On the basis of studies to assess the status and impact factors arising landslides, partitioning allows warned the risk
of landslides in the mountainous districts of Quang Ngai province.
- On the mountainous province of Quang Ngai distributed sliding block 809, they form bands running under the
sublatitude, sublongtitude and the NE-SW with sliding mass density reached 10-12 block/10km2.
- Landslides occur due to 11 impact factors arising, including slope and slope factor mean annual rainfall plays a key
role; followed by the crust of factors, geology, tropical impact fracture dynamics, hydrogeology, fracture density, the
density of deep separation, horizontal separation density, cover plant phue and traffic density. Zoning map warning the
risk of landslides in mountainous districts of Quang Ngai province was built on the basis of the integrated 11 Landslide
hazard maps in spatial analysis component in a GIS environment.
- On the mountainous districts of Quang Ngai province, the average risk of landslides accounted for 40.67% of the
research natural area, distributed in the districts of Ba To, Son Ha, Tay Tra. Areas at risk of landslides in high level
accounting for 24.32% of the natural areas of the study area, mainly distributed in the districts of Ba To, Son Ha and Tra
Bong. Areas at risk of landslides in low-level accounting for 20.28% of the area of research natural areas, distributed in
the district: Ba To, Son Ha and Son Tay, partly in Tay Tra district, Minh Long and Tra Bong. Areas with high risk of
landslides accounted for only 0.58% of the natural area and research area is mainly distributed in Tra Bong district and
scattered in Ba To, Son Ha. Areas with very low risk of landslides accounted for 14.15% of the research natural area,
distributed in the districts of Shon Tay, Ba To and scattered in the districts of Son Ha, Tay Tra and Minh Long.
13 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 704 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảnh báo nguy cơ trượt lở đất ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
107
35(2), 107-119 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 6-2013
CẢNH BÁO NGUY CƠ TRƯỢT LỞ ĐẤT
Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG NGÃI
PHẠM VĂN HÙNG1, NGUYỄN VĂN DŨNG2
E - mail: phamvanhungvdc@gmail.com
1Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 14 - 1 - 2013
1. Mở đầu
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vùng Duyên hải miền
Trung, có vị thế vừa tựa vào dải Trường Sơn hùng
vĩ, vừa hướng ra Biển Đông (hình 1); phía bắc giáp
Quảng Nam, phía nam giáp Bình Định, phía tây
giáp Kon Tum và Gia Lai và phía đông là Biển
Đông. Tỉnh Quảng Ngãi nằm trải dài từ 14°32’ đến
15°25’ vỹ độ Bắc, từ 108°06’ đến 109°04’ kinh độ
Đông, gồm có thành phố Quảng Ngãi và 13 huyện,
trong đó có một huyện đảo là Lý Sơn, 6 huyện
đồng bằng và 6 huyện miền núi (gồm Ba
Tơ, Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Tây, Sơn Hà và
Minh Long).
Hình 1. Bản đồ phân bố TLĐ các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
108
Địa bàn các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
nằm trong vùng có điều kiện tự nhiên rất phức tạp,
hàng năm phải hứng chịu những tổn thất không
nhỏ do tai biến địa chất gây ra; đặc biệt là trượt lở
đất (TLĐ) đang có xu hướng ngày một gia tăng cả
về quy mô và tần suất xuất hiện, để lại những hậu
quả nặng nề cho cuộc sống của người dân. Nhiều
đoạn đường bị vùi lấp, thậm chí bị phá hủy, làm tê
liệt giao thông trong nhiều ngày (đường Đông
Trường Sơn, quốc lộ 24, tỉnh lộ 622, 623, 626);
đồi, núi, ruộng vườn (Làng Mâm, Gò Rùa,), nhà
cửa của cư dân bị phá hủy, đổ sập (thôn Đông, thôn
Tây, xã Trà Sơn; Trà Lạc, Trà Xanh, xã Trà Lâm;
Tà Bễ, xã Sơn Bua; Trà Ong, Trà Xuông, xã Trà
Quân; Bắc Dương, xã Trà Thọ; Trà Cát, xã Trà
Thanh; Trà Linh, xã Trà Lãnh; Tà Diêu, Tà Bầu, xã
Sơn Thủy, Ruộng Gò, Diệp Thượng, xã Thanh An;
Đồng Chùa, xã Ba Chùa; Suối Loa, xã Ba Động;
Làng Mâm, Làng Diêu, xã Ba Bích; Vã Cháy,
Đồng Làu, xã Ba Lế,); sự an toàn của các hồ đập
thủy điện (hồ Nước Trong, Đắc Pring, Trà
Bồng,) có nguy cơ bị đe dọa, ảnh hưởng đến đời
sống của cư dân sống ở vùng dưới đập.
Việc nghiên cứu phòng tránh giảm nhẹ thiệt hại
do tai biến địa chất nói chung, TLĐ nói riêng gây
nên đã được chú trọng trong những năm gần đây
[1-4]. Tai biến TLĐ ở một số địa phương trong
tỉnh đã được nghiên cứu ở mức độ khác nhau, đạt
được những kết quả nhất định phục vụ cho công
cuộc phòng tránh giảm nhẹ thiệt hại và bảo vệ môi
trường ở địa phương. Tuy nhiên, cho đến nay trên
địa bàn các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi, còn
chưa có công trình nào nghiên cứu đánh giá chi tiết
hiện trạng và khoanh vùng cảnh báo nguy cơ tai
biến TLĐ, làm cơ sở cho quy hoạch phát triển bền
vững KT-XH và bảo vệ môi trường. Do đó, hàng
năm, TLĐ ở vùng núi còn diễn biến phức tạp, khó
kiểm soát và những tổn thất về KT-XH ở nơi đây
còn khá lớn. Trước yêu cầu bức xúc của thực tiễn
đòi hỏi, Đề tài “Đánh giá hiện trạng, khoanh vùng
cảnh báo chi tiết nguy cơ trượt lở đất ở các huyện
miền núi tỉnh Quảng Ngãi phục vụ quy hoạch phát
triển bền vững” đã được triển khai và những kết
quả bước đầu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra
hiện nay.
Công trình này trình bày một phần kết quả thực
hiện đề tài nêu trên, trong đó thể hiện chính những
kết quả về hiện trạng và phân vùng cảnh báo nguy
cơ TLĐ ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Các tài liệu nghiên cứu trong công trình này là
tổng hợp các tài liệu phân tích giải đoán ảnh viễn
thám, khảo sát chi tiết ngoài thực địa năm 2011-
2012 và kế thừa tài liệu trong những năm qua. Kết
quả nghiên cứu được hình thành trên cơ sở tích hợp
từ nhiều kết quả: nghiên cứu ngoài thực địa, phân
tích - nghiên cứu trong phòng và kế thừa các kết
quả trước đây. Để đánh giá hiện trạng và phân
vùng cảnh báo nguy cơ TLĐ, các phương pháp áp
dụng bao gồm: phân tích ảnh viễn thám, khảo sát
thực địa, phân tích tổng hợp, phân tích so sánh cặp
(AHP của Saaty) và phân tích không gian trong
môi trường GIS.
Phân tích ảnh viễn thám được ứng dụng để giải
đoán vị trí các khối trượt trên địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp khảo sát thực địa là chủ đạo được
ứng dụng để nghiên cứu đánh giá hiện trạng và các
yếu tố tác động phát sinh TLĐ. Ở ngoài thực địa,
tiến hành đo vẽ chi tiết, xác định quy mô, các đặc
trưng của khối trượt và những yếu tố tác động phát
sinh TLĐ. Từ đó, cho phép đánh giá hiện trạng và
diễn biến của quá trình trượt lở trong khu vực
nghiên cứu. Phương pháp phân tích so sánh cặp [5,
6] được ứng dụng nhằm xác định vai trò của từng
yếu tố trong tổng hợp các yếu tố tác động phát sinh
TLĐ trên cơ sở cho điểm và tính trọng số. Phương
pháp phân tích không gian trong môi trường GIS
được áp dụng để xây dựng bản đồ phân vùng cảnh
báo nguy cơ TLĐ.
Bản đồ nguy cơ TLĐ được xây dựng dựa trên sự
hiểu biết về các chuyển động phức tạp trên sườn và
về các yếu tố gây ra trượt lở [5, 6]. Việc khoanh vẽ
các khu vực hiện thời chưa bị tác động của TLĐ
được dựa trên giả định rằng, quá trình trượt lở trong
tương lai sẽ diễn ra trong cùng một điều kiện với các
vụ TLĐ quan sát được đã xảy ra trước đó. Việc vạch
ranh giới của các vùng nguy cơ trượt lở xuất phát từ
xác suất xảy ra hiện tượng, từ sự tương đồng của các
yếu tố tác động phát sinh TLĐ như: độ dốc, mật độ
chia cắt sâu, mật độ chia cắt ngang, đặc điểm vỏ
phong hoá, đặc tính địa chất công trình của đất đá,
đặc điểm địa chất thủy văn, lượng mưa trung bình
năm, hoạt động phá hủy của đứt gãy hoạt động (mật
độ đứt gãy và đới ảnh hưởng động lực đứt gãy), độ
che phủ thực vật và các hoạt động kinh tế - xã hội
của con người (mật độ giao thông). Mặt khác, việc
định lượng cấp độ nguy cơ TLĐ là kết quả của sự
tích lũy các yếu tố tác động phát sinh trượt lở được
tính theo công thức sau [5, 6]:
109
H (LSI) = ∑
=
n
j
wj
1
∑
=
m
i
Xij
1
Trong đó: H (LSI) - là chỉ số nhạy cảm với trượt
lở, Wj - là trọng số của yếu tố thứ j, Xij - là giá trị
của lớp thứ i trong yếu tố gây trượt j.
Việc tích hợp thông tin trong môi trường GIS
với phương pháp phân tích đa biến đã cho phép
xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ TLĐ trên địa
bàn vùng núi tỉnh Quảng Ngãi.
Như vậy, phương pháp khảo sát thực địa kết
hợp với phân tích các dữ liệu viễn thám là quan
trọng, bởi lẽ có xác lập chi tiết hiện trạng tai biến
TLĐ một cách đầy đủ, chính xác thì mới cho kết
quả phân vùng cảnh báo nguy cơ TLĐ đạt độ chính
xác cao và có ý nghĩa thực tiễn. Ứng dụng phương
pháp phân tích so sánh cặp và phân tích không gian
trong môi trường GIS để phân vùng cảnh báo nguy
cơ TLĐ sẽ đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra,
làm cơ sở khoa học cho phân vùng quy hoạch phát
triển bền vững kinh tế - xã hội các huyện miền núi
nói riêng, tỉnh Quảng Ngãi nói chung.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Hiện trạng trượt lở đất ở các huyện miền núi
tỉnh Quảng Ngãi
Trên cơ sở tổng hợp các kết quả khảo sát chi
tiết ngoài thực địa và kế thừa tài liệu trong những
năm vừa qua đã cho phép xác lập 809 khối trượt
lớn nhỏ, phân bố trên diện tích 3245 km2 của 6
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi (hình 1, 2).
Hình 2. Bản đồ mật độ TLĐ các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
110
- Các khối trượt phân bố với mật độ trung bình
là 10-12 khối trượt/10km2. Mật độ TLĐ lớn, đạt
giá trị >14 khối/10km2, phân bố ở các xã Trà Sơn,
Trà Lâm và Trà Thủy, huyện Trà Bồng; Trà Quân,
Trà Lãnh, Trà Thọ, huyện Tây Trà; Sơn Bao, Sơn
Thủy, Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà; Sơn Bua, Sơn Mùa,
Sơn Mầu và Sơn Tân, huyện Sơn Tây; Long Sơn,
Thanh An và Long Môn, huyện Minh Long; Ba
Động, Ba Cung, Ba Chùa, huyện Ba Tơ. Mật độ
TLĐ <8 khối/10km2 phân bố rải rác ở Sơn Tây,
Sơn Hà, Minh Long và Ba Tơ. Mật độ TLĐ thấp
nhất, <4 khối/10km2 phân bố ở các xã Ba Xa, Ba
Trang, Ba Khâm, huyện Ba Tơ, Long Mai, Long
Hiệp, huyện Minh Long, Sơn Bua, Sơn Liên, Sơn
Lập, huyện Sơn Tây, Trà Bùi, Trà Tân, Trà Bình,
huyện Trà Bồng. Trượt lở đất phân bố chủ yếu
thành những dải có mật độ lớn, chạy dài theo các
phương á vỹ tuyến, á kinh tuyến và ĐB-TN. Trong
đó nổi lên các dải: Trà Thanh - Trà Hiệp - Trà
Thủy - Trà Giang, Trà Lâm - Trà Sơn - Trà Phú;
Sơn Bua - Sơn Mùa, Sơn Tân - Sơn Màu, Sơn Bao
- Di Lăng - Sơn Thủy - Sơn Kỳ, Ba Vinh - Ba Tơ -
Ba Bích - Ba Lế và Ba Động - Ba Cung - Ba Chùa
- Ba Vì.
- Hầu hết các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
đều diễn ra trượt lở, phá hủy nhiều đoạn đường
giao thông, ruộng nương, hoa màu, công trình kinh
tế dân sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến hàng trăm hộ
dân địa phương. Ở huyện Trà Bồng, TLĐ tập trung
thành dải kéo dài theo phương á vỹ tuyến: Trà
Hiệp - Trà Thủy - Trà Giang, Trà Lâm - Trà Sơn -
Trà Phú. Ở Trà Thủy, trượt lở phổ biến xảy ra ở độ
cao 200 - 250m, độ dốc >35°. Khối trượt ở Trà
Thủy diễn ra trên sườn dốc >35°, có chiều rộng
40m, dài 120m, sâu 5m trong vỏ phong hoá dầy
15m (ảnh 1). Trượt lở đất xảy ra ở Trà Lâm, trong
vỏ phong hóa với chiều dày 15-20m, khối trượt
rộng 50-70m, dài 80-100m, kéo dài dọc theo sườn
núi, phá hủy đoạn đường TL622 (ảnh 2). Ở thôn
Trà Xanh, xã Trà Lâm, vết nứt trên núi Xo dài
50m, rộng 0,8m và sâu 0,3m đã làm cho 21 hộ dân
với 90 nhân khẩu sinh sống dưới chân núi phải di
dời đi nơi ở mới. Tại huyện Tây Trà, TLĐ phát
hình thành dải có phương á vỹ tuyến Trà Khê - Trà
Quân, á kinh tuyến Trà Lãnh - Trà Thọ - Trà
Trung. Tại thôn Trà Ích thuộc xã Trà Lãnh, TLĐ
phá hủy TL626, ảnh hưởng trực tiếp đến 45 hộ dân
sống ở chân núi, TLĐ phá hủy taluy dương và kè
chống trượt TL626 (ảnh 3). Tại thôn Bắc Dương,
xã Trà Thọ, TLĐ phá hủy đoạn đường TL626 dài
khoảng 1,5 km (ảnh 4). Ngoài ra, tại thôn Trà Reo,
Trà Niêu và Gò Rô thuộc xã Trà Phong, TLĐ làm
ảnh hưởng trực tiếp đến gần 70 hộ dân sống ở gần
đó. Tại khu vực núi Khỉ, cao 1.000m ở thôn Đông
và thôn Tây, xã Trà Sơn, vào năm 1999 đã xuất
hiện bốn vết nứt dài 200 - 300m, hình thành khối
trượt rất lớn, đe dọa tính mạng và tài sản của 33 hộ
dân sống dưới chân núi và buộc họ phải di dời. Ở
huyện Sơn Tây, TLĐ hình thành dải có phương á
kinh tuyến Sơn Bua - Sơn Mùa - Sơn Tân - Sơn
Màu. Nứt đất kèm theo trượt lở xảy ra ở núi Mố
Rái, xã Sơn Tân, ở thôn Tà Bễ, xã Sơn Bua đã ảnh
hưởng đến 20 hộ dân sinh sống ở dưới chân núi. Ở
huyện Sơn Hà, TLĐ tập trung thành dải kéo dài
theo phương á kinh tuyến: Sơn Bao - Di Lăng -
Sơn Thủy - Sơn Kỳ, Sơn Hạ - Sơn Giang - Sơn
Cao. Khối trượt ở xã Sơn Bao có quy mô lớn,
chiều rộng 70m, dài 100m và cao 20 m (ảnh 5).
Trượt lở hỗn hợp trong đới dập vỡ và vỏ phong hoá
dày tới 25-30m. Khối trượt tại xã Sơn Kỳ diễn ra ở
sườn núi cao 200-300 m, dốc 35-45°. Khối trượt có
quy mô lớn, chiều rộng 300m, dài 80m và cao 30m
(ảnh 6). Trượt lở hỗn hợp trong đới dập vỡ, vỏ
phong hoá dầy tới 15-20m. Ngoài ra, ở xóm Tà
Diêu, thôn Tà Bầu, xã Sơn Thủy đã xuất hiện nhiều
vết nứt vào năm 2004, dài hàng trăm mét, kèm theo
lở núi rất nguy hiểm cho cư dân sống dưới chân
núi. Các điểm xảy ra nứt lở núi mạnh như ở thôn
Tà Cân, xã Sơn Hải, làng Bà Rẩy, xã Sơn Kỳ, núi
Mò O, xã Sơn Ba, làng Bồ, thị trấn Di Lăng. Ở
huyện Minh Long, TLĐ tập trung thành dải á kinh
tuyến Long Sơn -Long Mai và phương ĐB-TN
Thanh An - Long Môn. Trên địa bàn các xã Long
Sơn, Long Môn và Thanh An, TLĐ diễn ra gây
nguy hiểm cho gần 200 hộ dân định cư ở chân núi
liền kề. Trên đồi Nước Dép, thôn Diệp Thượng và
đồi Mét thôn Nước Nhiêu, xã Thanh An, nứt đất
kèm theo trượt lở lớn đã ảnh hưởng trực tiếp đến
gần 70 hộ dân. Tại xã Long Sơn, nứt núi kèm theo
lở núi xảy ra ở Gò Chanh, Gò Nay, Gò Dài, Lạc
Sơn và Diệp Sơn đã ảnh hưởng trực tiếp đến 150
hộ dân sống ở dưới chân núi, buộc phải di chuyển.
Nứt đất kèm theo trượt lở ở sông Liên, tại các xóm
Đồng Văn, Kala và Gò Póc đã ảnh hưởng trực tiếp
đến 22 hộ dân buộc họ phải di dời. Trên địa phận
huyện Ba Tơ, TLĐ hình thành dải có phương á
kinh tuyến Ba Vinh - Ba Tơ - Ba Bích - Ba Lễ,
đông bắc - tây nam Ba Động - Ba Cung - Ba Vì.
Các điểm nứt đất kèm theo TLĐ gây nguy hiểm
cho cư dân địa phương tập trung dọc theo thung
lũng sông Re và sông Trà Nô. Khối trượt ở xã Ba
Chùa có quy mô lớn, dài 70m, rộng 100m, sâu 15m
111
(ảnh 7) đã tác động trực tiếp đến nhà dân ở dưới
chân sườn núi. Tại xã Ba Vinh, nứt đất kèm theo lở
núi diễn ra ở các xóm Pha Cun, Gò Đập, Chín
Công, đã ảnh hưởng trực tiếp đến gần 200 hộ dân
sống liền kề (ảnh 8). Tại thôn Suối Loa, xã Ba
Động đã xuất hiến vết nứt núi dài 200-300m, chạy
dài theo phương ĐB-TN, kèm theo sụt bậc chênh
cao đến 5-7m, đã ảnh hưởng đến 50 hộ dân sống ở
dưới chân núi. Tại thôn Vã Cháy và Đồng Lâu
thuộc xã Ba Lế, nứt đất kèm theo lở núi phát triển
theo phương ĐB-TN và á kinh tuyến, tuy nhiên chỉ
ảnh hưởng đến 8 hộ dân sống liền kề.
- Đa số các điểm trượt lở đều phân bố trên sườn
núi có độ cao từ 200 đến 500m đến gần 1000m, độ
dốc 25-35°. Vật liệu trượt chủ yếu là sản phẩm
phong hoá của các đá biến chất: gơneis, phiến kết
tinh và trầm tích bở rời hỗn hợp aluvi, proluvi và
deluvi. Trượt lở đất diễn ra trong các kiểu vỏ
phong hoá ferosialit, sialferit và trầm tích bở rời;
nơi có độ che phủ nhỏ <20% và hoạt động kinh tế
phát triển, giao thông được xây dựng, mở mang
như: ở các huyện Tây Trà, Trà Bồng, Sơn Tây và
Sơn Hà. Trượt lở đất diễn ra và phát triển khá
mạnh mẽ dọc các đới đứt gãy hoạt động Sông Trà
Bồng, Sông Re, Ba Động - Ba Vì, đất đá bị cà nát,
xiết ép, vỡ vụn và có độ dính kết yếu. Đó chính là
những đới ảnh hưởng động lực của các đới đứt gãy
hoạt động với mật độ khe nứt, đứt gãy lớn
>1km/km2. Phần lớn các điểm trượt lở đều diễn ra
trong thời gian mùa mưa (từ tháng 8 đến tháng 11)
và ở những nơi có lượng mưa trung bình năm lớn
>3000mm/năm. Trong thời gian này, trượt lở diễn
ra mạnh mẽ không chỉ về quy mô không gian, kích
thước khối trượt mà cả tần suất xuất hiện. Mặt
khác, trượt lở kèm theo cả lũ quét - lũ bùn đá đã
gây nên hậu quả lớn cho đời sống của cư dân
địa phương.
Ảnh 1. Trượt lở đất ở xã Trà Thủy, huyện Trà Bồng
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2009)
Ảnh 2. Trượt lở đất trên taluy dương TL622 tại xã Trà Lâm,
huyện Trà Bồng (ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2009)
Ảnh 3. Trượt lở đất tại xã Trà Lãnh, huyện Tây Trà
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2012)
Ảnh 4. Trượt lở đất tỉnh lộ 626, xã Trà Thọ, huyện Tây Trà
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2012)
112
Ảnh 5. Trượt lở đất ở xã Sơn Bao, huyện Sơn Hà
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2012)
Ảnh 6. Trượt lở đất tại Sơn Kỳ, huyện Sơn Hà
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2012)
Ảnh 7. Trượt lở đất, ở xã Ba Chùa, huyện Ba Tơ
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2012)
Ảnh 8. Trượt lở đất ở xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ
(ảnh: Phạm Văn Hùng, năm 2012)
3.2. Các yếu tố tác động phát sinh TLĐ ở các
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Trượt lở là quá trình di chuyển xuôi dốc của vật
liệu đất đá. Quá trình trượt lở được bắt đầu khi thế
cân bằng động của sườn dốc bị phá vỡ do tác động
của các yếu tố tự nhiên và xã hội. Các công trình
nghiên cứu về TLĐ trên thế giới, cũng như ở nước
ta trong thời gian qua đã khẳng định, hiện tượng
TLĐ hình thành và phát triển do tác động của
nhiều yếu tố khác nhau [1, 4-6], trong đó, yếu tố độ
dốc sườn là quan trọng nhất, kế tiếp là yếu tố lượng
mưa trung bình năm và các yếu tố khác tiếp theo
có vai trò thứ yếu. Kết quả nghiên cứu của công
trình này, ở vùng miền núi tỉnh Quảng Ngãi, TLĐ
hình thành và phát triển dưới tác động của 11 yếu
tố thuộc các nhóm yếu tố: địa mạo, khí hậu thủy
văn, địa chất, kiến tạo và nhóm yếu tố che phủ thực
vật và hoạt động kinh tế của con người. Trong đó,
độ dốc sườn đóng vai trò rất quan trọng, có quan
hệ trực tiếp đến sự thay đổi hệ số ổn định sườn
dốc, rồi tiếp đến các yếu tố khác như: lượng mưa
trung bình năm, kiểu vỏ phong hoá, đặc điểm địa
chất công trình, địa chất thủy văn, đới ảnh hưởng
động lực đứt gãy hoạt động, mật độ đứt gãy, độ che
phủ thực vật, mật độ chia cắt ngang, mật độ chia
cắt sâu và mật độ giao thông. Căn cứ vào mối quan
hệ giữa mức độ trượt lở với đặc điểm từng yếu tố
trong tổng thể các yếu tố, để từ đó cho điểm từng
yếu tố tác động phát sinh TLĐ ở vùng núi tỉnh
Quảng Ngãi.
Nhóm yếu tố địa mạo:
Yếu tố độ dốc sườn là quan trọng nhất trong
phát sinh TLĐ, do đó cho 9 điểm. Kết quả nghiên
cứu cho thấy (bảng 1), trên bậc độ dốc 35°-45°,
TLĐ diễn ra lớn nhất. Tiếp theo, mức độ TLĐ ít
113
hơn chủ yếu diễn ra ở bậc độ dốc 25°-35° và 15°-
25°. Riêng bậc độ dốc >45°, TLĐ diễn ra rất ít và
quá trình địa chất động lực phổ biến là đổ lở [4, 5].
Các bậc độ dốc 35-45°, 25-35°, 15-25°, <15° và
>45° có điểm tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 1. Thống kê trượt lở và điểm số theo cấp độ dốc
địa hình ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Độ dốc
(o)
Số điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/100km2 ) Điểm số
<15 295 1355,58 22 3
15-25 324 1217,74 27 7
25-35 122 535,50 23 5
35-45 33 118,88 28 9
>45 2 12,00 17 1
Yếu tố phân cắt sâu có vai trò trong phát sinh
và phát triển trượt lở. Mức độ trượt lở lớn nhất tập
trung ở vùng có mật độ chia cắt sâu trung bình; tiếp
theo là mật độ chia cắt sâu lớn hơn (bảng 2). Do đó,
vai trò của yếu tố này với TLĐ ở mức độ nhất định
và cho 1 điểm. Điểm của các bậc độ chia cắt sâu 25
- 50m/km2, 50 - 100m/km2, 100 - 150m/km2, <25
m/km2 và >150m/km2 tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 2. Thống kê trượt lở và điểm số theo mật độ
chia cắt sâu ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Mật độ chia cắt
sâu (m/km2)
Số điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/100km2)
Điểm
số
<100 69 381,33 0,17 3
100-190 296 851,43 0,34 9
190-280 268 1028,21 0,26 7
280-370 108 555,20 0,19 5
>370 35 245,80 0,13 1
- Yếu tố phân cắt ngang có vai trò thứ yếu trong
phát sinh trượt lở (bảng 3). Mức độ trượt lở lớn
nhất phân bố ở vùng có mật độ chia cắt ngang lớn
>2000m/km2, tiếp theo là vùng có mật độ chia cắt
ngang 500 - 1000m/km2, 1000 - 1500m/km2, 1500-
200m/km2. Do vậy, điểm của các cấp độ mật độ
chia cắt ngang >2000m/km2, 500-1000m/km2,
1000 - 1500m/km2, 1500 - 200m/km2 và <500
m/km2 tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 3. Thống kê trượt lở và điểm số theo mật độ
chia cắt ngang ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Mật độ chia
cắt ngang
(m/km2)
Số
điểm
trượt
lở
Diện
tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/100km2 )
Điểm
số
<500 207 1134,55 18 1
500-1000 161 583,01 28 7
1000-1500 171 629,82 27 5
1500-2000 108 471,56 23 3
>2000 129 425,76 30 9
Nhóm yếu tố khí hậu thủy văn:
Yếu tố lượng mưa, cụ thể ở khu vực này là xem
xét vai trò của yếu tố lượng mưa trung bình năm
(bảng 4). Đây là yếu tố quan trọng thứ 2 sau yếu tố
độ dốc. Do vậy, điểm cho vai trò của yếu tố lượng
mưa trung bình năm là 7. Phân tích hiện trạng TLĐ
trên địa bàn vùng núi tỉnh Quảng Ngãi cho thấy,
khu vực có lượng mưa trung bình năm >3500 mm
có mức độ trượt lở mạnh nhất; tiếp theo là khu vực
có lượng mưa trung bình năm 3000 - 3500 mm và
2500 - 3000 mm. Ở những nơi có lượng mưa trung
bình năm <2500 mm thì trượt lở xảy ra ít nhất. Do
đó, các bậc lượng mưa trung bình năm >3500 mm,
3000 - 3500mm/năm, 2500 - 3000 mm/năm và
<2500 mm có điểm tương ứng là 9, 7, 5 và 3.
Bảng 4. Thống kê trượt lở và điểm số theo cấp lượng mưa
trung bình năm ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Lượng mưa
trung bình
năm (mm)
Số điểm
trượt lở
Diện
tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/100km2) Điểm số
<2500 82 434,15 19 3
2500-3000 203 931,37 22 5
3000-3500 329 1344,12 24 7
>3500 162 537,12 3 9
Nhóm yếu tố địa chất:
Yếu tố vỏ phong hoá (kiểu vỏ phong hoá) và
trầm tích Đệ Tứ là yếu tố có vai trò thứ tiếp theo
trong phát sinh trượt lở đất (bảng 5). Bởi lẽ, vỏ
phong hoá và trầm tích bở rời Đệ Tứ cung cấp
nguồn vật liệu cho quá trình trượt lở ở vùng núi
tỉnh Quảng Ngãi. Phân tích tổng hợp mối quan hệ
giữa mức độ trượt lở với các kiểu phong hoá và
trầm tích Đệ Tứ cho thấy, yếu tố này có vai trò
nhất định và cho 5 điểm. Trầm tích Đệ tứ bở rời
hỗn hợp (aluvi, proluvi, deluvi) ở khu vực này
thường có chiều dày lớn (từ 15 đến 20m) rất thuận
lợi cho trượt lở phát triển, do đó, nó có mức độ
trượt lở lớn nhất; tiếp đến là kiểu vỏ phong hoá
sialferit (thường có chiều dày từ 15 đến 20m) có
mức độ trượt lở thấp hơn. Tiếp đến kiểu vỏ phong
hoá ferosialit (chiều dày thường đạt từ 10 đến 15m)
và saproit (chiều dày thường từ 5 đến 10m) có mức
độ trượt lở thấp hơn. Do vậy, điểm của các kiểu vỏ
phong hoá và trầm tích Đệ Tứ tương ứng như sau:
trầm tích Đệ tứ hỗn hợp bở rời - 9, sialferit - 7,
ferosialit - 5, saproit - 3, alferit - 1.
Bảng 5. Thống kê trượt lở và điểm số theo kiểu vỏ
phong hoá và trầm tích Đệ Tứ ở các huyện miền núi
tỉnh Quảng Ngãi
Kiểu vỏ
phong hóa
Số điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/100km2) Điểm số
Alferit 6 65,83 10 1
Trầm tích bở
rời 167 461,71 36 9
Ferosialit 387 1785,56 22 5
Saproit 115 612,64 19 3
Sialferit 101 315,94 32 7
114
Yếu tố địa chất thạch học công trình có vai trò
thứ tiếp theo, thể hiện ở độ cứng, độ bền chắc của
các nhóm đất đá trong phát sinh TLĐ (bảng 6).
Phân tích đánh giá vai trò của yếu tố này trong phát
sinh trượt lở cho thấy, yếu tố này ở vai trò nhất
định và cho 3 điểm. Trên các trầm tích bở rời hỗn
hợp (apd), TLĐ xảy ra mạnh nhất. Trượt lở đất xảy
ra yếu hơn trên các thành tạo biến chất từ đá
magma, rồi đến đá biến chất trầm tích. Do đó, điểm
của các nhóm đá trầm tích Đệ Tứ hỗn hợp bở rời,
dính kết rất yếu (apd), biến chất magma, biến chất
trầm tích, granit, basalt tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 6. Thống kê trượt lở và điểm số theo yếu tố
địa chất thạch học công trình (theo nhóm đất đá)
ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Nhóm đá -
độ cứng
Số
điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/100km2)
Điểm
số
Đá basalt -
rất cứng 3 70,74 4 1
Đá biến chất
trầm tích - cứng 391 1809,59 22 5
Đá granit -
nửa cứng 106 609,59 17 3
Trầm tích bở rời 175 468,89 46 9
Đá biến chất
magma - nửa cứng 101 337,01 30 7
Vai trò của yếu tố địa chất thủy văn trong phát
sinh TLĐ thể hiện ở mức độ chứa nước (bảng 7).
Tuy nhiên, đối với quá trình TLĐ ở khu vực miền
núi tỉnh Quảng Ngãi cho thấy, mối quan hệ giữa
mức độ trượt lở với mức độ chứa nước ngầm ở
mức độ nhất định. Mức độ trượt lở lớn nhất nằm
trong đới giàu nước; tiếp theo là đới rất nghèo
nước, thậm chí không chứa nươc. Do vậy, đánh giá
mối quan hệ giữa mức độ trượt lở với mức độ chứa
nước cho yếu tố này 3 điểm. Điểm của các cấp độ
chứa nước ngầm giầu nước, rất nghèo nước, không
chứa nước, chứa nước trung bình và nghèo nước
tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 7. Thống kê trượt lở và điểm số theo mức độ
chứa nước ngầm của đất đá ở các huyện miền núi
tỉnh Quảng Ngãi
Độ chứa nước
Số
điểm
trượt
lở
Diện tích
(km2)
Mật độ
trượt lở
(khối/100k2)
Điểm
số
Giàu nước (qh) 169 369,60 45 9
Chứa nước
trung bình (qp) 11 99,29 10 3
Nghèo nước
(bz) 4 70,74 4 1
Rất nghèo
nước (bc) 405 1809,59 23 7
Không chứa
nước (xn) 187 946,60 21 5
Nhóm yếu tố kiến tạo:
Yếu tố mật độ đứt gãy có vai trò nhất định
trong phát sinh TLĐ (bảng 8). Phân tích đánh giá
theo mức độ trượt lở cho thấy, yếu tố này có vai trò
nhất định và cho 5 điểm. Vùng có mật độ đứt gãy
từ >0,576km/km2 có mức độ trượt lở lớn nhất, tiếp
theo là vùng có mật độ 0,144 - 0,288km/km2, 0,288
- 0,432km/km2,... Vùng có mật độ đứt gãy
<0,144km/km2 có mức độ trượt lở thấp nhất. Điểm
của các bậc mật độ đứt gãy >0,576km/km20,144-
0,288km/km2, 0,288 - 0,432km/km2, 0,432 -
0,576km/km2 và <0,144km/km2 tương ứng là 9, 7,
5, 3 và 1.
Bảng 8. Thống kê trượt lở và điểm số theo cấp mật độ
đứt gãy ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Mật độ đứt
gãy (km/km2)
Số
điểm
trượt
lở
Diện tích
(km2)
Mật độ
trượt lở
(khối/100k2)
Điểm
số
<0,144 6 178,61 3 1
0,144-0,288 23 54,48 42 7
0,288-0,432 347 1436,08 24 5
0,432-0,576 183 1083,25 17 3
>0,576 217 493,78 44 9
Yếu tố đới ảnh hưởng động lực đứt gãy hoạt
động có vai trò nhất định trong phát sinh TLĐ
(bảng 9). Phân tích mối quan hệ này cho thấy, yếu
tố đới ảnh hưởng động lực đứt gãy hoạt động có
vai trò nhất định và cho 3 điểm. Mức độ trượt lở
lớn nhất tập trung ở các đới động lực đứt gãy hoạt
động bậc 1 ở khu vực nghiên cứu, tiếp theo là các
đới đứt gãy bậc 2, bậc 4, bậc 3 và cao hơn. Điểm
của các bậc đới ảnh hưởng động lực đứt gãy tương
ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 9. Thống kê trượt lở và điểm số theo cấp đới
ảnhhưởng động lực đứt gãy ở các huyện miền núi
tỉnh Quảng Ngãi (nhầm lẫn giữa 2 cột diện tích và số
điểm trượt lở)
Cấp độ
đới ảnh
hưởng
động lực
đứt gãy
Số điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/1002) Điểm số
Bậc cao 195 1461,37 13 1
Bậc 1 138 171,83 80 9
Bậc 2 198 647,87 31 7
Bậc 3 217 915,92 24 3
Bậc 4 28 98,5 28 5
Nhóm yếu tố che phủ thực vật và hoạt động
kinh tế của con người:
Yếu tố lớp phủ thực vật (cụ thể là độ che phủ
thực vật) có vai trò nhất định trong phát sinh TLĐ
115
ở khu vực này (bảng 10). Trên thực tế ở vùng núi
tỉnh Quảng Ngãi, vùng có độ che phủ kém (<20%)
- vùng đất ở khu dân cư và công trình kinh tế dân
sinh, quá trình TLĐ diễn ra mạnh mẽ nhất. Vùng
có độ che phủ tốt (>90%) - vùng đất rừng tự nhiên,
TLĐ diễn ra yếu nhất (bảng 10). Những vùng có
độ che phủ trung bình (20-45%) - vùng đất sản
xuất nông nghiệp và hoạt động xây dựng, phát
triển giao thông, thủy điện, thủy lợi, mức độ TLĐ
diễn ra cũng khá mạnh. Do đó, phân tích mối quan
hệ của yếu tố này với quá trình trượt lở cho thấy,
vai trò của yếu tố này ở mức thấp và cho 1 điểm.
Điểm của các cấp che phủ thực vật: <20%, 20-
45%, 45-70%, 70-90% và >90% tương ứng là: 9, 7,
5, 3 và 1.
Bảng 10. Thống kê trượt lở và điểm số theo yếu tố độ che
phủ thực vật ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Độ che phủ
thực vật (%)
Số điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ trượt lở
(khối/1002) Điểm số
<20 119 318,50 37 9
20-45 505 1825,81 28 7
45-75 91 483,70 19 5
75-90 29 152,32 18 3
>90 32 461,70 7 1
Yếu tố hoạt động kinh tế của con người tác
động trực tiếp vào phát sinh TLĐ là hoạt động xây
dựng mạng lưới giao thông. Khi xây dựng giao
thông, con người tác động trực tiếp, làm thay đổi
trạng thái môi trường (bảng 11). Trong đó, việc
thay đổi độ dốc sườn, lớp phủ thực vật,... đã làm
cho quá trình sườn có điều kiện phát triển, trong đó
có TLĐ. Do đó, mật độ giao thông có vai trò nhất
định trong phát sinh TLĐ ở các huyện miền núi
tỉnh Quảng Ngãi. Phân tích đánh giá hiện trạng
TLĐ với yếu tố mật độ giao thông cho thấy, ở
những nơi có mật độ giao thông lớn, TLĐ cũng
xảy ra với mật độ rất lớn. Do đó, phân tích mối
quan hệ này cho thấy, vai trò của yếu tố mật độ
giao thông có mức độ nhất định và cho 3 điểm. Điểm
của các cấp mật độ giao thông >7,054km/km2, 5,075 -
7,054km/km2, 3,096 - 5,075km/km2, 1,117 - 3,096
km/km2, < 1,117 km/km 2 tương ứng là 9, 7, 5, 3 và 1.
Bảng 11. Thống kê trượt lở và điểm số theo yếu tố mật độ
giao thông ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Mật độ giao
thông (km/km2)
Số điểm
trượt lở
Diện tích
(km2)
Mật độ
trượt lở
(khối/1002)
Điểm số
5,075 – 7,054 163 576,52 0,28 7
<1,117 140 812,83 0,17 1
1,117 – 3,096 155 779,07 0,20 3
3,096 – 5,075 227 875,05 0,26 5
>7,054 91 202,59 0,45 9
Như vậy, ở vùng núi tỉnh Quảng Ngãi, TLĐ
hình thành và phát triển bởi tác động của 11 yếu tố
thành phần. Trên cơ sở điểm của 11 yếu tố nêu
trên, cho phép xác định trọng số của mỗi yếu tố
bằng phương pháp phân tích so sánh cặp của Saaty
(Saaty’s Analytical Hierarchy Process- AHP). Kết
quả tính toán cho thấy (bảng 12), trọng số của yếu
tố độ dốc là 0,209; lượng mưa là 0,163; vỏ phong
hoá, địa chất công trình và mật độ đứt gãy đều là
0,116; địa chất thủy văn, đới động lực đứt gãy, mật
độ giao thông đều là 0,070; mật độ chia cắt ngang,
mật độ chia cắt sâu và độ che phủ thực vật đều là
0,023. Bản đồ nguy cơ TLĐ thành phần được xây
dựng trên cơ sở phân tích theo từng yếu tố tác động
nói trên.
Bảng 12. Trọng số của yếu tố tác động phát sinh trượt lở ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Yếu tố Đd (9)
Lm
(7)
Vph
(5)
Mđđg
(5)
Đcct
(5)
Đctv
(3)
Đđl
(3)
Mđcs
(1)
Mđcn
(1)
Đcptv
(1)
Mđgt
(3)
Trọng số 0,209 0,163 0,116 0,116 0,116 0,070 0,070 0,023 0,023 0,023 0,070
Chú thích: Đd- Độ dốc, Lm- Lượng mưa trung bình năm, Vph- Vỏ phong hoá, Đđl- Đới động lực đứt gãy, Mđđg- Mật độ
đứt gãy, Đcct- Địa chất công trình, Đctv- Địa chất thủy văn, Mđcn- Mật độ chia cắt ngang, Mđcs- Mật độ chia cắt sâu,
Đcptv- Độ che phủ thực vật, Mđgt- Mật độ giao thông.
3.3. Phân vùng nguy cơ trượt lở đất các huyện
miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ TLĐ trên
địa bàn các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi được
xây dựng bằng phương pháp phân tích không gian
trong môi trường GIS. Đó là sự tích hợp 11 bản đồ
thành phần theo công thức sau:
LSI (H) = 0,209 Bđ_Đd + 0,163 × Bđ_Lm + 0,116
× Bđ_Đcct + 0,116 × Bđ_Vph + 0,116 × Bđ_Mđđg
+ 0,070 × Bđ_Đđl + 0,070 × Bđ_Đctv + 0,023 ×
Bđ_Mđcn + 0,023 × Bđ_Mđcs + 0,023 ×
Bđ_Đcptv + 0,070 Bđ_Mđgt.
Trong đó: LSI - bản đồ nguy cơ trượt lở đất,
Bđ-Đd: bản đồ độ dốc, Bđ_Lm: bản đồ lượng mưa
116
trung bình năm, Bđ_Đcct: bản đồ địa chất công
trình, Bđ_Vph: bản đồ vỏ phong hoá và trầm tích
Đệ tứ, Bđ_ Mđđg: bản đồ mật độ đứt gãy, Bđ_Đdl:
bản đồ đới động lực đứt gãy, Bđ_Đctv: bản đồ địa
chất thủy văn, Bđ_Mđcn: bản đồ mật độ chia cắt
ngang, Bđ_Mđcs: bản đồ mật độ chia cắt sâu,
Bđ_Đcptv: bản đồ độ che phủ thực vật và
Bđ_Mđgt – bản đồ mật độ giao thông.
Bản đồ cảnh báo nguy cơ TLĐ được tích hợp từ
11 bản đồ thành phần thể hiện bằng giá trị số với
mỗi pixel có một giá trị nguy cơ trượt lở tương
ứng. Do đó, để xây dựng bản đồ phân vùng cảnh
báo nguy cơ TLĐ, cần phân chia các giá trị nguy
cơ trượt lở trên bản đồ giá trị số thành các cấp
nguy cơ phù hợp. Nguyên tắc và phương pháp
phân chia các cấp nguy cơ từ các giá trị nguy cơ
trượt lở như sau: ngưỡng để phân cấp bản đồ trượt
lở giá trị số được lựa chọn sau khi thực hiện phân
tích xử lý thống kê, xây dựng đường cong tích luỹ
xác suất (biểu đồ thống kê tích luỹ nguy cơ TLĐ
giá trị số). Kết quả xử lý thống kê cho các thông số
sau: giá trị tối thiểu Xmin= 2,8680, trung bình Avg
= 5,4559, tối đa Xmax= 8,7660, độ lệch tiêu chuẩn
StD = 1,2677 (hình 3, bảng 13).
Hình 3. Biểu đồ thống kê phân bố nguy cơ TLĐ ở các
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Bảng 13. Thống kê phân bố giá trị nguy cơ TLĐ ở các
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
Nội dung Giá trị
Min 2,868
Max 8,76
Trung bình 5,4559
Độ lệch chuẩn 1,2677
Việc phân chia số lượng cấp nguy cơ TLĐ
được lựa chọn theo công thức:
∆x = (Xmax- Xmin)/n; trong đó: n- số cấp cần
phân chia.
Theo nguyên tắc nêu trên, ở các huyện miền núi
tỉnh Quảng Ngãi, cho phép lựa chọn, phân chia 5
cấp nguy cơ (n = 5, ∆x = 1,1796): rất thấp, thấp,
trung bình, cao và rất cao. Các trị số tương ứng của
các cấp nguy cơ: rất thấp: <4,0476, thấp: 4,0476-
5,2272, trung bình: 5,2272-6,4068, cao: 6,4068-
7,5864 và rất cao: >7,5864. Cấp nguy cơ rất thấp
thể hiện ở vùng đó rất ít xảy ra trượt lở, hoặc có
xảy ra với khối lượng rất nhỏ. Cấp nguy cơ trượt lở
thấp phản ánh ở vùng đó trượt lở có thể xảy ra ít,
hoặc xảy ra với khối lượng, quy mô nhỏ. Cấp nguy
cơ trượt lở trung bình là vùng có thể xảy ra trượt lở
với quy mô và khối lượng vừa. Cấp nguy cơ trượt
lở cao là vùng có thể xảy ra trượt lở nhiều, quy mô
và khối lượng lớn. Cấp nguy cơ trượt lở rất cao là
vùng có thể xảy ra trượt lở rất nhiều, quy mô và
khối lượng rất lớn.
Bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ TLĐ vùng
núi tỉnh Quảng Ngãi tỷ lệ 1:25.000 thể hiện ở 5 cấp
nguy cơ khác nhau (bảng 14, 15, hình 4, 5).
Bảng 14. Thống kê diện tích theo các cấp nguy cơ
TLĐ trên địa bàn vùng núi tỉnh Quảng Ngãi
Cấp độ nguy cơ Diện tích (ha) Phần trăm (%)
Rất thấp 149251 14,15
Thấp 213899 20,28
Trung bình 428861 40,67
Cao 256480 24,32
Rất cao 6086 0,58
Bảng 15. Thống kê các cấp độ nguy cơ TLĐ theo
diện tích (ha) từng huyện ở vùng núi tỉnh Quảng Ngãi
Huyện
Rất
thấp Thấp
Trung
bình Cao
Rất
cao
Ba Tơ 8352 44245 47065 11818 73
Minh Long 2584 11750 6093 792 0
Sơn Hà 2897 29133 32178 11115 11
Sơn Tây 8807 25232 3732 156 0
Trà Bồng 1027 13428 12721 12635 971
Tây Trà 2187 11597 16415 2745 1
Trên địa bàn các huyện miền núi tỉnh Quảng
Ngãi phổ biến hơn cả là vùng có nguy cơ TLĐ ở
cấp độ trung bình. Vùng có nguy cơ trượt lở trung
bình chiếm 40,67% diện tích tự nhiên khu vực
nghiên cứu, phân bố chủ yếu ở các xã Ba Tiêu, Ba
Vì, Ba Tô, Ba Dinh, Ba Trang (huyện Ba Tơ), Sơn
Thượng, Sơn Trung, Sơn Cao, Sơn Linh (huyện
Sơn Hà) và Trà Xinh, Trà Khê, Trà Nham (huyện
Tây Trà).
3 4 5 6 7 8 9
value
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
N
um
be
r o
f p
ix
el
s
S
ố
lư
ợ
ng
p
ix
el
s
Giá trị
117
Hình 4. Bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ TLĐ các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
QUI MÔ CÁC CẤP NGUY CƠ TRƯỢT LỞ THEO HUYỆN
0.00
5000.00
10000.00
15000.00
20000.00
25000.00
30000.00
35000.00
40000.00
45000.00
50000.00
Mi
nh
L
on
g
S¬
n
Hμ
S¬
n
T©
y
Tr
μ B
ån
g
T©
y T
rμ
D
iệ
n
tíc
h
(h
a)
Rất thấp
Thấp
Trung bình
Cao
Rất cao
Hình 5. Biểu đồ cấp độ nguy cơ TLĐ ở các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi
118
Vùng có nguy cơ TLĐ ở cấp độ cao chiếm
24,32% diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu,
phân bố chủ yếu ở các xã Ba Động, Ba Cung, Ba
Vinh, Ba Chùa, Ba Bích, Ba Lế (huyện Ba Tơ),
Sơn Hạ, Sơn Giang, Di Lăng, Sơn Bao, Sơn Thủy,
Sơn Kỳ (huyện Sơn Hà) và Trà Thủy, Trà Sơn, Trà
Hiệp, Trà Lâm (huyện Trà Bồng).
Vùng có nguy cơ TLĐ ở cấp độ thấp chiếm
20,28% diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu,
phân bố ở các xã Ba Nam, Ba Lế, Ba Xa, Ba Liên,
Ba Điền (huyện Ba Tơ), Sơn Nham, Sơn Linh, Sơn
Cao (huyện Sơn Hà) và Sơn Liên, Sơn Lập, Sơn
Tình (huyện Sơn Tây), một phần ở các huyện Tây
Trà, Minh Long và Trà Bồng.
Trong khi đó, vùng nguy cơ trượt lở rất cao chỉ
chiếm 0,58% diện tích tự nhiên khu vực nghiên
cứu và phân bố chủ yếu ở các xã Trà Thủy, Trà
Lâm, Trà Hiệp, Trà Sơn (huyện Trà Bồng) và một
ít ở Ba Tơ, Sơn Hà. Vùng có nguy cơ trượt lở rất
thấp chiếm 14,15% diện tích tự nhiên của vùng núi
tỉnh Quảng Ngãi, phân bố trên địa bàn các huyện
Sơn Tây, Ba Tơ và rải rác ở các huyện Sơn Hà,
Tây Trà và Minh Long.
4. Kết luận
Các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi là nơi
diễn ra trượt lở đất mạnh, hiện đã xác lập được 809
khối trượt, chúng tạo thành những dải chạy theo
phương á vỹ tuyến, á kinh tuyến và ĐB-TN với
mật độ khối trượt đạt 10-12 khối trượt/10km2.
Trượt lở đất diễn ra do 11 yếu tố tác động phát
sinh, trong đó yếu tố độ dốc sườn và lượng mưa
trung bình năm đóng vai trò chủ đạo; tiếp theo là
các yếu tố vỏ phong hoá, địa chất công trình, đới
ảnh hưởng động lực đứt gãy, địa chất thủy văn, mật
độ đứt gãy,mật độ chia cắt sâu, mật độ chia cắt
ngang, độ che phủ thực vật và mật độ giao thông.
Bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ TLĐ các
huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi được xây dựng
trên cơ sở tích hợp 11 bản đồ nguy cơ TLĐ thành
phần bằng phân tích không gian trong môi trường
GIS.
Trên địa bàn các huyện miền núi tỉnh Quảng
Ngãi, vùng có nguy cơ trượt lở trung bình chiếm
40,67% diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu,
phân bố ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà và Tây Trà.
Vùng có nguy cơ TLĐ ở cấp độ cao chiếm 24,32%
diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu, phân bố chủ
yếu ở các huyện Ba Tơ, Sơn Hà và Trà Bồng.
Vùng có nguy cơ TLĐ ở cấp độ thấp chiếm
20,28% diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu,
phân bố ở các huyện: Ba Tơ, Sơn Hà và Sơn Tây,
một phần ở các huyện Tây Trà, Minh Long và Trà
Bồng. Vùng có nguy cơ trượt lở rất cao chỉ chiếm
0,58% diện tích tự nhiên khu vực nghiên cứu và
phân bố chủ yếu ở huyện Trà Bồng và rải rác ở Ba
Tơ, Sơn Hà. Vùng có nguy cơ trượt lở rất thấp
chiếm 14,15% diện tích tự nhiên khu vực nghiên
cứu, phân bố ở các huyện Sơn Tây, Ba Tơ và rải
rác ở các huyện Sơn Hà, Tây Trà và Minh Long.
Việc phòng tránh tai biến TLĐ phải được xác
định là nhiệm vụ của từng người, từng hộ và mọi
cấp quản lý xã hội. Cần đầu tư tăng cường mạng
lưới dự báo trượt lở; đầu tư nâng cấp trang thiết bị,
hệ thống xử lý thông tin; thiết lập các hệ thống
cảnh báo tiên tiến, cũng như xây dựng các phương
án cứu hộ cứu nạn nhằm giảm thiểu thiệt hại do tai
biến gây ra ở những vùng có nguy cơ cao. Trên
phạm vi các khu vực dân cư, công trình kinh tế - xã
hội quan trọng đã xảy ra tai biến hoặc đang bị tai
biến đe dọa nhất thiết phải có biện pháp phòng
tránh cụ thể.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Lê Mục Đích, 2001: Kinh nghiệm phòng
tránh và kiểm soát tai biến địa chất, Nxb. Xây
Dựng, Hà Nội. (Dịch từ tiếng Trung Quốc).
[2] Phạm Văn Hùng, 2011: Đánh giá hiện trạng
và khoanh vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất tỉnh
Quảng Nam, Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất,
T.33, 3ĐB, tr. 518-525, Hà Nội.
[3] Phạm Văn Hùng, 2012: Đứt gãy hoạt động
và nguy cơ nứt sụt đất vùng núi tỉnh Quảng Ngãi.
Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất, T.34, 3, tr.233-
242, Hà Nội.
[4] Ngô Cảnh Tùng, Nguyễn Hữu Năm, Nghiêm
Hữu Hạnh, 2010: Thiên tai trượt lở đất ở Quảng
Nam, Quảng Ngãi và một số phương pháp dự báo.
Tạp chí Địa kỹ thuật, số 3, tr.46-53, Hà Nội.
[5] Guzzetti, F., A. Carrara, M. Cardinali, P.
Reichenbach., 1999: Landslide hazard evaluation:
a review of current techniques and their application
in a multi-scale study, Central Italy.
Geomorphology, vol. 31, no.1-4, p.181-216.
[6] Saaty, Thomas L., 1994: Fundamentals of
decision making and priority theory with analytic
hierarchy process. Pittsburgh: RWS publications,
527p.
119
SUMMARY
Risk warning landslide In the mountainous districts of Quang Ngai province
On the basis of studies to assess the status and impact factors arising landslides, partitioning allows warned the risk
of landslides in the mountainous districts of Quang Ngai province.
- On the mountainous province of Quang Ngai distributed sliding block 809, they form bands running under the
sublatitude, sublongtitude and the NE-SW with sliding mass density reached 10-12 block/10km2.
- Landslides occur due to 11 impact factors arising, including slope and slope factor mean annual rainfall plays a key
role; followed by the crust of factors, geology, tropical impact fracture dynamics, hydrogeology, fracture density, the
density of deep separation, horizontal separation density, cover plant phue and traffic density. Zoning map warning the
risk of landslides in mountainous districts of Quang Ngai province was built on the basis of the integrated 11 Landslide
hazard maps in spatial analysis component in a GIS environment.
- On the mountainous districts of Quang Ngai province, the average risk of landslides accounted for 40.67% of the
research natural area, distributed in the districts of Ba To, Son Ha, Tay Tra. Areas at risk of landslides in high level
accounting for 24.32% of the natural areas of the study area, mainly distributed in the districts of Ba To, Son Ha and Tra
Bong. Areas at risk of landslides in low-level accounting for 20.28% of the area of research natural areas, distributed in
the district: Ba To, Son Ha and Son Tay, partly in Tay Tra district, Minh Long and Tra Bong. Areas with high risk of
landslides accounted for only 0.58% of the natural area and research area is mainly distributed in Tra Bong district and
scattered in Ba To, Son Ha. Areas with very low risk of landslides accounted for 14.15% of the research natural area,
distributed in the districts of Shon Tay, Ba To and scattered in the districts of Son Ha, Tay Tra and Minh Long.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3653_12458_1_pb_4752_2107956.pdf