũng chỉ là lời
khai duy nhất của A để xác định người khởi
xướng ra việc thực hiện tội phạm trong vụ
án. Bởi vậy, chứng cứ trực tiếp và duy nhất
là lời khai của A không đủ cơ sở để xác định
được giữa B và A ai là người chủ mưu, khởi
xướng ra việc chiếm đoạt máy phát điện.
Khi không xác định được ai là người khởi
xướng, chủ mưu nên không thể đánh đồng
cả B và A đều đóng vai trò như sau - cùng
là người chủ mưu, khởi xướng ra việc thực
hiện tội phạm - điều này là chưa thuyết phục,
có tính áp đặt, quy chụp, dễ dẫn đến oan sai.
Cần hết sức cẩn trọng khi kết tội A về hành
vi chiếm đoạt chiếc máy phát điện, nhất là
trong giai đoạn hiện nay khi mà xã hội, cử
tri cả nước và các Đại biểu Quốc hội đang
rất quan tâm đến các vụ án oan sai, những
vụ bị cáo phản cung chối tội, kêu oan, chứng
cứ 50 - 50.
4. Vận dụng lý luận của khoa học luật
hình sự để xác định đồng phạm
Đối với vụ án trên, chúng tôi đồng
tình với quan điểm của Tòa án đã thận trọng
khi xem xét tội danh của A đối với hành vi
chiếm đoạt chiếc máy phát điện. Theo chúng
tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự, việc
xác định được ai là người khởi xướng ra
việc thực hiện tội phạm trong vụ án này có ý
nghĩa quan trọng, nó giải quyết được vấn đề
thứ nhất - dấu hiệu khách quan trong đồng
phạm. Việc xác định các giai đoạn thực hiện
tội phạm trong đồng phạm phải căn cứ vào
hành vi của người thực hành. Người thực
hành phạm tội ở giai đoạn nào thì những
người đồng phạm phải chịu TNHS ở giai
đoạn đó7. Là một dạng hành vi thực hiện tội
phạm trong đồng phạm, hành vi của người
tổ chức cũng được xem xét thông qua hành
vi của người thực hành. Nếu hành vi phạm
tội của người thực hành đã hoàn thành, thì
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 9(361) T5/2018
hành vi của người tổ chức cũng hoàn thành
(tội phạm hoàn thành). Đối chiếu với vụ án
này, A không trực tiếp tham gia chiếm đoạt
máy phát điện với B và C (không phải người
thực hành), vậy A chỉ có thể bị truy cứu
TNHS (đồng phạm với C) khi chứng minh
được hành vi của A đóng vai trò là người
tổ chức thực hiện tội phạm (không xét đến
trường hợp A là người xúi giục hay giúp sức
thực hiện tội phạm vì không có cơ sở trong
hai trường hợp này).
Về hành vi của người tổ chức: “Người
tổ chức là người đồng phạm giữ vai trò đặc
biệt trong các vụ đồng phạm, thể hiện ở
vai trò liên kết các cá nhân để hình thành
nhóm phạm tội hoặc điều khiển hoạt động
của nhóm phạm tội”8. Theo khoản 2 Điều 20
BLHS năm 1999 (khoản 3 Điều 17 BLHS
năm 2015): “người tổ chức là người chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội
phạm”. Trong đó: người chủ mưu là người
đề ra âm mưu, phương hướng hoạt động của
nhóm đồng phạm. Chủ mưu có thể trực tiếp
điều khiển hoạt động của tổ chức nhưng
cũng có thể không; người cầm đầu là người
thành lập nhóm đồng phạm, hoặc tham gia
vào việc soạn thảo kế hoạch, phân công, giao
trách nhiệm cho đồng bọn cũng như đôn đốc,
điều khiển hoạt động của nhóm đồng phạm;
người chỉ huy là người điều khiển trực tiếp
của nhóm đồng phạm có vũ trang hoặc bán
vũ trang9. Trở lại vụ án, A không có bất kỳ
sự trao đổi, rủ rê C; mà B mới là người rủ
rê, lôi kéo C tham gia chiếm đoạt máy phát
điện. Đồng thời, cũng chưa có đủ cơ sở để
xác định A là người rủ rê B (do A thay đổi lời
khai và không có lời khai của B). Từ đó, có
thể khẳng định A không có vai trò gì trong
việc liên kết, hình thành, điều khiển nhóm
phạm tội (sau khi B và C lấy được máy phát
điện về thì A mới biết).
Người chủ mưu, người khởi xướng ra
ý định phạm tội được coi là người tổ chức
trong đồng phạm khi âm mưu, thủ đoạn,
phương hướng hoạt động của nhóm tội
8 Xem: Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, tr. 85.
9 Xem: Trường ĐH. Luật Hà Nội, tlđd, tr. 183.
phạm do người đó đề ra mang tính chất bài
bản, chặt chẽ, thuyết phục được người khác
tán đồng và thực hiện theo. Nếu không có
người chủ mưu thì tội phạm sẽ không được
thực hiện (người chủ mưu được coi như linh
hồn, là bộ não của nhóm đồng phạm). Trong
trường hợp này, chứng cứ để xác định A là
người chủ mưu hết sức mong manh (lời khai
trực tiếp và duy nhất của A - đơn chứng).
Bên cạnh đó, sự bàn bạc giữa A và B cũng
hết sức giản đơn, chưa thể coi đó là một âm
mưu chỉ ra đường đi nước bước, kế hoạch
phạm tội để qua đó xác định A và B đóng vai
trò là người tổ chức trong vụ án.
Với những phân tích, đánh giá trên
cho thấy, A không phải là người tổ chức thực
hiện tội phạm do nhóm B và C trực tiếp thực
hiện. Nói cách khác, hành vi của A không
thuộc một trong bốn dạng hành vi của đồng
phạm đã nêu ở trên - vụ án không thỏa mãn
dấu hiệu khách quan trong đồng phạm.
Xem xét tới vấn đề thứ hai - dấu
hiệu chủ quan trong đồng phạm, vụ án này
cũng không thỏa mãn. Như trên đã nêu,
đồng phạm đòi hỏi những người thực hiện
tội phạm cùng có lỗi cố ý, cụ thể là: về lý
trí, mỗi người đều biết hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội và đều biết người
khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội
cùng với mình; về ý chí, những người đồng
phạm cùng mong muốn có hoạt động chung
và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức
để mặc cho hậu quả phát sinh. Bản thân C
chỉ nghe B nói: khi đi lấy máy phát điện A
sẽ cùng đi, nhưng A có đi hay không thì C
không biết, và thực tế thì A đã không cùng
đi. Vậy là, C không biết được hành vi của
A ra sao, ngược lại A cũng không biết được
hành vi của C thế nào. Về lý trí, bản thân
A và C không biết được hành vi của người
kia thực hư ra sao, nên vấn đề ý chí (mong
muốn có hoạt động phạm tội chung) cũng
không được đặt ra.
Đánh giá và so sánh tính chất pháp
lý hành vi của A và C với những dấu hiệu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 9(361) T5/2018
định về hình thức, song một bên hoặc các
bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong
giao dịch thì công nhận giao dịch đó theo
yêu cầu của một bên hoặc các bên;
Hai là, chỉ công nhận giao dịch khi
không vi phạm các điều kiện có hiệu lực
khác và việc khởi kiện yêu cầu tuyên bố
giao dịch vô hiệu về hình thức trong thời hạn
2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch;
Ba là, sau 2 năm kể từ ngày giao dịch
dân sự được xác lập mới khởi kiện yêu cầu
tuyên bố giao dịch vô hiệu về hình thức
(không vi phạm các điều kiện có hiệu lực
khác), dù bên có nghĩa vụ đã thực hiện hoặc
chưa thực hiện được ít nhất 2/3 nghĩa vụ vẫn
công nhận giao dịch, nhưng không phải là
áp dụng Điều 129 mà áp dụng điểm đ khoản
1 Điều 132 và các điều tương ứng với quan
hệ pháp luật đang giải quyết;
Bốn là, việc xác định 2/3 nghĩa vụ
không phải với nghĩa tổng số nghĩa vụ trong
giao dịch mà chỉ cần một bên đã thực hiện
được ít nhất 2/3 nghĩa vụ của họ trong giao
dịch là đủ điều kiện áp dụng Điều 129.
Năm là, chỉ các giao dịch có đền bù
thì mới áp dụng điều kiện về hình thức theo
quy định của Điều 129; các quan hệ dân sự
không có đền bù không áp dụng khoản 2,3
Điều 129
khách quan và chủ quan trong đồng phạm
đều không thỏa mãn. Vì vậy, chúng tôi hoàn
toàn đồng tình với quan điểm của Tòa án khi
kết luận: không đủ cơ sở để xác định A đồng
phạm với C về tội “Trộm cắp tài sản” theo
khoản 1 Điều 138 BLHS (chiếm đoạt máy
phát điện). Chỉ có đủ cơ sở để xử lý A về tội
“Phá hủy công trình quan trọng về an ninh
quốc gia” - chiếm đoạt 02 bình ắc quy.
5. Kết luận và kiến nghị
Dấu hiệu pháp lý của các tội danh nói
chung và dấu hiệu của hành vi đồng phạm
nói riêng đã được cơ quan lập pháp quy định
khá rõ ràng trong BLHS, vừa có tính bao
quát, nhưng cũng vừa có tính phân biệt giữa
các trường hợp tội phạm và không phải là tội
phạm, trường hợp tội này với tội kia, đồng
phạm hay không đồng phạm Tuy vậy, việc
nhận thức và vận dụng cùng một quy phạm
pháp luật hình sự vào giải quyết một vụ án,
có thể không tránh khỏi các quan điểm xung
đột. Ở những trường hợp này, chúng tôi cho
rằng, cần phải lưu tâm và đề cao giá trị của
chứng cứ chứng minh. Nếu không đủ và
không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội,
kết tội người bị tình nghi thì phải áp dụng
triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội, có lợi
cho họ - nguyên tắc mới được quy định tại
Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đây cũng là một biện pháp phòng ngừa oan
sai thiết thực trong hoạt động tố tụng, đáp
ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà nước và
đòi hỏi của xã hội đối với công tác điều tra,
truy tố, xét xử trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền.
Đối với việc xác định đồng phạm
liên quan đến trường hợp tội phạm do pháp
nhân thực hiện, đây là vấn đề mới, cần được
nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận
các quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi
năm 2017, và cần được liên ngành tư pháp
trung ương hướng dẫn thống nhất. Theo quan
điểm của chúng tôi, cần thừa nhận trường
hợp đồng phạm giữa pháp nhân thương mại
với pháp nhân thương mại, giữa cá nhân với
pháp nhân thương mại. Việc xác định đồng
phạm đối với trường hợp pháp nhân phạm
tội sẽ căn cứ vào hành vi và dấu hiệu chủ
quan của những con người cụ thể đại diện
cho pháp nhân, nhân danh pháp nhân thực
hiện các hành vi theo sự chỉ đạo, điều hành
của pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp
nhân, có như vậy, việc áp dụng pháp luật
hình sự mới thực sự đảm bảo công bằng,
bình đẳng giữa các trường hợp phạm tội của
cá nhân và pháp nhân thương mại
(Tiếp theo trang 46)
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI ÁP DỤNG...
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 9(361) T5/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- can_nhan_thuc_thong_nhat_ve_dau_hieu_phap_ly_cua_dong_pham_t.pdf