PARTO là kỹ thuật mới trong điều trị và kiểm soát
búi giãn tĩnh mạch phình vị trên cơ sở cải tiến kỹ thuật
BRTO, có nhiều ưu điểm vượt trội, được áp dụng lần
đầu tiên từ năm 2012. Tác giả Gwon DI và cộng sự cũng
đưa ra các kết quả tương đồng: Kỹ thuật PARTO đã
thành công về mặt kỹ thuật ở tất cả 73 bệnh nhân (đươc
tiến hành từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 6 năm 2016,
chụp cắt lớp vi tính trong vòng 1 tuần sau làm PARTO
cho thấy tắc hoàn toàn búi giãn tĩnh mạch dạ dày ở 72
trên 73 bệnh nhân (98,6%). Sáu mươi bệnh nhân theo
dõi sau 3 tháng cho thấy mất hoàn toàn búi giãn tĩnh
mạch dạ dày và shunt. Không có trường hợp xuất huyết
tiêu hoá cho đến khi kết thúc theo dõi (trung bình 544
ngày). Cải thiện điểm số Child-Pugh được quan sát thấy
ở 24 bệnh nhân (40%) sau 1 tháng theo dõi. Cổ trướng
và giãn tĩnh mạch thực quản được quan sát thấy ở 14
bệnh nhân (23,3%) và 16 bệnh nhân(26,7%) khi theo
dõi 3 tháng sau làm PARTO [7], [8].
Từ năm 2017, Trung tâm điện quang bệnh viện
Bạch Mai đầu tiên áp dụng kỹ thuật PARTO trong điều
trị búi giãn tĩnh mạch dạ dày, việc thực hiện sáng tạo kỹ
thuật mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Trước can thiệp,
chúng tôi đánh giá chi tiết hình ảnh búi giãn tĩnh mạch
dạ dày và shunt vị thận trên phim cắt lớp vi tính đa dãy,
từ đó lập kế hoạch can thiệp, mục đích tăng cao tính an
toàn. Đối với từng bệnh nhân, dụng cụ được sử dụng
linh hoạt: chọn plug, sử dụng spongel, có hay không
dùng coil hỗ trợ, Plug vừa có tác dụng chặn dòng
chảy qua shunt vị - thận, vừa chặn spongel trào ngực
vào tuần hoàn hệ thống, tránh nguy cơ nhồi máu phổi.
Trong quá trình tiến làm PARTO, chúng tôi đánh giá
kỹ lưỡng hình ảnh: tĩnh mạch đến, tĩnh mạch dẫn lưu,
đánh giá chi tiết đường vào từ tĩnh mạch đùi, cũng như
đường kính shunt vị - thận, từ đó chọn plug với kích
thước phù hợp (plug I hoặc II, đường kính 8-22mm)
cũng như lên chiến lược điều trị với từng ca. Trên búi
giãn tĩnh mạch dạ dày, nhiều trường hợp có các luồng
shunt nhỏ đi về, lợi ích của spongel trong trường hợp
này đó là các hạt spongel lớn đi vào những nhánh nhỏ
và gây tắc mạch, thay vì dùng coil để tắc các nhánh nhỏ,
do vậy chúng tôi thấy rằng PARTO là kỹ thuật an toàn,
hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Thời gian can thiệp của
chúng tôi giảm dần theo thời gian ( trung bình khoảng
20 phút), từ đó đưa PARTO trở thành kỹ thuật áp dụng
được ngay trong trường hợp cấp cứu khẩn cấp, đồng
thời giảm liều tia chiếu, bảo vệ bác sỹ, kỹ thuật viên can
thiệp nội mạch và bệnh nhân.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Can thiệp ngược dòng qua shunt vị thận (PARTO) trong điều trị giãn tĩnh mạch dạ dày trên bệnh nhân xơ gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 19
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
CAN THIỆP NGƯỢC DÒNG QUA SHUNT
VỊ THẬN (PARTO) TRONG ĐIỀU TRỊ
GIÃN TĨNH MẠCH DẠ DÀY TRÊN
BỆNH NHÂN XƠ GAN
Plug-assisted retrograde transvenous obliteration
for the treatment of gastric variceal hemorrhage in
patients with liver cirrhosis
Trịnh Hà Châu*, Ngô Lê Lâm**, Vũ Đăng Lưu*,
Phạm Minh Thông*
* Trung tâm điện quang
Bệnh viện Bạch Mai
** Trung tâm CĐHA Bệnh viện
K3
Objective: To evaluate the feasibility, safety, and clinical outcomes
of plug-assisted retrograde transvenous obliteration (PARTO) to treat
gastric variceal hemorrhage in patients with portal hypertension.
Methods: From 2/2017 to 3/2019, 37 patients (8, with history
of gastric variceal hemorrhage; 6, active bleeding; 28, risk rupture; 5,
ineffective endoscopic interventions) who underwent PARTO using a
vascular plug and a gelfoam pledget were retrospectively analyzed.
Conclusion: Plug-assisted retrograde transvenous obliteration is
technically and clinically effective for the treatment of gastric varices.
Results: Plug-assisted retrograde transvenous obliteration
procedures were technically successful in all 37 patients. There are two
cases of combining PARTO with downstream intervention through the
portal vein. There are 2 cases of drug release outside the blood vessels
during the intervention. 100% of cases use only 1 plug, 3 patients use
additional coil (due to large shunt diameter). There were no cases of
variceal bleeding during the follow-up.
Keywords: cirrhosis, gastric varices, Plug-assisted retrograde
transvenous obliteration.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201920
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xơ gan là một bệnh lý thường gặp trong các bệnh
lý đường tiêu hóa ở nước ta cũng như trên thế giới,
ảnh hưởng đến hàng trăm triệu người trên thế giới
và có xu hướng ngày càng gia tăng. Ở Mỹ, xơ gan là
nguyên nhân không ác tính gây tử vong hàng đầu trong
các bệnh lý gan mật- tiêu hóa với tỷ lệ tử vong khoảng
30.000 người mỗi năm [1].
Giãn tĩnh mạch thực quản - dạ dày là nguyên nhân
chính gây xuất huyết tiêu hóa cao, một trong những
biến chứng nặng của xơ gan. Mặc dù biến chứng xuất
huyết tiêu hoá do vỡ giãn TM dạ dày là thấp hơn
so với vỡ giãn tĩnh mạch thực quản (TMTQ), nhưng
khi XHTH đã xảy ra thì rất nặng, đòi hỏi phải truyền máu
với số lượng nhiều hơn, có tỷ lệ tử vong cao hơn và
mức độ kiểm soát phức tạp hơn [2], [4].
Đã có nhiều phương pháp được đề xuất để điều
trị giãn tĩnh mạch dạ dày như phẫu thuật, tiêm xơ qua
nội soi. Can thiệp mạch qua da: tạo luồng thông cửa
chủ, nút tắc búi giãn tĩnh mạch xuôi dòng qua gan, nút
tắc tĩnh mạch ngược dòng qua shunt với tĩnh mạch
thận: kỹ thuật Nút tĩnh mạch ngược dòng bằng bóng
chèn (BRTO - Balloon-occluded retrograde transvenous
obliteration) được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1996
bởi Kanagawa và cộng sự [1]. Đến nay, kỹ thuật này đã
được ứng dụng rộng rãi ở Nhật Bản, Hàn Quốc, nhiều
nước châu Á và một số nước châu Âu, Mỹ do là kỹ thuật
xâm nhập tối thiểu, an toàn và hiệu quả cầm máu, ngăn
ngừa tái phát cao trong bệnh lý giãn tĩnh mạch dạ dày.
Gần đây, kỹ thuật BRTO đã đươc cải tiến thành kỹ thuật
PARTO, với ưu điểm là tỷ lệ thành công cao, thời gian
can thiệp ngắn, vì thế có thể triển khai rộng rãi, ngay cả
trường hợp đang chảy máu. Kỹ thuật này đã được triển
khải ở nhiều nước như Nhật bản và Hàn quốc.
Bệnh viện Bạch Mai là cơ sở đầu ngành trong cả
nước với nguồn bệnh nhân xơ gan tương đối nhiều và
có đầy đủ các trang thiết bị và vật chất để chẩn đoán và
điều trị biến chứng giãn tĩnh mạch dạ dày ở những bệnh
nhân này. Kỹ thuật PARTO được triển khai ở Trung tâm
điện quang – Bệnh viện Bạch Mai từ năm 2017, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu này với mục đích: “Đánh giá
kết quả bước đầu của phương pháp can thiệp ngực
dòng qua shunt vị thận trong điều trị giãn tĩnh mạch
dạ dày trên bệnh nhân xơ gan”
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng và thời gian nghiên cứu
Chọn mẫu thuật tiện, tất cả bệnh nhân đủ tiêu
chuẩn trong thời gian nghiên cứu, bao gồm: 37 Bệnh
nhân được chẩn đoán xơ gan có bũi giãn tĩnh mạch dạ
dày, có chỉ định thực hiện PARTO, tại bệnh viện Bạch
Mai trong khoảng thời gian từ tháng 2 năm 2017 đến
tháng 3 năm 2019.
2. Chỉ định và chống chỉ định
Chỉ định
- BN giãn tĩnh mạch phình vị có shunt vị-thận thấy
được trên phim cắt lớp vi tính đa dãy có tiêm thuốc cản
quang.
- Có xuất huyết tiêu hoá cấp, tái phát nhiều lần,
không kiểm soát được bằng điều trị nội khoa, nội soi
can thiệp
- Có nguy cơ vỡ trên nội soi: búi tĩnh mạch giãn lớn,
có điểm xung huyết hoặc loét khu trú/tiến triển nhanh
Chống chỉ định
- Dị ứng thuốc cản quang, suy thận
- Hẹp, tắc tĩnh mạch cửa
- Cổ chướng mức độ nhiều, tái diễn do tăng áp lực
tĩnh mạch cửa
- Đang có giãn tĩnh mạch thực quản nặng, tiến
triển (Độ III)
3. Kỹ thuật thực hiện
Phương tiện thực hiện kỹ thuật
- Máy chụp cắt lớp vi tính đa dãy
- Hệ thống máy chụp mạch DSA
- Bộ dụng cụ can thiệp mạch:
Long-sheath 8-9F/55-75cm
Guide wire: 0.035”/110, 200cm,
Catheter: Cobra, Vetebral 4-5F
- Vật Liệu gây tắc mạch
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Amplatzer Plug I, II: 8-22mm
Gelfoam
Coil
Spogel: Cắt thành miếng nhỏ kt 1x1mm, Trộn
đều với 20-30ml thuốc cản quang, Bơm bằng xi lanh
1ml
Hình 1. Dụng cụ thực hiện (nguồn: mạng internet)
- Chuẩn bị bệnh nhân
Bệnh nhân được chọn thỏa mãn tất cả các tiêu
chuẩn sau:
Bệnh nhân được chẩn đoán và phân độ xơ
gan theo Child Pugh
Bệnh nhân được nội soi dạ dày thực quản và
có hình ảnh búi giãn dạ dày tĩnh mạch
Trên hình ảnh cắt lớp vi tính đa dãy (MSCT)
có tiêm thuốc dựa vào các đặc điểm: các tĩnh mạch dạ
dày giãn đường kính >2mm, giãn ngoằn nghèo, tăng tỷ
trọng thì tĩnh mạch, có shunt vị thận.
Có hồ sơ bệnh án lưu trữ và có đầy đủ thông
tin và xét nghiệm trong giới hạn cho phép (xét nghiệm
về đông cầm máu, công thức máu, bilirubin, albumin
máu)
Bệnh nhân được chụp phim MSCT ổ bụng có
tiêm thuốc, lên kế hoạch can thiệp gồm
1. Xác định đường vào: qua tĩnh mạch đùi phải
hay trái, có thể thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm
2. Lựa chọn dụng cụ can thiệp: Long sheath:
type, size
3. Lựa chọn vật liệu tắc mạch:
• Plug: loại I hay loại II. Lựa chọn Plugh có
đường kính > 15-20% đường kính shunt vị thận
• Có dùng Coil hỗ trợ không?
• Spongel: số lượng bao nhiêu?
- Các bước thực hiện kỹ thuật
1. Đường vào: tĩnh mạch đùi phải
2. Chọn lọc tĩnh mạch thận trái và shunt vị-thận
3. Chọn lọc trung tâm búi giãn bằng catheter và
guidewire
4. Đặt dù tắc mạch vào cổ shunt vị-thận qua
long-sheath
5. Bơm spongel qua catheter làm tắc búi giãn
tĩnh mạch dạ dày
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201922
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 2. Các bước thực hiện kỹ thuật
Chụp TM thận trái - Chụp Shunt vị - thận bung dù bơm Spongel - chụp kiểm tra (nguồn: từ ảnh bệnh nhân
can thiệp tại trung tâm điện quang bệnh viện Bạch Mai).
- Theo dõi sau làm PARTO
Theo dõi sau 24 giờ
• Tình trạng XHTH
• Vị trí đường vào tĩnh mạch bẹn: bất động 2-4
tiếng
• Toàn trạng, các thông số sinh tồn.
Đánh giá hiệu quả điều trị: sau 1 tháng, sau
đó định kỳ cách 3 tháng
• Cải thiện trên lâm sàng, xét nghiệm máu (chức
năng gan, công thức máu), nội soi thực quản, dạ dày về
tình trạng giãn tĩnh mạch thực quản, tĩnh mạch dạ dày.
• Chụp MSCT ổ bụng đánh giá tình trạng xơ
gan, búi giãn tĩnh mạch dạ dày và bệnh lý đi kèm.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 2 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019,
chúng tôi đã thực hiện kỹ thuật PARTO tại trung tâm
điện quang Bệnh viện Bạch Mai, với kết quả đạt được:
Tổng số ca 37 (từ 2/2017): Trong số 37 bệnh nhân
giãn tĩnh mạch dạ dày có 6 trường hợp có ổ chảy máu
đang hoạt động, 28 trường hợp dọa vỡ, 8 bệnh nhân
có tiền sử xuất huyết, 5 trường hợp can thiệp qua nội
soi không hiệu quả:
- Về mặt kỹ thuật:
37 BN chỉ dùng 1 plug và spongel vào trung
tâm búi giãn (100%), có 3 trường hợp kết hợp dùng coil
can thiệp xuôi dòng: tắc hoàn toàn búi giãn.
2 trường hợp có thoát thuốc xung quanh búi
giãn.
- Trong 5 BN cấp cứu
Thời gian can thiệp: trung bình 33.5 phút (từ 22
đến 50 phút).
Không có trường hợp nào xuất huyết tiêu hoá
cấp trong vòng 3 ngày sau can thiệp
Không có trường hợp nào có dấu hiệu xuất
huyết tiêu hoá trên nội soi trong vòng 7 ngày
- Trong bệnh nhân PARTO:
Có 1 trường hợp xuất huyết tiêu hoá tái phát
trong vòng 3 tháng: do giãn tĩnh mạch thực quản
Có 24 bệnh nhân nội soi lại trong vòng 3 tháng:
có 21 bệnh nhân giảm mức độ giãn tĩnh mạch dạ dày
trên nội soi.
Có 12 bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính sau
can thiệp trong vòng 1 tháng sau can thiệp: tắc hoàn
toàn búi giãn tĩnh mạch dạ dày.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 23
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hình 3. a,b,c: Bệnh nhân nam
48 tuổi, tiền sử xơ gan rượu, đã xuất
huyết tiêu hoá nhiều đợt, thắt tĩnh
mạch thực quản qua nội soi 7 lần,
vào viện vì nôn máu. a, Hình ảnh giãn
tĩnh mạch dạ dày trên nội soi; b, bệnh
nhân được tiến hành làm PARTO,
chụp kiểm tra sau đó 1 tháng, tắc
hoàn toàn búi giãn tĩnh mạch dạ dày;
c, chụp kiểm tra sau 4 tháng, tắc hoàn
toàn búi giãn tĩnh mạch dạ dày, huyết
khối tĩnh mạch cửa bán phần trước
can thiệp được tái thông hoàn toàn.
Hình 4. a,b,c Bệnh nhân nam 73
tuổi, xơ gan rượu, vào viện vì xuất
huyết tiêu hoá cấp. a, nội soi có búi
giãn lớn tĩnh mạch dạ dày; b, 2 tĩnh
mạch thận (trên và dưới) với 2 shunt
vị - thận; c, chụp mạch: thả plug nằm
ngay trên vị trí chia đôi của shunt vị
thận, bơm spongel nút tắc búi giãn
tĩnh mạch dạ dày.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201924
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
Giãn tĩnh mạch thực quản, tĩnh mạch dạ dày là
một biến chứng thường gặp nhất trong xơ gan,có thể
gặp ở 50% các bệnh nhân xơ gan. Tỉ lệ giãn tĩnh mạch
thực quản, tĩnh mạch dạ dày tăng lên hàng năm khoảng
từ 5% đến 20% ở các bệnh nhân xơ gan và tỉ lệ phát
triển từ các búi giãn tĩnh mạch nhỏ thành các búi giãn
tĩnh mạch lớn khoảng từ 5% đến 15%. Tỉ lệ giãn tĩnh
mạch thực quản, tĩnh mạch dạ dày phụ thuộc vào mức
độ xơ gan của bệnh nhân, thường gặp khoảng 40% các
bệnh nhân mức độ xơ gan Child-Pugh Avà 85% ở các
bệnh nhân có mức độ xơ gan Child-PughC [5]
Sự hình thành các búi giãn tĩnh mạch thực quản,
tĩnh mạch dạ dày được giải thích là do xơ gan làm tăng
áp lực xoang gan dẫn lên tăng chênh áp cửa – chủ. Khi
chênh áp cửa– chủ tăng sẽ dẫn đến dòng máu trong
tĩnh mạch cửa bị cản trở và sẽ xuất hiện các vòng nối
tĩnh mạch qua các nhánh tĩnh mạch vị ngắn trong thực
quản và gần dạ dày từ đó hình thành các búi giãn TM.
Các yếu tố nguy cơ xuất huyết tiêu hoá do vỡ các
búi giãn tĩnh mạch thực quản, tĩnh mạch dạ dày là các
búi giãn tĩnh mạch kích thước lớn, mức độ xơ gan nặng
theo phân độ Child-Pugh, dấu đỏ trên thành các búi
giãn tĩnh mạch, mức độ tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Khi
chênh áp cửa – chủ <12 mmHg thì nguy cơ gây xuất
huyết tiêu hoá gần như không có. Khi chênh áp cửa –
chủ > 12 mmHg, tỉ lệ xuất huyết tiêu hoá trong 2 năm
đối với búi giãn kích thước lớn và trung bình gần 30%
và búi giãn kích thước nhỏ khoảng 10% [2]
Khi xuất huyết tiêu hoá do vỡ giãn tĩnh mạch thực
quản, tĩnh mạch dạ dày xảy ra, khoảng một nửa số
bệnh nhân tự cầm máu và khoảng 40% số bệnh nhân
xuất hiện xuất huyết tiêu hoá tái phát trong 6 tuần đầu.
Tỉ lệ tử vong trong nhóm các bệnh nhân xơ gan có biến
chứng xuất huyết tiêu hoá do vỡ giãn tĩnh mạch thực
quản, tĩnh mạch dạ dày có thể tới 30% [2], [6].
Mặc dù biến chứng xuất huyết tiêu hoá do vỡ
giãn tĩnh mạch dạ dày là thấp hơn so với vỡ giãn
tĩnh mạch thực quản, nhưng khi xuất huyết tiêu hoá
đã xảy ra thì rất nặng, đòi hỏi phải truyền máu với số
lượng nhiều hơn, có tỷ lệ tử vong cao hơn và mức độ
kiểm soát phức tạp hơn [4]. Giãn tĩnh mạch dạ dày có
tỷ lệ xuất huyết tiêu hoá tái phát cao (38%- 89%) [3], [4]
Các phương pháp điều trị xuất huyết tiêu hoá do giãn
vỡ tĩnh mạch thực quản, tĩnh mạch dạ dày nhằm mục tiêu
giảm chênh áp cửa – chủ, cầm máu và đồng thời phải dự
phòng các biến chứng có thể xảy ra sau xuất huyết tiêu
hoá như hội chứng não gan, viêm phúc mạc nhiễm khuẩn
tiên phát và cổ trướng. Cho đến hiện nay, rất nhiều các
phương pháp điều trị xuất huyết tiêu hoá do giãn tĩnh mạch
thực quản, tĩnh mạch dạ dày đã được áp dụng như điều
trị nội khoa bằng các thuốc hạ áp lực tĩnh mạch cửa, các
phương pháp điều trị qua đường nội soi, các phương pháp
can thiệp nội mạch và các phương pháp phẫu thuật ngoại
khoa. Mỗi nhóm phương pháp đều có các ưu, nhược điểm
riêng và hỗ trợ nhau trong điều trị biến chứng xuất huyết
tiêu hoá do giãn tĩnh mạch thực quản, tĩnh mạch dạ dày.
Trong đó, tiêm xơ qua nội soi và can thiệp nội mạch là hai
phương pháp được dùng phổ biến nhất.
Tiêm xơ qua nội soi có một số ưu điểm như: có
thể tiến hành nhanh chóng can thiệp ngay vị trí đang
chảy máu, hiệu quả cao trên giãn tm thực quản đơn
thuần, có thể làm lại: sau can thiệp thất bại, tái phát sau
can thiệp. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp
này đó là: Chảy máu tái phát trên búi giãn lan tỏa, vị trí
khó (giãn tĩnh mạch thực quản lan xuống dạ dày phía
bờ cong nhỏ - IGV1), di chuyển vật liệu tiêm xơ,
Các phương pháp can thiệp nội mạch điều trị xuất
huyết tiêu hoá do vỡ giãn tĩnh mạch thực quản, tĩnh
mạch dạ dày ở bệnh nhân xơ gan thường áp dụng là:
Tạo shunt cửa-chủ trong gan qua tĩnh mạch cảnh
(Transjugular Intrahepatic Portosystemic Shunt – TIPS)
là kỹ thuật can thiệp nội mạch do các bác sỹ Xquang can
thiệp thực hiện, nhằm tạo ra một dòng chảy tắt (shunt)
với sức cản thấp từ nhánh tĩnh mạch cửa trong gan về
thẳng tĩnh mạch gan mà không phải đi qua xoang gan,
nhờ đó làm giảm áp lực của hệ thống tĩnh mạch cửa.
Nút tĩnh mạch phình vị ngược dòng qua catheter có
bóng chèn (BRTO): Nguyên lý của phương pháp BRTO
là đưa ống thông có gắn bóng chèn ngược dòng từ tĩnh
mạch thận trái lên búi giãn tĩnh mạch dạ dày. Bơm bóng
ngăn đường dẫn lưu về TM thận và qua ống thông gắn
bóng bơm chất gây xơ vào búi giãn tĩnh mạch dạ dày.
Nguyên lý của kỹ thuật PARTO cũng tương tự
như BRTO, tuy nhiên thay vì sử dụng bóng chèn, các
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/2019 25
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tác giả đã ứng dụng dụng cụ đóng mạch máu (vascular
plug) và sử dụng gelatin sponges thay cho chất gây xơ.
PARTO so với các phương pháp can thiệp khác có một
số ưu điểm: Ưu điểm so với TIPS: Cải thiện lưu lượng
tĩnh mạch cửa do đó cải thiện chức năng gan, giảm
xuất hiện hội chứng não gan. Hơn nữa, PARTO là kỹ
thuật đơn giản, ít tai biến hơn so với TIPS. Ưu điểm so
với BRTO: Không dùng bóng tắc mạch nên không có
nguy cơ vỡ bóng dẫn đến tắc động mạch phổi.Không
cần dùng coil để tắc các nhánh bàng hệ nhỏ, mà sử
dụng spongel thay thế́ cho thuốc gây xơ nên không cần
giới hạn về liều lượng, giảm chi phí cho bệnh nhân.
Kỹ thuật PARTO chỉ cần làm một thì, do vậy yêu cầu
thời gian ngắn hơn, giảm số ngày nằm viện, có thể làm
trong trường hợp cấp cứu.
PARTO là kỹ thuật mới trong điều trị và kiểm soát
búi giãn tĩnh mạch phình vị trên cơ sở cải tiến kỹ thuật
BRTO, có nhiều ưu điểm vượt trội, được áp dụng lần
đầu tiên từ năm 2012. Tác giả Gwon DI và cộng sự cũng
đưa ra các kết quả tương đồng: Kỹ thuật PARTO đã
thành công về mặt kỹ thuật ở tất cả 73 bệnh nhân (đươc
tiến hành từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 6 năm 2016,
chụp cắt lớp vi tính trong vòng 1 tuần sau làm PARTO
cho thấy tắc hoàn toàn búi giãn tĩnh mạch dạ dày ở 72
trên 73 bệnh nhân (98,6%). Sáu mươi bệnh nhân theo
dõi sau 3 tháng cho thấy mất hoàn toàn búi giãn tĩnh
mạch dạ dày và shunt. Không có trường hợp xuất huyết
tiêu hoá cho đến khi kết thúc theo dõi (trung bình 544
ngày). Cải thiện điểm số Child-Pugh được quan sát thấy
ở 24 bệnh nhân (40%) sau 1 tháng theo dõi. Cổ trướng
và giãn tĩnh mạch thực quản được quan sát thấy ở 14
bệnh nhân (23,3%) và 16 bệnh nhân(26,7%) khi theo
dõi 3 tháng sau làm PARTO [7], [8].
Từ năm 2017, Trung tâm điện quang bệnh viện
Bạch Mai đầu tiên áp dụng kỹ thuật PARTO trong điều
trị búi giãn tĩnh mạch dạ dày, việc thực hiện sáng tạo kỹ
thuật mang lại nhiều hiệu quả tích cực. Trước can thiệp,
chúng tôi đánh giá chi tiết hình ảnh búi giãn tĩnh mạch
dạ dày và shunt vị thận trên phim cắt lớp vi tính đa dãy,
từ đó lập kế hoạch can thiệp, mục đích tăng cao tính an
toàn. Đối với từng bệnh nhân, dụng cụ được sử dụng
linh hoạt: chọn plug, sử dụng spongel, có hay không
dùng coil hỗ trợ, Plug vừa có tác dụng chặn dòng
chảy qua shunt vị - thận, vừa chặn spongel trào ngực
vào tuần hoàn hệ thống, tránh nguy cơ nhồi máu phổi.
Trong quá trình tiến làm PARTO, chúng tôi đánh giá
kỹ lưỡng hình ảnh: tĩnh mạch đến, tĩnh mạch dẫn lưu,
đánh giá chi tiết đường vào từ tĩnh mạch đùi, cũng như
đường kính shunt vị - thận, từ đó chọn plug với kích
thước phù hợp (plug I hoặc II, đường kính 8-22mm)
cũng như lên chiến lược điều trị với từng ca. Trên búi
giãn tĩnh mạch dạ dày, nhiều trường hợp có các luồng
shunt nhỏ đi về, lợi ích của spongel trong trường hợp
này đó là các hạt spongel lớn đi vào những nhánh nhỏ
và gây tắc mạch, thay vì dùng coil để tắc các nhánh nhỏ,
do vậy chúng tôi thấy rằng PARTO là kỹ thuật an toàn,
hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Thời gian can thiệp của
chúng tôi giảm dần theo thời gian ( trung bình khoảng
20 phút), từ đó đưa PARTO trở thành kỹ thuật áp dụng
được ngay trong trường hợp cấp cứu khẩn cấp, đồng
thời giảm liều tia chiếu, bảo vệ bác sỹ, kỹ thuật viên can
thiệp nội mạch và bệnh nhân.
V. KẾT LUẬN
Giãn tĩnh mạch dạ dày là biến chứng nặng, hay
gặp trong xơ gan có tăng áp lực tĩnh mạch cửavới nguy
cơ tử vong cao và khó khăn trong điều trị. 37 bệnh nhân
xơ gan, giãn tĩnh mạch dạ dày có shunt vị - thận, đã
được điều trị bằng phương pháp can thiệp ngược dòng
sử dụng dù (PARTO) trong khoảng thời gian từ tháng
2/2017 đến tháng 3/2019. Trong số 37 bệnh nhân giãn
tĩnh mạch dạ dày có 6 trường hợp có ổ chảy máu đang
hoạt động, 28 trường hợp dọa vỡ, 8 bệnh nhân có tiền
sử xuất huyết, 5 trường hợp can thiệp qua nội soi không
hiệu quả. Với các ưu điểm: an toàn, hiệu quả làm tắc
búi giãn tĩnh mạch dạ dày, dụng cụ đơn giản với chi phí
hợp lý, thời gian can thiệp ngắn, PARTO là sự lựa chọn
tốt, cần được chuyển giao kỹ thuật, thực hiện thường
quy hơn nữa để đảm bảo lợi ích cho những BN xơ gan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boyer T.D., Manns M.P., Sanyal A.J. et al. (2012), Zakim and Boyer’s Hepatology: A Textbook of Liver Disease,
Elsevier Health Sciences.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 36 - 12/201926
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2. Ryan B.M., Stockbrugger R.W., Ryan J.M. (2004). A pathophysiologic, gastroenterologic, and radiologic
approach to the management of gastric varices. Gastroenterology, 126(4), 1175–1189.
3. Trudeau W., Prindiville T. (1986). Endoscopic injection sclerosis in bleeding gastric varices. Gastrointest
Endosc, 32(4), 264–268.
4. Sarin S.K. (1997). Long-term follow-up of gastric variceal sclerotherapy: an eleven-year experience. Gastrointest
Endosc, 46(1), 8–14.
5. Sumon S.M., Sutradhar S.R., Chowdhury M. et al. (2013). Relation of different grades of esophageal varices
with Child-Pugh classes in cirrhosis of liver. Mymensingh Med J MMJ, 22(1), 37–41.
6. Kim T., Shijo H., Kokawa H. et al. (1997). Risk factors for hemorrhage from gastric fundal varices. Hepatol
Baltim Md, 25(2), 307–312.
7. Gwon D.I., Ko G.-Y., Kwon Y.B. et al. (2018). Plug-Assisted Retrograde Transvenous Obliteration for the
Treatment of Gastric Varices: The Role of Intra-Procedural Cone-Beam Computed Tomography. Korean J
Radiol, 19(2), 223–229.
8. Gwon D.I., Kim Y.H., Ko G.-Y. et al. (2015). Vascular Plug-Assisted Retrograde Transvenous Obliteration for
the Treatment of Gastric Varices and Hepatic Encephalopathy: A Prospective Multicenter Study. J Vasc Interv
Radiol JVIR, 26(11), 1589–1595.
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kỹ thuật và hiệu quả điều trị giãn tĩnh mạch dạ dày bằng can thiệp ngược dòng qua
shunt vị thận bằng dù (Plug-Assisted retrograde Transvenous obliteration - PARTO)
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2/2017 đến tháng 3/2019 trên 37 bệnh nhân xơ gan,
giãn tĩnh mạch dạ dày có shunt vị - thận, đã được điều trị bằng phương pháp can thiệp ngược dòng sử dụng dù (PARTO). Trong
số 37 bệnh nhân giãn tĩnh mạch dạ dày có 6 trường hợp có ổ chảy máu đang hoạt động, 28 trường hợp dọa vỡ, 8 bệnh nhân có
tiền sử xuất huyết, 5 trường hợp can thiệp qua nội soi không hiệu quả
Kết quả: Tiến hành gây tắc shunt tĩnh mạch vị thận bằng dù và sau đó nút tắc búi giãn tĩnh mạch dạ dày bằng spongel
được thực hiện thành công trên tất cả 37 bệnh nhân. Có hai trường hợp kết hợp PARTO với can thiệp xuôi dòng qua tĩnh mạch
cửa. Có 2 trường hợp có thoát thuốc ra ngoài mạch máu trong quá trình can thiệp. 100% các trường hợp chỉ dùng với 1 dù, 3
bệnh nhân dùng thêm coil (do đường kính shunt lớn). Không có trường hợp nào xuất huyết tiêu hóa tái phát trong 3 tháng theo
dõi sau can thiệp
Kết luận: PARTO là sự lựa chọn tốt, cần được chuyển giao kỹ thuật, thực hiện thường quy hơn nữa để đảm bảo lợi ích
cho những BN xơ gan
Từ khoá: xơ gan, giãn vỡ tĩnh mạch dạ dày, can thiệp ngược dòng qua shunt vị thận bằng dù
Người liên hệ: Ngô Lê Lâm, Email: lamntxq28@gmail.com
Ngày nhận bài: 30.6.2019. Ngày chấp nhận đăng: 15.8.2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
can_thiep_nguoc_dong_qua_shunt_vi_than_parto_trong_dieu_tri.pdf