Vật liệu nút có rất nhiều loại khác nhau, phụ
thuộc vào kích thước và vị trí mạch máu. Với Gelfoam
(Spongel) là vật liệu gây tắc mạch tạm thời, nên có nguy
cơ tái thông dòng chảy sau khoảng 4 tuần, có thể gây
chảy máu tái phát. Hạt PVA có kích thước nhỏ thường
trôi xa vào các nhánh mạch nhỏ không dừng lại ở vị trí
mong muốn, nhất là trong trường hợp phình mạch. Mặt
khác, các hạt này không cản quang nên khó kiểm soát
sự di chuyển trong quá trình bơm gây tắc. Vòng xoắn
kim loại (coils) được xem là vật liệu được chọn để nút
các mạch có kích thước lớn, có thể áp dụng kĩ thuật thả
coils trước và sau vị trí tổn thương để gây tắc mạch, tuy
nhiên giá thành khá cao.
Trong hoàn cảnh hiện nay chúng tôi chọn keo sinh
học Hystoacryl (n-Butyl-2 Cyano acrylate). Hystoacryl
có thể pha trộn với Lipiodol theo tỉ lệ khác nhau cho thời
gian đông cứng theo ý muốn đây là vật liệu gây tắc vĩnh
viễn, loại bỏ hoàn toàn ổ tổn thương ra khỏi tuần hoàn.
Lipiodol cản quang nên khi bơm có thể kiểm soát được
sự di chuyển của vật liệu. Một điểm lưu ý khi nút là đầu
của microcatheter phải đảm bảo nằm trong mạch máu
cần gây tắc, nếu mạch máu cần gây tắc có vòng nối
với hệ mạch khác thì vòng nối phải có lưu lượng dòng
chảy không quá nhanh để tránh nguy cơ trôi keo đến vị
trí không mong muốn. Chúng tôi đã sử dụng keo sinh
học để nút mạch cho tất cả các BN trên và gây tắc tổn
thương hoàn toàn.
Một số biến chứng có thể xảy ra khi nút mạch như
đau bụng, sốt, vật liệu di chuyển gây tắc ĐM khác,
nhồi máu tạng, áp xe hóa. Theo một nghiên cứu với
28 BN [3], tỉ lệ biến chứng trong kĩ thuật gây tắc mạch
tạng là 14,3%. Một nghiên cứu khác với 57 BN được
nút mạch vị tá tràng [1], tỉ lệ biến chứng nặng là 7%,
tỉ lệ biến chứng nhẹ là 14% gồm gây tắc mạch không
mong muốn nhu mô gan hoặc lách, tụ máu vùng bẹn,
suy thận thoáng qua. Tất cả các BN chúng tôi đều cho
dùng thuốc giảm đau và kháng sinh trước và sau khi
nút mạch, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng
trong và sau thủ thuật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 25 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Can thiệp nút mạch điều trị tổn thương động mạch vùng đầu tụy tá tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 09 - 11 / 2012292
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
scientific researcH
SUMMARy
CAN THIỆP NÚT MẠCH ĐIỀU TRỊ TỔN THƯƠNG
ĐỘNG MẠCH VÙNG ĐẦU TỤY TÁ TRÀNG
endovascular embolisation methode in treatment of
pancreatico duodenal arterial injuries
Nguyễn Đình Minh*, Dư Đức Thiện*, Trần Văn Lượng*
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh
- Bệnh viện Việt Đức
Purpose: Study about the endovascular embolisation methode
in treatment of pancreatico duodenal arterial injuries.
Materials and menthod: between 11/2011 and 4/2012, four
patients with pancreatico duodenal vascular injuries on CT-Scanner
were treated by endovascular embolisation.
Result: All had hematoma and arterial injuries in pancrea
ticoduodenal area on CT-Scanner,no indication of surgical
intervention. On angiogra phy, two patients had an injury of anterior
superior pancreaticoduodenal artery, one had gastroduodenal
artery injury and one had injuries of posterior superior pancreatico
duodenal and inferior pancreaticoduodenal artery. The patients
had successfully embolized by n-BCA glue. No complication was
noted.
Conclusion: endovascular embolization is a safe, effective
and suitable methode for pancreaticoduodenal arterial injury.
The technique can develop in many healthcare centre in order to
reducing the ratio of surgical intervention.
Key word: endovascular embolisation, arterial injuries, CT-
Scanner, angiography.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 09 - 11 / 2012 293
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đẶt VẤn đỀ
Phương pháp nút mạch qua đường nội mạch đã
được áp dụng để điều trị cầm máu trong các bệnh lý loét
dạ dày, chảy máu thực quản, ho ra máu, vỡ mạch do
chấn thương tạng đặc (gan, thận, lách), dị dạng động
tĩnh mạch Đây là phương pháp điều trị hiệu quả, ít
xâm phạm, có thể thay thế cho phẫu thuật nhưng cần
lựa chọn BN phù hợp nhằm tăng tỉ lệ thành công và hạn
chế các biến chứng.
Chúng tôi áp dụng can thiệp nội mạch để điều trị
nút mạch cầm máu cho các BN có tổn thương động
mạch (ĐM) vùng tá tụy đã được chẩn đoán trên chụp
cắt lớp vi tính (CLVT) nhằm bước đầu đánh giá khả
năng áp dụng của phương pháp trong điều trị tổn
thương ĐM vùng này.
ii. đối tƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn CỨU
Hồi cứu mô tả 04 trường hợp được can thiệp nút
mạch theo đường nội mạch điều trị tổn thương ĐM vùng
tá tụy tại Bệnh viện Việt Đức Hà Nội từ tháng 11/2011
đến tháng 04/2012.
Đối tượng nghiên cứu là 04 BN được chụp CLVT 3
pha ổ bụng thấy có hình ảnh tổn thương ĐM dạng thoát
thuốc ngoài thành mạch hoặc giả phình ĐM vùng đầu
tụy - tá tràng, kèm theo khối máu tụ vùng lân cận.
Phương pháp tiến hành gồm chụp ĐM thân tạng
và mạc treo tràng trên bằng Xquang kĩ thuật số (DSA),
đường vào ĐM đùi với Catheter Simon hoặc Cobra
5F. Chẩn đoán tổn thương ĐM khi phát hiện thấy hình
ảnh thoát thuốc cản quang ngoài thành mạch hoặc giả
phình ĐM. Đưa Microcatheter 2,7F chọn lọc và tiến gần
đến vị trí ĐM tổn thương, sau đó bơm vật liệu nút mạch
là keo Hystoacryl (n-BCA) trộn với Lipiodol. Nếu không
thể đưa đầu microcatheter vào nhánh mạch tổn thương
thì vật liệu gây tắc được bơm theo hướng của dòng
chảy. Chụp lại ĐM kiểm tra đánh giá sự tắc hoàn toàn
của nhánh mạch tổn thương. BN được chuyển về bệnh
phòng dùng thuốc kháng sinh, giảm đau và theo dõi,
xuất viện sau khi ổn định.
iii. KẾt QUẢ
Bệnh nhân tuổi từ 18-65 tuổi, 03 nam và 01 nữ, 02
BN vào viện do chấn thương bụng kín, 01 có tiền sử viêm
tụy mạn, 01 có tiền sử điều trị chảy máu phúc mạc không
rõ nguyên nhân. Tất cả các BN đều có đau thượng vị và
sờ thấy khối thượng vị với tình trạng thiếu máu toàn thân,
2 trường hợp biểu hiện xuất huyết tiêu hóa.
Trên chụp CLVT, các BN đều có máu tụ lớn quanh
đầu tụy-tá tràng kèm theo hình ảnh tổn thương ĐM dạng
giả phình hoặc thoát thuốc trong hay cạnh khối máu tụ.
có 03 trường hợp kèm theo chảy máu phúc mạc.
Bảng 1. Nguyên nhân và vị trí thương tổn mạch máu
Số
tt nguyên nhân
Vị trí tổn
thương
tổn thương
kết hợp
BN 1 Viêm tụy mạn ĐM vị tá tràng Sỏi tụy
BN 2 Chấn thương
ĐM tá tụy
trước trên
Chấn thương
gan phải độ II
BN 3
Bệnh lý mạch
máu
ĐM tá tụy sau
trên và ĐM tá
tụy dưới
Tắc ĐM mạc
treo tràng trên
BN 4 Chấn thương
ĐM tá tụy
trước trên
Dịch ổ bụng
a b c
hình 1. Bn 1. Nam 44t, tiền sử đái tháo đường đang điều trị, xuất huyết tiêu hóa hai ngày. a, CLVT thấy khối máu tụ
vùng đầu tụy bên trong có túi giả phình từ ĐM vị tá tràng ( ) kèm theo hình ảnh sỏi tụy và viêm tụy mạn. b, Chụp
DSA ĐM thân tạng và ĐM mạc treo tràng trên thấy túi giả phình khoảng 15mm ( ) xuất phát từ ĐM vị tá tràng.
c, Chụp lại sau khi nút mạch thấy túi giả phình tắc hoàn toàn.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 09 - 11 / 2012294
nghiên CỨU KHoa HỌC
Các BN được chụp và can thiệp nút mạch, trong
đó có 02 BN tổn thương giả phình mạch của ĐM tá
tụy trước trên là nhánh của ĐM vị tá tràng. Một BN tổn
thương ĐM vị tá tràng. Một BN tổn thương hai vị trí (một
của ĐM tá tụy sau trên là nhánh của ĐM vị tá tràng và
một của ĐM tá tụy dưới) kèm theo bệnh lý mạch máu
mãn tính gây tắc ĐM mạc treo tràng trên sau vị trí xuất
phát khoảng 2cm. Tất cả các vị trí tổn thương mạch đều
được nút tắc hoàn toàn bằng vật liệu nút mạch là keo
sinh học Hystoacryl (n-BCA) trộn với Lipiodol theo tỉ lệ
nhất định. Sau khi chụp lại không còn hình ảnh thoát
thuốc, nhánh mạch tổn thương bị tắc hoàn toàn. BN ổn
định ra viện sau 3-7 ngày.
iV. Bàn LUận
Về chỉ định: tổn thương ĐM vùng đầu tụy tá tràng
thường do các nguyên nhân như chấn thương, viêm tụy,
bệnh mạch máu, rối loạn tự miễn dịch, nhiễm trùng, sau
can thiệp mạch hoặc phẫu thuật dạng tổn thương hay
gặp là giả phình mạch hoặc vỡ mạch gây chảy máu. Hậu
quả gây ra khối tụ máu quanh đầu tụy tá tràng, chảy máu
ổ bụng, xuất huyết tiêu hóa. Một số trường hợp chảy
máu có thể tự cầm, nhưng đa số cần tiến hành phẫu
thuật để cầm máu. Các trường hợp chảy máu không
được điều trị có thể dẫn đến shock và tử vong.
Chảy máu tiêu hóa do biến chứng của viêm tụy
gặp khoảng 9% trường hợp. Sự giải tỏa các men tụy
gây ăn mòn thành mạch tạo nên các ổ giả phình và
chảy máu vào ống tụy là nguyên nhân gây xuất huyết
tiêu hóa. Một nửa trong số giả phình có biểu hiện vỡ và
chảy máu tiêu hóa cần phải can thiệp phẫu thuật. Nút
mạch bằng can thiệp nội mạch là phương pháp cầm
máu nhằm thay thế cho phẫu thuật, ít nguy cơ và ít xâm
phạm, đem lại kết quả khả quan [2].
Trên chụp CLVT, hình ngấm thuốc mạnh đồng nhất
nằm trong ổ máu tụ và liên tục với mạch máu là dấu
hiệu nghĩ đến tổn thương mạch máu. Các tổn thương
này là nguyên nhân gây chảy máu trong ổ bụng và tiêu
hóa. Các tổn thương mạch có thể được phẫu thuật tái
tạo dòng chảy, thắt mạch hoặc chỉ định nút mạch theo
đường nội mạch. Chỉ định tùy thuộc lâm sàng, vị trí
mạch tổn thương và tình trạng huyết động của BN. Do
vậy, cần lựa chọn BN phù hợp với từng chỉ định [3].
a b c
hình 2. Bn 2. Nữ 65 tuổi, chấn thương bụng kín. CLVT thấy khối máu tụ trước đầu tụy và hình ảnh thoát thuốc cản
quang ngoài thành mạch ở trung tâm khối máu tụ ( ), kèm theo ít dịch tự do ổ bụng và chấn thương gan phải độ II.
Chụp mạch máu DSA thấy có thoát thuốc ĐM tá tụy trước trên ( ) thuộc ĐM vị tá tràng. c, chụp sau nút thấy ổ tổn
thương không còn thoát thuốc thuốc.
Chúng tôi gặp một trường hợp có tiền sử viêm tụy
mãn đã điều trị nhiều lần, đột ngột đau bụng thượng
vị. Hai trong số BN chúng tôi gặp bị chấn thương bụng
kín. Một BN có tiền sử điều trị bảo tồn chảy máu ổ bụng
không rõ nguyên nhân, đau thượng vị đột ngột. Hai
trong số các BN có biểu hiện xuất huyết tiêu hóa. Cả
bốn trường hợp đều có biểu hiện thiếu máu cấp tính
trên các xét nghiệm, bồi phụ tuần hoàn không hiệu quả.
Trên chụp CLVT, các BN đều thấy có khối máu tụ lớn
quanh đầu tụy tá tràng, kèm theo tổn thương giả phình
mạch trong khối máu tụ ở 1 trường hợp, giả phình mạch
sau đầu tụy ở 1 trường hợp, và vỡ mạch trong 2 trường
hợp. Ba trong số đó có chảy máu trong ổ bụng, một
trường hợp có kèm theo chấn thương gan độ II.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 09 - 11 / 2012 295
nghiên CỨU KHoa HỌC
CLVT là phương pháp chẩn đoán xác định có tổn
thương ĐM, căn cứ để cân nhắc lựa chọn BN điều trị
can thiệp nội mạch. Dấu hiệu trực tiếp tổn thương ĐM
là hình ảnh túi giả phình hoặc thoát thuốc cản quang do
vỡ mạch ngấm thuốc mạnh trong thì ĐM. Các dấu hiệu
gián tiếp như tụ máu quanh đầu tụy, dịch tự do ổ bụng
là bằng chứng có chảy máu trong. BN của chúng tôi
ngoài tình trạng mất máu do tổn thương ĐM không thấy
có các tổn thương phối hợp khác bắt buộc phải chỉ định
phẫu thuật cấp cứu như vỡ tạng rỗng, chấn thương
tạng đặc nặng, viêm tụy nặng Nút mạch thành công
sẽ tránh cho BN một cuộc phẫu thuật để cầm máu.
Riêng BN có tắc ĐM mạc treo tràng trên đã nghĩ đến
phẫu thuật để cầm máu và lập lại tuần hoàn mạch mạc
treo. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ hình ảnh CLVT cho
thấy đoạn xa của ĐM mạc treo được tái tạo tuần hoàn
bởi các nhánh tuần hoàn bên, các quai ruột không thấy
biểu hiện hình ảnh thiếu máu. Do vậy, chúng tôi quyết
định điều trị bằng can thiệp nội mạch.
Tóm lại, vị trí tổn thương mạch, giải phẫu ĐM mang,
nguyên nhân bệnh sinh và tình trạng BN là những yếu
tố được xem xét khi tiến hành chỉ định điều trị nút mạch
cầm máu vùng đầu tụy- tá tràng. Nếu tình trạng BN cho
phép, các tổn thương phối hợp không cần can thiệp
phẫu thuật thì nút mạch bằng can thiệp nội mạch sẽ là
lựa chọn ưu tiên.
Về kĩ thuật: vùng đầu tụy - tá tràng được cấp máu
chủ yếu bởi ĐM vị tá tràng và ĐM tá tụy dưới. Ngoài
ra, còn vòng nối phong phú với ĐM vị trái và ĐM lách
qua cung vị mạc nối. Như vậy nếu tiến hành nút một
trong số các mạch trên đây sẽ không gây thiếu máu
nghiêm trọng đến vùng này. Khi tiến hành nút mạch
cần đảm bảo loại bỏ hoàn toàn tổn thương ra khỏi tuần
hoàn, tránh tình trạng tái thông do tuần hoàn bàng hệ
qua vòng nối. Trước khi tiến hành nút mạch cần phải
chụp ĐM thân tạng và ĐM mạc treo tràng trên để đánh
giá hệ thống mạch cấp máu cho vùng tổn thương và
các vòng nối, đồng thời xác định vị trí và số lượng tổn
thương để có chiến lược gây tắc hoàn toàn và triệt để,
tránh chảy máu tái phát. Khi nút mạch cần hạn chế tối
đa gây tắc các nhánh ĐM lành, nhất là trường hợp tuần
hoàn bên kém phát triển và ít vòng nối. Về mặt kĩ thuật
a b c
d e g
hình 3. Bn 3. Nam 52t, tiền sử điều trị chảy máu phúc mạc không rõ nguyên nhân. a, CLVT thấy có khối
máu tụ trước đầu tụy, kèm theo giả phình mạch sau đầu tụy ( ), huyết khối gây tắc ĐM mạc treo tràng
trên, ít dịch ổ bụng. b, chụp ĐM mạc treo tràng trên thấy có hình ảnh giả phình ĐM tá tụy dưới ( ), tắc
hoàn hoàn ĐM mạc treo tràng trên cách vị trí xuất phát khoảng 20mm, hẹp lỗ vào ĐM vị mạc nối. c, sau
nút ĐM tá tụy dưới bằng keo sinh học. d, chụp ĐM thân tạng thấy có giả phình mạch từ nhánh tá tụy sau
trên ( ) nhánh của ĐM vị tá tràng. e, tổn thương không còn ngấm thuốc sau nút mạch.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 09 - 11 / 2012296
nghiên CỨU KHoa HỌC
cần đưa đầu microcatheter càng gần càng tốt đến sát
vị trí mạch thương tổn. Với các nhánh mạch nhỏ nếu
đưa microcatheter vào quá sâu sẽ có nguy cơ gây co
thắt mạch làm mất dòng chảy của ĐM. Do đó trường
hợp mạch nhỏ có thể để đầu microcatheter ở vị trí xuất
phát của ĐM và bơm để nhờ dòng chảy đưa vật liệu nút
mạch đến vị trí thương tổn.
a b c
hình 4. Bn 4. Nam,18t, chấn thương, vào viện trong tình trạng đau bụng thượng vị,
a, Trên CLVT có hình ảnh máu tụ lớn quanh đẩu tụy kèm theo hình ảnh thoát thuốc từ ĐM vị tá
tràng ( ) trong khối máu tụ, kèm theo ít dịch tự do ổ bụng. b, Trên phim chụp DSA ĐM thân
tạng có hình ảnh giả phình mạch vị trí ĐM tá tụy trước trên ( ) thuộc ĐM vị tá tràng.
c, Sau nút chọn lọc ĐM tổn thương bằng keo sinh học, chụp lại thấy tắc hoàn toàn.
Các BN đều được luồn microcatheter 2,7F chọn
lọc vào nhánh mạch tổn thương để gây tắc. Có 2 BN
được nút ĐM tá tụy trước trên, một BN được nút ĐM
vị tá tràng do vị trí tổn thương nằm gần vị trí xuất phát
của ĐM này. Riêng BN thứ 3 có hai vị trí tổn thương
mạch. Đầu tiên, chúng tôi tiến hành nút ĐM tá tụy dưới
theo đường ĐM mạc treo tràng trên. Sau đó chụp lại
ĐM thân tạng thấy còn hình ảnh giả phình ở nhánh tá
tụy sau trên. Tiếp tục nút tắc ĐM tá tụy sau trên theo
đường ĐM thân tạng. BN này còn thấy có tổn thương
tắc hoàn toàn ĐM mạc treo tràng trên gần vị trí xuất
phát ĐM tá tụy dưới. Nhưng do tổn thương mãn tính
nên đã không can thiệp gì thêm. Sau nút mạch các BN
đều có tiến triển tốt.
Vật liệu nút có rất nhiều loại khác nhau, phụ
thuộc vào kích thước và vị trí mạch máu. Với Gelfoam
(Spongel) là vật liệu gây tắc mạch tạm thời, nên có nguy
cơ tái thông dòng chảy sau khoảng 4 tuần, có thể gây
chảy máu tái phát. Hạt PVA có kích thước nhỏ thường
trôi xa vào các nhánh mạch nhỏ không dừng lại ở vị trí
mong muốn, nhất là trong trường hợp phình mạch. Mặt
khác, các hạt này không cản quang nên khó kiểm soát
sự di chuyển trong quá trình bơm gây tắc. Vòng xoắn
kim loại (coils) được xem là vật liệu được chọn để nút
các mạch có kích thước lớn, có thể áp dụng kĩ thuật thả
coils trước và sau vị trí tổn thương để gây tắc mạch, tuy
nhiên giá thành khá cao.
Trong hoàn cảnh hiện nay chúng tôi chọn keo sinh
học Hystoacryl (n-Butyl-2 Cyano acrylate). Hystoacryl
có thể pha trộn với Lipiodol theo tỉ lệ khác nhau cho thời
gian đông cứng theo ý muốn đây là vật liệu gây tắc vĩnh
viễn, loại bỏ hoàn toàn ổ tổn thương ra khỏi tuần hoàn.
Lipiodol cản quang nên khi bơm có thể kiểm soát được
sự di chuyển của vật liệu. Một điểm lưu ý khi nút là đầu
của microcatheter phải đảm bảo nằm trong mạch máu
cần gây tắc, nếu mạch máu cần gây tắc có vòng nối
với hệ mạch khác thì vòng nối phải có lưu lượng dòng
chảy không quá nhanh để tránh nguy cơ trôi keo đến vị
trí không mong muốn. Chúng tôi đã sử dụng keo sinh
học để nút mạch cho tất cả các BN trên và gây tắc tổn
thương hoàn toàn.
Một số biến chứng có thể xảy ra khi nút mạch như
đau bụng, sốt, vật liệu di chuyển gây tắc ĐM khác,
nhồi máu tạng, áp xe hóa. Theo một nghiên cứu với
28 BN [3], tỉ lệ biến chứng trong kĩ thuật gây tắc mạch
tạng là 14,3%. Một nghiên cứu khác với 57 BN được
nút mạch vị tá tràng [1], tỉ lệ biến chứng nặng là 7%,
tỉ lệ biến chứng nhẹ là 14% gồm gây tắc mạch không
mong muốn nhu mô gan hoặc lách, tụ máu vùng bẹn,
suy thận thoáng qua. Tất cả các BN chúng tôi đều cho
dùng thuốc giảm đau và kháng sinh trước và sau khi
nút mạch, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng
trong và sau thủ thuật.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 09 - 11 / 2012 297
nghiên CỨU KHoa HỌC
V. KẾt LUận
Nút mạch vùng đầu tụy tá tràng là một kĩ thuật khá
an toàn, hiệu quả, thích hợp trong điều trị tổn thương
ĐM. Với phương tiện và vật liệu sẵn có, kĩ thuật này có
thể triển khai ở các cơ sở y tế có máy chụp DSA để điều
trị cho BN, góp phần giảm tỉ lệ phẫu thuật đối với BN có
tổn thương ĐM vùng đầu tụy tá tràng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. George AP, Christine JK, Rocco Orlando
III, George P, Michael JH, Paul VV. Angiographic
embolization for gastroduodenal hemorrhage: safety,
efficacy, and predictors of outcome. Arch Surg
2008;143(5):457-461.
2. Thakker RV, Gajjar, Wilkins RA, Levi AJ.
Embolisation of gastroduodenal artery aneurysm caused
by chronic pancreatitis. Gut, 1983, 24, 1094-1098.
3. Weng Wah Roland C, Seck Guan T, Maung Myint
Austin H. Endovascular treatment of gastroduodenal
artery aneurysm. Asian Cardiovasc Thorac Ann
2008;16:68-72.
TÓM TẮT
Mục tiêu: nghiên cứu phương pháp nút mạch qua đường nội mạch điều trị tổn thương động mạch (ĐM) vùng
đầu tụy – tá tràng.
Đối tượng và phương pháp: từ 11/2011 đến 4/2012, 4 bệnh nhân (BN) có chẩn đoán tổn thương động mạch
(ĐM) vùng đầu tụy tá tràng trên CLVT được chỉ định chụp và nút mạch cầm máu theo đường nội mạch.
Kết quả: 4 BN đều biểu hiện tổn thương ĐM và khối máu tụ quanh đầu tụy trên chụp CLVT, không có chỉ định
phẫu thuật. Trên chụp mạch DSA 02 BN tổn thương ĐM tá tụy trước trên, 01 BN tổn thương ĐM vị tá tràng, 01 tổn
thương ĐM tá tụy sau trên và tá tụy dưới. BN được điều trị nút mạch thành công bằng keo n-BCA. Không trường
hợp nào biến chứng.
Kết luận: nút mạch là một kĩ thuật khá an toàn, hiệu quả, thích hợp trong điều trị tổn thương ĐM vùng đầu tụy
tá tràng, có thể triển khai ở các cơ sở, góp phần giảm tỉ lệ BN phải phẫu thuật.
Từ khóa: nút mạch, tổn thương ĐM, CLVT, chụp mạch máu.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS.TS. Phạm Minh Thông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
can_thiep_nut_mach_dieu_tri_ton_thuong_dong_mach_vung_dau_tu.pdf