Trờng hợp của Việt Nam cũng cho thấy
Viện Chiến lợc và Chính sách Y tế (Việt Nam)
và các tổ chức tơng tự khác cần cải thiện các cơ
chế hoạt động (ví dụ tổ chức hội đồng quản lý,
hội đồng t vấn) để bảo vệ tính trung lập và tính
độc lập. Nếu có một mối quan hệ tài chính và
quản lý chặt chẽ giữa chính phủ và tổ chức phân
tích chính sách y tế, cần phải đảm bảo rằng tổ
chức đó có những cơ chếphù hợp để phòng ngừa
những mâu thuẫn lợi ích và đảm bảo tính độc lập
trong phân tích. Một cơ chế khác giúp duy trì sự
sáng tạo khoa học và thể hiện chất lợng kỹ
thuật cao là xuất bản những kết quả nghiên cứu
trong các tạp chí phản biện độc lập. Tuy nhiên,
với quỹ thời gian làm việc có hạn của nhân viên,
sẽ rất khó để vừa đáp ứng nhu cầu của chính phủ
và vừa xuất bản đợc các ấn phẩm. Mặc dù vậy,
ít nhất các viện phải có chơng trình riêng để
nâng cao năng lực cán bộ và hình thức kiểm tra
giữa các đồng nghiệp để nâng cao chất lợng
nghiên cứu và các sản phẩm của nghiên cứu.
Mặc dù các báo cáo nghiên cứu khác cho
thấy các tổ chức nghiên cứu tham vấn chính
sách có thể đóng một vai trò quan trọng trong
huy động sự tham gia của cộng đồng và mang
đến những cái nhìn mới cho chính sách, kết quả
nghiên cứu trờng hợp này cho thấy các tổ chức
trong mẫu nghiên cứu mới gắn sự tham gia của
cộng đồng ở một mức độ rất hạn chế, và chức
năng này không đợc thể hiện rõ ràng trong tài
liệu mô tả chức năng nhiệm vụ của các tổ chức
này. Đây có thể là một lĩnh vực mà bản thân các
tổ chức phân tích chính sách y tế và các nhà tài
trợ cần thử nghiệm.
Tóm lại, cải thiện hệ thống y tếcần đầu t vào
cơ sở hạ tầng và các công nghệ y tế, đào tạo và
bổ sung các nguồn nhân lực, các cơ chếtài chính
y tế phù hợp và công bằng. Tuy nhiên, chìa khóa
cho thành công lâu dài của những đầu t nh vậy
là tính sẵn có của các tổ chức nghiên cứu chính
sách đợc tổ chức tốt, có độ tin cậy về khoa học,
có mức độ tự chủ nhất định để có thể liên tục hỗ
trợ kỹ thuật và tham vấn cho chính phủ và các
nhà hoạt động chính sách khác trong quá trình
hoạch định chính sách y tế. Các tổ chức nghiên
cứu chính sách có chức năng này có thể bị cạn
kiệt về tài chính và nhân lực cũng nh phải đối
mặt với những thử thách về chính trị. Các chính
phủ và các nhà tài trợ nên tìm ra những giải pháp
nâng cao năng lực và tính bền vững của những tổ
chức nh vậy
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Can thiệp vào quá trình thay đổi chính sách: Kinh nghiệm của các tổ chức nghiên cứu tham vấn chính sách (“think tank”) y tế ở một số nước thu nhập thấp và trung bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
Lời toà soạn
Trong thời gian vừa qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Y tế và sự phối hợp của các Cục/Vụ liên
quan, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế đã góp phần đáng kể trong cung cấp các bằng chứng cho công tác hoạch
định chính sách y tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, Viện còn có những hạn chế cần khắc phục để tiếp tục nâng cao chất
lượng và tính khách quan trong công tác nghiên cứu và tham vấn chính sách.
Sau đây, Tạp chí Chính sách Y tế xin giới thiệu bản lược dịch kết quả của một nghiên cứu đánh giá năng lực của
một số tổ chức nghiên cứu tham vấn chính sách y tế ở các nước thu nhập thấp và trung bình (trong đó có Viện Chiến
lược và Chính sách Y tế Việt Nam) do nhóm chuyên gia của Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện.
(Báo cáo toàn văn của nghiên cứu xin tham khảo trên Tạp chí Health Policy and Planning số 10 tháng 5, 2011
với tiêu đề "Influencing Policy Change: The Experience of Health Think Tanks in Low and Middle Income
Countries")
nhận ý kiến phản hồi trong quá trình viết báo
cáo. Một vài tổ chức đã có những đóng góp lớn
trong quá trình xây dựng chính sách ở đất nước
họ. Tất cả sáu tổ chức này đều tích cực làm
nhiệm vụ tư vấn chính sách và hầu hết các tổ
chức đều tiến hành các nghiên cứu liên quan đến
chính sách. Một số ít tổ chức thực hiện các cuộc
đối thoại chính sách, các nghiên cứu tổng quan
hệ thống hoặc thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu được giao. Phần lớn công việc của các tổ
Can thiệp vào quá trình thay đổi chính sách:
Kinh nghiệm của các tổ chức nghiên cứu tham vấn
chính sách (“think tank”) y tế ở một số nước
thu nhập thấp và trung bình
1 1 2 3 3
Sara Bennett , Adrijana Corluka , Jane Doherty , Viroj Tangcharoensathien , Walaiporn Patcharanarumol , Amar
4 5 5 6 7
Jesani , Joseph Kyabaggu , Grace Namaganda , AMZakir Hussain and Amade-Graft Aikins
1
John Hopkins School of Public Health, Baltimore, MD, United
States.
2
Independent researcher and part-time lecturer, School of
Public Health, University of the Witwatersrand, Johannesburg,
South Africa.
3
International Health Policy Program, Bangkok, Thailand
4
Anusandhan Trust, Mumbai, India
5
African Centre for Global Health and Social Transformation,
Kampala, Uganda.
6
Independent consultant, Bangladesh
7
University of Ghana, Ghana
Tóm tắt:
Trong những năm gần đây, để khắc phục
những hạn chế về năng lực phân tích chính sách
của chính phủ, số lượng các tổ chức phân tích
chính sách y tế độc lập ở các nước thu nhập thấp
và trung bình đã tăng lên nhanh chóng. Nghiên
cứu này nhằm: (i) nghiên cứu sự đóng góp của
các tổ chức phân tích chính sách y tế cho chu
trình chính sách y tế ở các nước thu nhập thấp và
trung bình; (ii) đánh giá các yếu tố về tổ chức và
cơ cấu có đóng góp tích cực trong quá trình
nghiên cứu tham vấn chính sách y tế của các tổ
chức nghiên cứu tham vấn chính sách y tế ở các
nước thu nhập thấp và trung bình. Sáu nghiên
cứu trường hợp về các tổ chức phân tích chính
sách ở Bangladesh, Ghana, ấn Độ, Nam Phi,
Uganda và Việt Nam được tiến hành, trong đó
có hai tổ chức phi chính phủ (NGO), hai tổ chức
thuộc trường đại học và hai tổ chức phân tích
chính sách thuộc chính phủ. Nghiên cứu trường
hợp được thực hiện dựa trên tổng quan tài liệu,
phân tích thông tin tài chính, phỏng vấn bán cấu
trúc cán bộ và các bên liên quan và trao đổi,
4Nghiên cứu chính sách
chức này được thực hiện theo yêu cầu của chính
phủ hoặc nhà tài trợ và sản phẩm của nghiên cứu
là một bản báo cáo (viết) về kết quả nghiên cứu
và một bài thuyết trình tóm tắt (trình bày trực
tiếp). Những yếu tố có vai trò quan trọng tác
động tới chính sách bao gồm: sự quan tâm tới
chính sách của nhà quản lý, sự độc lập ở mức độ
tương đối về tài chính và quản lý của tổ chức
nghiên cứu và mối quan hệ chặt chẽ với các nhà
hoạch định chính sách - yếu tố làm tăng sự tín
nhiệm và tăng mức độ ảnh hưởng của tổ chức
nghiên cứu đối với chính sách. Trong khi mối
quan hệ giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập và
chính phủ không có vấn đề gì đáng kể thì các
đơn vị nghiên cứu ngay trong cơ cấu bộ máy của
chính phủ thường gặp một số khó khăn.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm:
(1)Nghiên cứu sự đóng góp của các tổ chức
phân tích chính sách y tế vào kế hoạch xây dựng
chính sách, vào quá trình dự thảo chính sách,
thực hiện chính sách và theo dõi, đánh giá chính
sách ở các nước thu nhập thấp và trung bình.
(2)Xác định những yếu tố tổ chức và cơ cấu
có vai trò tích cực đối với công tác tham vấn
chính sách y tế của các tổ chức phân tích chính
sách y tế vào quá trình hoạch định chính sách y
tế ở các nước thu nhập thấp và trung bình.
Các kết quả trình bày dưới đây là một phần
của nghiên cứu lớn, trong đó có nghiên cứu về
các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực và tính bền
vững của các cơ quan phân tích chính sách y tế.
Kết quả nghiên cứu về các yếu tố này được trình
bày ở một báo cáo riêng.
Định nghĩa và phương pháp
Trong nghiên cứu này, tổ chức phân tích
chính sách y tế là tổ chức:
Có mục đích chính là hỗ trợ xây dựng và
thực thi chính sách y tế thông qua các phân tích
và nghiên cứu;
Có ít nhất 2 trong những chức năng sau:
- Tiến hành nghiên cứu và phân tích các vấn
đề liên quan đến chính sách;
- Cung cấp tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ
thuật trong xây dựng và đánh giá chính sách;
- Tổ chức các cuộc đối thoại chính sách ở
cấp quốc gia và quốc tế với mục đích để các nhà
hoạch định chính sách, cộng đồng và các nhà
nghiên cứu ngồi lại với nhau thảo luận về những
câu hỏi chính sách;
- Đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà
hoạch định chính sách.
Có mức độ tự chủ nhất định, hoạt động
không vì lợi nhuận;
Coi các nhà hoạch định chính sách là đối
tượng phục vụ hàng đầu, tuy nhiên, vẫn phục vụ
các đối tượng khác như các tổ chức xã hội (bao
gồm các nhà cung cấp dịch vụ và các nhóm vận
động chính sách) và các nhà quản lý trong hệ
thống y tế.
Do đó, các tổ chức phân tích chính sách y tế
có thể là một đơn vị gần như trực thuộc Bộ Y tế,
hoặc là một cơ sở của một trường đại học, hoặc
một tổ chức tư nhân độc lập hoàn toàn và hoạt
động không vì lợi nhuận.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp được
lựa chọn để tìm hiểu một cách hệ thống các mối
quan hệ nhân quả phức tạp thông qua nghiên
cứu sâu (in depth study) một số ít trường hợp.
Phương pháp nghiên cứu này phù hợp cho việc
nghiên cứu nhiều yếu tố có mối liên quan với
nhau nhưng mối quan hệ giữa chúng không rõ
ràng và có thể biến đổi theo thời gian. Các
trường hợp được lựa chọn theo kỹ thuật trường
hợp khác biệt (Gerrring, 2007): chúng tôi đã
chọn các đối tượng nghiên cứu khác biệt về hình
thức tổ chức, trong đó có tổ chức phi chính phủ,
trường đại học và viện phân tích chính sách
thuộc chính phủ ở Châu á và Châu Phi. Ngoài
ra, các tổ chức được chọn phải đáp ứng các tiêu
5chí: (i) được thành lập ít nhất 5 năm; (ii) hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực y tế. Cơ sở dữ liệu
cho các tổ chức đáp ứng các tiêu chí trên sẽ được
thiết lập. Các tổ chức được chọn không chỉ dựa
trên các tiêu chí trên mà còn dựa trên mức độ sẵn
sàng tham gia vào nghiên cứu. Tuy Trung tâm
dịch vụ y tế và xã hội (Center for Health and
Social Services - CHESS ) của Ghana được
thành lập chưa đến 5 năm nhưng do không tìm
được cơ quan nào khác ở Ghana đáp ứng tốt hơn,
chúng tôi vẫn chọn CHESS.
Để tạo thuận lợi cho quá trình nghiên cứu,
các nghiên cứu viên từ chính các nước có các tổ
chức phân tích chính sách y tế nói trên được lựa
chọn để thực hiện, nhưng những người này
không được là thành viên của tổ chức đó. Hướng
dẫn chi tiết và bộ câu hỏi bán cấu trúc đã được
xây dựng để hướng dẫn thu thập số liệu ở các
nước. Việc thu thập được tiến hành từ tháng sáu
năm 2009 đến tháng giêng năm 2010 với các
nguồn thông tin từ:
Tổng quan tài liệu, bao gồm các tài liệu đã
được xuất bản từ chính các tổ chức đó (trang
Web, ấn phẩm nghiên cứu, báo cáo hàng năm,
các chiến lược và kế hoạch đã được công bố)
và từ các nguồn khác cũng như là các tài liệu
chưa được xuất bản (ví dụ như các thỏa thuận
với các nhà tài trợ).
Thông tin tài chính do các tổ chức cung
cấp.
Các cuộc phỏng vấn sâu bán cấu trúc với
rất nhiều các cá nhân được chọn có chủ đích.
Những người này có vai trò khác nhau trong các
tổ chức, ví dụ như người sáng lập, các nhân viên,
nhà tài trợ, các khách hàng của tổ chức đó, trong
đó có các nhà hoạch định chính sách và các tổ
chức xã hội dân sự.
Thảo luận về các bản dự thảo báo cáo với
nhân viên của các tổ chức đó.
Đối với mỗi trường hợp, cơ sở dữ liệu được
xây dựng lấy từ nhiều nguồn, ví dụ như các bản
báo cáo điện tử, gỡ băng các cuộc phỏng vấn và
các thông tin sơ lược về nhân viên. Việc gỡ băng
và phân tích các cuộc phỏng vấn sâu được làm
một cách thủ công và dựa trên các chủ đề nghiên
cứu. Trong một số cuộc phỏng vấn, các bản ghi
chép chi tiết đã được sử dụng thay cho việc gỡ
băng.
Kết quả nghiên cứu
Tổng quan về các tổ chức được nghiên cứu
ở Ghana, ấn Độ và Nam Phi, các tổ chức này
đã được thành lập bởi các cá nhân có danh tiếng
trong lĩnh vực, trong khi 3 tổ chức còn lại do
chính phủ thành lập. Ví dụ, Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế (VCL&CSYT) Việt Nam bắt
nguồn từ các viện tiền thân. Các tổ chức của
Bangladesh và Uganda đều do chính phủ thành
lập và đi kèm với đó là sự ủng hộ tài chính mạnh
mẽ.
Quá trình phát triển từ khi thành lập của các
tổ chức có nhiều biến động (thể hiện trong cột á p
chót trong bảng 1). Đơn vị Kinh tế Y tế (HEU)
của Trường Đại học Cape Town vẫn giữ quy mô
hoạt động nhỏ nhưng đã có những bước biến đổi
mạnh mẽ trong chính sách y tế và môi trường tài
trợ, và đã trở thành một viện nghiên cứu lớn ở cả
cấp quốc gia và quốc tế. VCL&CSYT ở Việt
Nam trước đây ít được thế giới biết đến nhưng
đang trở thành một viện nghiên cứu hoạt động
hiệu quả và có uy tín trong nước. Hơn nữa, viện
đã thiết lập một mạng lưới các tổ chức tài trợ
rộng khắp cùng đội ngũ nhân lực tương đối lớn
và ổn định. Hình ảnh của Viện Hệ thống Y tế
(IHS) ấn Độ thay đổi qua các thời kỳ. Các tổ
chức của Bangladesh và Uganda nhận được
nguồn đầu tư tài chính khổng lồ khi mới thành
lập, nhưng khi những nguồn này cạn dần, các tổ
chức này khó tìm được nguồn tài trợ khác thay
thế. Cả hai tổ chức này đã ký hợp đồng dài hạn
với một lượng công việc, nhân lực và tài chính
lớn.
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
6do sự thiếu vắng một tổ chức phân tích chính
sách có năng lực.
ở Việt Nam, người cung cấp thông tin cho
rằng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (Việt
Nam) đã có những đóng góp quan trọng cho một
số chính sách, trong đó có Chính sách quốc gia
về phòng ngừa tai nạn thương tích (2002), Chiến
lược quốc gia về y tế dự phòng (đang tiến hành)
và Dự thảo Luật về Bảo hiểm Y tế (2007) cũng
như xây dựng quy hoạch y tế một số tỉnh/thành
phố. Người cung cấp thông tin của Chính phủ
Nam Phi nêu một số lĩnh vực mà Đơn vị Kinh tế
Y tế (HEU) đã có đóng góp trong xây dựng
chính sách. Những lĩnh vực được đề cập nhiều
Bảng 1: Tổng quan về các tổ chức được nghiên cứu
Tên tổ chức và
nước
Năm
thành lập
Tình trạng pháp luật Thực trạng
Số người cung
cấp thông tin
VCL&CSYT,
Việt Nam
1998 (tiền
thân năm
1987)
Tổ chức công lập, trực
thuộc Bộ Y tế
Hoạt động hiệu quả trong
thảo luận xây dựng chính
sách dựa trên bằng chứng
ở cấp quốc gia
17
Health Economics
Unit (HEU),
Nam Phi
1990 Chính thức thành lập
dưới tên Trường Y tế
Công cộng và Sức khỏe
Gia đình, Trường ĐH
Cape Town
Tổ chức tốt, có uy tín
trong và ngoài nước
15
Institute for Health
Systems (IHS),
ấn Độ
1990 NGO Có nhiều thay đổi về tổ
chức, đang tự cải tổ lại sau
những khó khăn về tài
chính và đang chuẩn bị
thực hiện chương trình
đào tạo mới
17
Health Economics
Institute (HEI),
Bangladesh
1998 Chỉ có nguồn tài trợ tối
thiểu, và hoạt động phân
tích chính sách bị suy
giảm. Viện đang xem xét
xây dựng lại chức năng,
nhiệm vụ
13Chính thức thành lập
dưới tên Khoa Kinh tế,
Đại học Dkaha
Health Policy
Analysis Unit
(HPAU), Uganda
1999 Có nguồn tài trợ tối thiểu,
vị thế trong Bộ Y tế bị suy
giảm
13Trực thuộc Bộ Y tế
CHESS, Ghana 2008 Vẫn trong giai đoạn mới
thành lập
7NGO
Tác động lên chính sách y tế
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (Việt
Nam) và HEU (Nam Phi) đều có những đóng
góp quan trọng vào quá trình xây dựng chính
sách ở nước họ. IHS, ấn Độ cũng có những đóng
góp ở mức độ quốc gia. CHESS, Ghana còn quá
mới để đạt được những đóng góp tương tự mặc
dù người cung cấp thông tin của tổ chức này nói
rằng họ rất có tiềm lực. ảnh hưởng của Viện
Kinh tế Y tế (HEI), Bangladesh và Đơn vị Phân
tích Chính sách (HPAU), Uganda đã gần như
biến mất khi nguồn tài chính cạn kiệt. Người
cung cấp thông tin ở Uganda đã nêu một số cơ
hội nghiên cứu cung cấp bằng chứng bị bỏ qua
Nghiên cứu chính sách
7đến là công bằng y tế, tài chính y tế, chính sách
thuốc, chăm sóc sức khỏe ban đầu và hệ thống y
tế huyện.
Viện Hệ thống Y tế (IHS), ấn Độ đã hướng
được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính
sách kết quả thống kê về nguyên nhân tử vong
và là một trong những tổ chức ở ấn Độ đưa ra
khái niệm cho chính sách bảo hiểm y tế gia đình.
Ngoài ra, IHS, ấn Độ có những đóng góp vào nỗ
lực cải thiện hệ thống y tế của chính phủ.
Nhiều tổ chức trong mẫu điều tra đã tiến
hành các nghiên cứu phân tích về các chủ đề liên
quan đến tài chính y tế (bảo hiểm y tế và phí dịch
vụ), vai trò của y tế tư nhân, hỗ trợ phát triển
(SWAP và sự hiệu quả của tài trợ) và tự chủ bệnh
viện. Sự trùng hợp ngạc nhiên về đề tài nghiên
cứu ở các quốc gia khác nhau cho thấy đó là
những vấn đề mà Bộ Y tế quan tâm nhưng chưa
đủ năng lực để tự phân tích. Điều này cũng cho
thấy các cơ hội đóng góp của các tổ chức nghiên
cứu ở mỗi nước khác nhau.
Sản phẩm nghiên cứu
Phần lớn công việc của các tổ chức xuất phát
từ yêu cầu của nhà nước và các nhà tài trợ. Viện
Chiến lược và Chính sách y tế (Việt Nam) cũng
được Bộ Y tế giao nhiệm vụ tham mưu, tư vấn
về chiến lược và chính sách y tế và đánh giá tác
động của các chính sách trong tương lai.
Sản phẩm nghiên cứu thường là các bản báo
cáo nghiên cứu, kết hợp với thuyết trình tóm tắt
trước các viên chức chính phủ. Các báo cáo mô
tả chi tiết các bước nghiên cứu phân tích đã được
tiến hành. Hình thức công bố kết quả nghiên cứu
thường làm nhất của Đơn vị Kinh tế Y tế (Nam
Phi) và Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
(Việt Nam) là phổ biến trực tiếp tới các nhà
hoạch định chính sách và các nhà quản lý cao
cấp thông qua các hoạt động liên quan đến dự á n
(ví dụ như các cuộc họp dự á n và các hội thảo kết
quả nghiên cứu) hay thông qua các buổi họp của
Hội đồng Tư vấn Chính sách. Ví dụ, việc tham
dự của Viện Chiến lược Chính sách Y tế (Việt
Nam) tại các buổi giao ban hàng tuần của Bộ Y
tế do Bộ trưởng chủ trì, cùng những trao đổi
không chính thức với lãnh đạo Bộ Y tế được xem
là những kênh quan trọng để tác động đến chính
sách. Những mối quan hệ trực tiếp như vậy được
cho là đặc biệt quan trọng cho việc truyền tải ý
tưởng chính sách, thu hút sự chú ý và duy trì vị
thế của tổ chức nghiên cứu.
Trong 6 tổ chức được khảo sát, chỉ có Đơn vị
Kinh tế Y tế (Nam Phi) và Viện Hệ thống Y tế
(ấn Độ) thực hiện được việc xuất bản các ấn
phẩm trong các tạp chí “phản biện độc lập”
(peer-review), xuất bản sách hoặc một vài
chương sách. Người cung cấp thông tin ở cả
HEU, Nam Phi và VCLCSYT, Việt Nam đều
nhấn mạnh sự thiếu hụt thời gian và khối lượng
công việc quá nhiều đã làm cản trở việc công bố
các nghiên cứu, đặc biệt là trên các tạp chí “phản
biện độc lập” quốc tế. Trong bối cảnh thiếu hụt
nhân lực thì việc ưu tiên cho công tác cung cấp
thông tin và tác động đến chính sách y tế là điều
dễ hiểu.
Các yếu tố tác động đến sự tham gia hoạch
định chính sách
Nghiên cứu chỉ ra một loạt các yếu tố có tính
quyết định tới khả năng nghiên cứu tham gia có
hiệu quả vào các thảo luận chính sách. Những
yếu tố bao gồm:
Môi trường chính sách chung;
Chủ sở hữu và hiện trạng của tổ chức
nghiên cứu;
Cơ chế quản trị và cơ chế tài chính của tổ
chức nghiên cứu;
Sự điều hành của tổ chức nghiên cứu
Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét các yếu
tố này.
Môi trường chính sách
Có lẽ yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng lên
sự phát triển thành công của một tổ chức là được
sự ủng hộ, đặc biệt là khi chính phủ có nhu cầu
phân tích chính sách một cách độc lập. ở Việt
Nam, đây là một yếu tố tích cực ủng hộ sự phát
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
8triển của Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. ở
ấn Độ, các nhà hoạch định chính sách ở các
bang nhấn mạnh nhu cầu bằng chứng khoa học
cho quy trình hoạch định chính sách.
“Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của
hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Các nhà hoạch định chính sách ngày nay cần
nhiều thông tin và bằng chứng hơn nữa để hỗ trợ
quá trình ra quyết định, chứ không chỉ bằng
quan điểm của họ. Đây là một môi trường mới
không chỉ đối với ngành y tế mà cả những lĩnh
vực khác, hay nói cách khác, nó á p dụng cho tất
cả lĩnh vực ở Việt Nam” (Một cán bộ chính phủ,
Việt Nam)
Ngược lại, ở Uganda và Bangladesh, các
khó khăn tài chính là yếu tố bề ngoài dễ nhận
thấy nhất dẫn đến suy giảm chức năng của các
tổ chức nghiên cứu, nhưng theo những người
cung cấp thông tin thì nguyên nhân gốc rễ là do
thiếu hỗ trợ của chính phủ. Trường hợp của
Bangladesh cũng như vậy.
ở Nam Phi, Đơn vị Kinh tế Y tế (HEU) được
thành lập 4 năm trước cuộc bầu cử dân chủ đầu
tiên của Nam Phi năm 1994, thời điểm bắt đầu
các chính sách cởi mở, đặc biệt là cởi mở cho sự
phê phán hệ thống chăm sóc sức khoẻ phân biệt
chủng tộc. Tuy nhiên, trong thời gian qua chính
phủ đã thay đổi mức độ chấp nhận ý kiến tư vấn
của HEU; có những vấn đề chính sách HEU
đóng vai trò vận động nhiều hơn là tác động
chính sách trực tiếp. Khả năng dịch chuyển giữa
hai vai trò này chứng tỏ tính độc lập và năng lực
của HEU, đồng thời cho thấy HEU có một cơ
chế tài chính đa dạng hơn nhiều tổ chức khác..
Kinh nghiệm của HEU cũng cho thấy tầm quan
trọng của một môi trường chính sách chung, bao
gồm các tổ chức xã hội dân sự và các mạng lưới
khu vực và quốc tế.
Chủ sở hữu của tổ chức nghiên cứu
Tổng quan về các tổ chức nghiên cứu tham
vấn chính sách cho thấy tầm quan trọng của
những tổ chức nằm ngoài nhà nước trong việc
duy trì một vị thế nhất định. Hai trong số các tổ
chức được nghiên cứu, HPAU ở Uganda và Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế (Việt Nam) đều
có những mối quan hệ mật thiết với chính phủ.
Đối với HPAU, mối quan hệ mật thiết này có vẻ
lại mang đến những kết quả âm tính. Kể cả khi
tổ chức này được tài trợ đầy đủ thì vị trí của họ
trong hệ thống nhà nước vẫn còn nhiều bất cập:
mặc dù tổ chức này có thế mạnh là có thể tư vấn
trực tiếp cho thứ trưởng thường trực nhưng văn
hoá thứ bậc trong cơ chế ra quyết định của Bộ lại
không giúp phát huy hiệu quả của thế mạnh này.
Ngược lại, vị trí tổ chức của Viện Chiến lược
và Chính sách Y tế (Việt Nam) lại tỏ ra tương đối
hiệu quả. Trong khi mối quan hệ trực tiếp giữa
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (Việt Nam)
và Bộ Y tế có thể gây ra những băn khoăn từ bên
ngoài về tính độc lập trong hoạt động nghiên
cứu và hoạt động tư vấn của Viện thì Viện này
vẫn có được những tác động đáng kể lên chính
sách. Trong một môi trường hoạch định chính
sách tương đối khép kín của Việt Nam, rất khó
để hình dung một tổ chức hoàn toàn độc lập bên
ngoài nhà nước có thể có những tác động như
vậy đến chính sách. Một người trả lời phỏng vấn
đã nói rằng một phần lý do vì sao Viện Chiến
lược và Chính sách Y tế (Việt Nam) được Bộ Y
tế tin tưởng như vậy là do mối liên hệ chặt chẽ
giữa hai tổ chức:
“Chúng tôi tin tưởng Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế như họ là một phần của Bộ Y tế.
Họ rất mạnh trong nghiên cứu, đặc biệt là
nghiên cứu về hệ thống y tế và chính sách y tế.
Ngoài ra, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
luôn có trách nhiệm với tác động của những
khuyến nghị mà họ đưa ra Còn đối với (tên
1 cơ quan khác), tôi không tin tưởng họ: họ đến
rồi lại đi thôi.” (Một cán bộ chính phủ, Việt
Nam)
Người ta giả thiết rằng nếu đặt trong một môi
trường hàn lâm, thì một viện nghiên cứu sẽ khó
có thể tiến hành được các công việc liên quan
nhiều tới chính sách (Nathan Associates, 2004).
Nam Phi là một trường hợp khác. Các cán bộ
của Đơn vị Kinh tế Y tế Nam Phi đều nói rằng
Nghiên cứu chính sách
9trong bối cảnh của Nam Phi, bạn nên là một đơn
vị nằm trong một trường đại học sẽ tốt hơn là
một tổ chức được đặt trong nhà nước hay là một
NGO độc lập. Một người trả lời phỏng vấn nói về
một chính sách của Bộ Y tế về HIV/AIDS rằng
nếu tổ chức đó được đặt trong nhà nước, “chúng
tôi sẽ không thể tồn tại”. Lợi thế lớn nhất của
một trường đại học là được bảo vệ bởi sự tự do
chuyên môn, đặc biệt khi nhà nước cần những
chuyên môn đó. ở trường đại học, “không thực
sự có một áp lực nào đối với một ý tưởng hay
chính sách cụ thể, miễn là chúng tôi tuân theo
các nguyên tắc khoa học”. Điều này đặc biệt
quan trọng trong chế độ phân biệt chủng tộc,
nhưng là một thực tế.
Quản trị và các yếu tố tài chính
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt
đáng kể giữa các tổ chức nghiên cứu phân tích
chính sách trong quy trình xây dựng kế hoạch
hoạt động và trong mức độ tác động của cơ chế
quản trị, cơ chế tài chính; sự quản lý đối với kết
quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Nguồn thu
chủ yếu của một số tổ chức trong mẫu nghiên
cứu, ví dụ như CHESS, Ghana phụ thuộc phần
lớn vào các dự á n ngắn hạn tài trợ bởi các đối tác
phát triển. Do đó, họ phải có tính đáp ứng cao,
nhưng mức độ đáp ứng của họ đối với nhu cầu
phân tích chính sách của nhà nước phụ thuộc rất
nhiều vào các nhà tài trợ. Các tổ chức của
Bangladesh, Việt Nam và Uganda đều có (hay
đã từng có) những cam kết dài hạn về tài chính,
do đó họ có đủ khoảng trống để xây dựng một
chương trình tự chủ trong công việc. Tuy nhiên,
vị trí tổ chức của các tổ chức ở Uganda và Việt
Nam, cùng với sự phụ thuộc vào nguồn tài chính
của chính phủ cho thấy thực tế chương trình hoạt
động của họ đều chịu sự tác động mạnh mẽ của
chính phủ. IHS, Bangladesh là sự kết hợp may
mắn giữa nguồn tài trợ dài hạn và khoảng cách
nhất định với chính phủ, và nguồn tài chính của
họ được chuyển thông qua một tổ chức thứ ba.
Tuy nhiên, họ đã không tận dụng được hết
những lợi thế này. Chỉ có HEU, Nam Phi kết hợp
đầy đủ được nguồn tài trợ dài hạn và vị trí bên
ngoài chính phủ để phát triển thành một tổ chức
tự chủ hoàn toàn.
Cơ cấu bộ máy quản trị, cụ thể là hội đồng
quản trị, có thể có vai trò quyết định trong việc
bảo vệ tính độc lập, trong khi vẫn tăng cường
được mối liên quan với chính sách trong công
việc. Ba trong sáu trường hợp nghiên cứu (CHESS
- Ghana, IHS - ấn Độ và IHS Bangladesh) đều có
Hội đồng Quản trị của riêng họ. Thông thường
các Hội đồng này thường tạo điều kiện cho các
mối quan hệ với chính phủ: ví dụ, Hội đồng của
IHS - ấn Độ đang có 13 thành viên, và trong khi
không ai được bổ nhiệm chính thức bởi chính phủ
thì chính phủ vẫn giữ một số vị trí nhất định trong
hội đồng đó, do điều lệ của viện quy định có đại
diện của chính phủ trong Hội đồng quản trị.
Tương tự đối với HEI, Bangladesh, Hội đồng có
15 thành viên, trong đó 2 vị trí là của Bộ Y tế.
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (Việt Nam)
không có Hội đồng quản trị chính thức, nhưng tổ
chức này vẫn có một Hội đồng Khoa học (chịu
trách nhiệm duy trì các tiêu chuẩn chất lượng) và
một Hội đồng Tư vấn chịu trách nhiệm định
hướng chiến lược chung. Tuy nhiên, các nhà phê
bình cho rằng đa số thành viên của hai hội đồng
này đều là công chức nhà nước, và do vậy, mặc dù
VCL&CSYT Việt Nam là tổ chức tự chủ một
phần, tổ chức này vẫn có những trở ngại trong
việc phản biện các chính sách của nhà nước.
Khả năng lãnh đạo của tổ chức
Các mối quan hệ cá nhân giữa thành viên của
các tổ chức và các nhà hoạch định chính sách có
thể đóng một vai trò thiết yếu trong quá trình
tăng cường uy tín và ảnh hưởng của tổ chức phân
tích chính sách. Những người cung cấp thông
tin của Chính phủ thường đề cập đến đóng góp
của các cá nhân cụ thể mà họ tin tưởng (thậm chí
ngay cả khi công việc phân tích luôn do một
nhóm thực hiện):
“... Tác động chính sách mà bà X có thể thực
hiện là rất đáng kể, thực sự vì mối quan hệ lâu
năm với ANC và năng lực của bà, và cũng nhờ
các mối quan hệ của bà ấy. Tôi nghĩ điều này
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
10
cho thấy bà ấy luôn có người sẵn sàng lắng
nghe.” (một bên liên quan bên ngoài, Nam Phi)
“Vị viện trưởng này có tầm nhìn rõ ràng về
những chính sách cần tác động. Ông cũng liên
hệ rất chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Y tế. Ông tham
gia các cuộc họp giao ban của BYT vào thứ sáu
hàng tuần. Bộ trưởng cũng thường chính thức và
trực tiếp giao nhiệm vụ của BYT cho cơ quan
của ông ấy. Ông có nhiều cơ hội để gặp gỡ và
trao đổi công việc với Bộ trưởng.” (Một cán bộ
Chính phủ, Việt Nam)
Những kết quả và kết luận chính
Các báo cáo nghiên cứu trong lĩnh vực này
nhấn mạnh các cơ quan chính phủ và cơ quan
phi chính phủ cần có năng lực nghiên cứu phân
tích chính sách tốt (Yaron và Shaxson 2008).
Kết quả nghiên cứu trường hợp này cho thấy ở
Việt Nam và Nam Phi, các tổ chức nghiên cứu
có thể đóng một vai trò tích cực trong công tác
hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy vai trò của
các yếu tố về bối cảnh và tổ chức của các cơ
quan phân tích chính sách y tế đối với hiệu quả
của hoạt động phân tích chính sách.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, động lực và
năng lực của chính phủ trong xử lý và sử dụng ý
kiến tham vấn chính sách của tổ chức phân tích
chính sách y tế là yếu tố hàng đầu dẫn tới thành
công của tổ chức phân tích chính sách y tế.
Ngoài ra, nhu cầu tham vấn chính sách của
chính phủ có thể dẫn tới một nguồn tài chính an
toàn và ổn định cho tổ chức nghiên cứu phân
tích chính sách, mặc dù trong số các trường hợp
nghiên cứu, hình thức này mới chỉ tồn tại ở Việt
Nam.
Các tổ chức nghiên cứu được lựa chọn để
phản á nh những hình thức tổ chức khác nhau, và
do đó cũng khác nhau về các mối quan hệ với
chính phủ. Mặc dù có một điều dễ nhận thấy là
một mối quan hệ trong “tầm với” giữa tổ chức
nghiên cứu tham vấn chính sách (think tank) và
chính phủ là phù hợp nhất nhưng không có
khoảng cách nào được coi là lý tưởng giữa think
tank và “thính giả”. Không gian chính sách, bối
cảnh chính trị, các hình thức tài trợ, các đặc
điểm về tổ chức và nhân sự, tính chất các mối
quan hệ chính thức và không chính thức là
những yếu tố tác động tới uy tín của tổ chức
nghiên cứu tham vấn chính sách và ảnh hưởng
của tổ chức này đối với quá trình hoạch định
chính sách. ở một số nước thu nhập thấp và
trung bình, các tổ chức phân tích chính sách y tế
đã ưu tiên xây dựng uy tín của mình thông qua
mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức quan tâm
đến chính sách (bao gồm cả cơ quan truyền
thông đại chúng và các tổ chức phi chính phủ).
Chiến lược này có thể hiệu quả trong một
khoảng thời gian dài, nhưng nó vẫn khiến các cơ
quan phân tích chính sách dễ bị tổn thương khi
có các biến đổi chính trị, và trong chiến lược lâu
dài, các tổ chức phân tích chính sách y tế cần
xây dựng các mối quan hệ rộng hơn nữa.
Tương tự, tầm ảnh hưởng quá lớn của một số
cá nhân đối với hoạt động của tổ chức nghiên
cứu phân tích chính sách có thể là con dao hai
lưỡi: nếu một hoặc hai người chính rời tổ chức
đó thì vai trò của tổ chức đó có thể sẽ kém đi.
Một trong những kết luận quan trọng rút ra từ
trường hợp của Việt Nam là sự cần thiết chuyển
đổi từ mô hình dựa vào một cá nhân xuất chúng
(“an individual policy champion”) sang một mô
hình dựa trên năng lực tham vấn chính sách của
tập thể toàn viện. Điều này đòi hỏi thể chế hóa
và đa dạng hóa các mối quan hệ với các nhà tài
trợ, các nhà hoạch định chính sách và các nhà
hoạt động chính sách khác.
Trường hợp của Việt Nam cũng cho thấy
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (Việt Nam)
và các tổ chức tương tự khác cần cải thiện các cơ
chế hoạt động (ví dụ tổ chức hội đồng quản lý,
hội đồng tư vấn) để bảo vệ tính trung lập và tính
độc lập. Nếu có một mối quan hệ tài chính và
quản lý chặt chẽ giữa chính phủ và tổ chức phân
tích chính sách y tế, cần phải đảm bảo rằng tổ
chức đó có những cơ chế phù hợp để phòng ngừa
những mâu thuẫn lợi ích và đảm bảo tính độc lập
trong phân tích. Một cơ chế khác giúp duy trì sự
Nghiên cứu chính sách
11
sáng tạo khoa học và thể hiện chất lượng kỹ
thuật cao là xuất bản những kết quả nghiên cứu
trong các tạp chí phản biện độc lập. Tuy nhiên,
với quỹ thời gian làm việc có hạn của nhân viên,
sẽ rất khó để vừa đáp ứng nhu cầu của chính phủ
và vừa xuất bản được các ấn phẩm. Mặc dù vậy,
ít nhất các viện phải có chương trình riêng để
nâng cao năng lực cán bộ và hình thức kiểm tra
giữa các đồng nghiệp để nâng cao chất lượng
nghiên cứu và các sản phẩm của nghiên cứu.
Mặc dù các báo cáo nghiên cứu khác cho
thấy các tổ chức nghiên cứu tham vấn chính
sách có thể đóng một vai trò quan trọng trong
huy động sự tham gia của cộng đồng và mang
đến những cái nhìn mới cho chính sách, kết quả
nghiên cứu trường hợp này cho thấy các tổ chức
trong mẫu nghiên cứu mới gắn sự tham gia của
cộng đồng ở một mức độ rất hạn chế, và chức
năng này không được thể hiện rõ ràng trong tài
liệu mô tả chức năng nhiệm vụ của các tổ chức
này. Đây có thể là một lĩnh vực mà bản thân các
tổ chức phân tích chính sách y tế và các nhà tài
trợ cần thử nghiệm.
Tóm lại, cải thiện hệ thống y tế cần đầu tư vào
cơ sở hạ tầng và các công nghệ y tế, đào tạo và
bổ sung các nguồn nhân lực, các cơ chế tài chính
y tế phù hợp và công bằng. Tuy nhiên, chìa khóa
cho thành công lâu dài của những đầu tư như vậy
là tính sẵn có của các tổ chức nghiên cứu chính
sách được tổ chức tốt, có độ tin cậy về khoa học,
có mức độ tự chủ nhất định để có thể liên tục hỗ
trợ kỹ thuật và tham vấn cho chính phủ và các
nhà hoạt động chính sách khác trong quá trình
hoạch định chính sách y tế. Các tổ chức nghiên
cứu chính sách có chức năng này có thể bị cạn
kiệt về tài chính và nhân lực cũng như phải đối
mặt với những thử thách về chính trị. Các chính
phủ và các nhà tài trợ nên tìm ra những giải pháp
nâng cao năng lực và tính bền vững của những tổ
chức như vậy.
Chính sách - Số 8/2011 Y tế
Tạp chí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
can_thiep_vao_qua_trinh_thay_doi_chinh_sach_kinh_nghiem_cua.pdf