thành từ từ, tích tiểu thành đại, và quan trọng nữa là
mọi người dân, mọi gia đình đều là nguồn tạo nên loại
chất thải này. Để hạn chế ô nhiễm môi trường từ rác
thải sinh hoạt thì cần phải có liệu pháp văn hóa. Trong
đời sống hàng ngày, cần phải nâng cao nhận thức của
người dân, hạn chế tâm lý cá nhân, ích kỷ của con
người trong trong xử lý rác thải sinh hoạt. Cần có
những biện pháp tuyên truyền hợp lý và thiết thực về
cách phân loại rác thải sinh hoạt, tác hại của các loại
sinh hoạt khác nhau đến đời sống người dân. Vận
động người dân hạn chế sử dụng các loại chất thải khó
phân hủy như túi nilon, thủy tinh, đồ da. Cần làm cho
người dân hiểu tác hại của rác thải không chỉ đối với
một người, một gia đình mà là cả cộng đồng, cả xã
hội. Và việc xử lý rác thải cũng cần cả cộng đồng, cả
xã hội cùng chung sức thực hiện. Bệnh tật không trừ
người giàu hay người nghèo, cán bộ hay người dân,
và rác thải cũng là nguồn gây nên bệnh tật. Cần tăng
cường vai trò của người dân trong việc xử lý rác thải
và bảo vệ môi trường qua các hương ước. Để người
dân cùng họp bàn về các cách xử lý, chế độ quản lý
và xử phạt trong quá trình xây dựng hương ước của
các thôn, xóm. Nâng cao vai trò của các tổ chức cộng
đồng trong việc quản lý thôn xóm, bảo vệ môi trường
và xây dựng văn hóa lành mạnh. Bên cạnh đó, chính
quyền địa phương cũng cần có chế tài xử phạt nghiêm
túc, đủ sức răn đe đối với các hành vi gây ô nhiễm môi
trường, vứt rác bừa bãi. Cao hơn nữa, cần có tầm nhìn
chiến lược, sâu xa hơn trong việc xử lý rác thải, tránh
các biện pháp địa phương cục bộ như hiện nay, đẩy
rác ra những nơi giáp ranh để trốn tránh trách nhiệm.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảnh quan và môi trường trong xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [32]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. Cảnh quan nông thôn mới
Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới hiện nay là một công cuộc cải cách
can thiệp sâu vào sự phát triển của nông thôn mà
Nhà nước Việt Nam thực hiện trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hội nhập và phát triển đất nước. Nếu xem
xét lại trong lịch sử từ sau Cách mạng tháng Tám
1945 thì đây là lần thứ 4 Nhà nước thực hiện các
chính sách lớn về phát triển nông thôn. Lần đầu
tiên là cuộc cải cách ruộng đất vào những năm 50
của thế kỷ XX mà việc quan trọng nhất là lấy
ruộng đất của địa chủ, phú nông chia lại cho nông
dân, tiêu diệt các thế lực sở hữu tư nhân tư liệu
sản xuất ở nông thôn. Lần thứ hai là công cuộc
hợp tác hóa nông nghiệp bắt đầu từ đầu những
năm 1960 đến giữa những năm 1980 với nội dung
chủ yếu là tập thể hóa các tư liệu sản xuất và phân
công lao động theo hợp tác xã với nền kinh tế kế
n Lệ Cơ
Chúng ta đang đi những bước cuối
cùng trên chặng đường một thập kỷ xây
dựng nông thôn mới. Thành quả đạt
được là vô cùng lớn, làm thay đổi cơ bản
đời sống vật chất và tinh thần của người
dân ở nông thôn. Xã hội nông thôn ngày
càng được hiện đại hóa và hội nhập hơn
với sự phát triển trong quá trình toàn
cầu hóa. Nhưng nông thôn mới cũng làm
cho cảnh quan nông thôn biến đổi
nhanh chóng. Và ở nhiều phương diện,
sự biến đổi cảnh quan nông thôn tác
động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên
ở nông thôn. Vậy nên, để đẩy mạnh công
cuộc xây dựng nông thôn mới trong giai
đoạn tiếp theo, chúng ta cần nhìn nhận
lại vấn đề cảnh quan và môi trường ở
nông thôn hiện nay. Đặc biệt là vấn đề
bảo vệ môi trường nông thôn trong giai
đoạn tới gắn với xây dựng những cảnh
quan thân thiện, xanh sạch đẹp hơn.
CẢNH QUAN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Xây dựng nông thôn mới đã làm thay đổi diện mạo nhiều vùng quê nông thôn Nghệ An
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [33]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hoạch tập trung. Lần thứ 3 là công cuộc đổi mới từ giữa
những năm 1980, nội dung chủ yếu liên quan đến nông
nghiệp, nông thôn là thực hiện khoán sản phẩm, sau đó
chia lại ruộng đất về các gia đình nông dân. Và lần này
là chương trình nông thôn mới, một chương trình trọng
điểm của quốc gia. Những cuộc cải cách này đều phần
nào làm thay đổi căn bản đời sống ở nông thôn qua
việc thay đổi quan hệ sản xuất và quyền sở hữu tư liệu
sản xuất. Cải cách ruộng đất mang ruộng đất lại cho
nông dân và tiêu diệt hết tầng lớp địa chủ trong xã hội
nông thôn, nhưng cũng từ đó, ruộng đất chuyển sang
sở hữu nhà nước và người dân chỉ còn quyền sử dụng.
Công cuộc hợp tác hóa với lối sản xuất tập thể và hệ
thống hợp tác xã đã kéo xã hội nông thôn tụt hậu thêm
một bậc khi không giải phóng được sức lao động,
không nâng cao được hiệu quả sản xuất. Phải đến Đổi
mới thì đời sống nông thôn mới được “bung” ra và bắt
đầu có những phát triển vượt bậc. Nhưng điều đó chưa
đủ để nông dân, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam tiến
vào kinh tế thị trường một cách mạnh mẽ và hiệu quả.
Có nhiều sự khác nhau giữa các lần cải cách nông thôn
nói trên nhưng cũng có những điểm tương đồng. Đó là
các chính sách đều được đẩy lên thành các phong trào
xã hội rộng lớn mà hệ lụy của nó cũng không nhỏ. Và
chương trình nông thôn mới hiện nay cũng đang trở
thành một phong trào xã hội. Dù lên miền ngược hay
xuống miền xuôi, vào Nam, ra Bắc hay qua miền Trung
đều có những khẩu hiệu về nông thôn mới. Khi đi vào
các trụ sở hành chính địa phương, đặc biệt là cấp xã
thì cái đầu tiên nhìn thấy sẽ là bảng 19 tiêu chí xây
dựng nông thôn mới của nhà nước được in rất lớn và
treo ở vị trí trang trọng. Các xã, các huyện và các tỉnh
đang thi đua nhau xây dựng nông thôn mới. Không phủ
nhận những thành quả mà quá trình xây dựng nông
thôn mới đưa lại cho người dân, nhất là trong đời sống
vật chất. Nhưng bên cạnh đó, cũng cần nhìn lại nhiều
tác động của quá trình xây dựng nông thôn mới, mà
trong bài viết này muốn đề cập đến chính là cảnh quan
nông thôn và môi trường nông thôn.
Cảnh quan nông thôn được hiểu là không gian vật
chất gắn liền với các hoạt động sản xuất và hoạt động
văn hóa của người dân ở nông thôn. Thường thì có
thể phân chia thành cảnh quan trong làng và cảnh
quan ngoài làng. Cảnh quan nông thôn luôn biến đổi
để phù hợp với cuộc sống của người dân và các hoạt
động sống của người dân cũng là nhân tố quan trọng
làm thay đổi cảnh quan. Trong quá trình
xây dựng nông thôn mới một thập kỷ
qua, cảnh quan nông thôn đã biến đổi
mạnh mẽ.
Trước hết là cảnh quan trong làng.
Trong xã hội truyền thống, người ta gắn
cảnh quan trong làng với cấu trúc cây đa
- bến nước - sân đình. Đương nhiên, thực
tế đa dạng hơn nhiều, không phải làng
nào cũng có cấu trúc cảnh quan như vậy,
nhưng đây là những hình ảnh quen thuộc
của làng quê Việt Nam truyền thống.
Cùng với sự phát triển ngày một đa dạng,
và tác động của cuộc cách mạng văn hóa
những năm 1960 đến đầu những năm
1990 làm cho cấu trúc làng xã thay đổi,
đình làng ở nhiều nơi bị phá hoại, các
sinh hoạt văn hóa cũng thay đổi nhiều.
Nhiều không gian văn hóa của thời bao
cấp xuất hiện như sân kho, cửa hàng mậu
dịch, sân bóng gắn liền với đời sống
người dân. Rồi một thời người dân nông
thôn rạo rực xây dựng mô hình VAC
(Vườn - Ao - Chuồng) cùng tạo ra một
cảnh quan khác dù tồn tại không quá lâu.
Gần đây, dưới tác động của nhiều yếu tố,
trong đó có quá trình xây dựng nông thôn
mới, cảnh quan trong làng cũng thay đổi
nhanh chóng. Cái dễ thấy nhất là cơ sở
vật chất hạ tầng ở nông thôn đã thay đổi
nhanh chóng theo hướng hiện đại hóa.
Kết cấu vật chất được nói đến nhiều nhất
và đầu tư nhiều nhất là điện - đường -
trường - trạm. Từ nông thôn vùng đồng
bằng, trung du đến miền núi, vùng sâu,
vùng xa đều được đầu tư xây dựng các cơ
sở vật chất theo cấu trúc này.
Thực ra trước khi thực hiện chương
trình nông thôn mới thì vấn đề đầu tư cơ
sở vật chất để hiện đại hóa nông thôn đã
được đẩy mạnh. Nhưng xây dựng nông
thôn mới đã thúc đẩy quá trình này một
cách nhanh chóng hơn với tốc độ và kinh
phí đầu tư lớn hơn. Nó làm cho cảnh quan
trong làng ở nông thôn thay đổi mạnh mẽ
và sâu sắc.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [34]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
lớn có thể luân chuyển được. Nhưng quan trọng nhất là
đường làng ngõ xóm được bê tông hóa nhanh chóng.
Theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm là cơ
sở để bê tông hóa đường sá nông thôn. Có người đã đưa
ra ý kiến rằng vấn đề quan trọng nhất trong chương trình
xây dựng nông thôn mới thập kỷ qua là bê tông hóa, là
các hoạt động gắn với xi măng. Họ cho rằng xi măng là
nhân tố quan trọng nhất, chi phối nhất trong quá trình
xây dựng nông thôn mới. Trường hay trạm cũng là xây
mới lại kiên cố hơn, sạch đẹp hơn còn trang thiết bị thì
vẫn hạn chế và đặc biệt nhân lực làm việc trong đó cũng
không nâng cao lên bao nhiêu. Tức là chỉ thay đổi bề
ngoài nhờ vào xi măng. Đặc biệt là đường. Hàng tỷ tấn
xi măng được đầu tư vào việc làm đường. Đường sá sạch
đẹp hơn là điều kiện để các phương tiện hiện đại như xe
gắn máy, xe ô tô xuất hiện ngày càng nhiều ở nông thôn.
Đường không ngừng được hoàn thiện cũng làm cho giao
thông giao thương giữa các địa phương, các vùng miền
trở nên đơn giản hơn, dễ dàng hơn, tạo điều kiện thuận
lợi để phát triển kinh tế thị trường cũng như đẩy mạnh
tiếp xúc, giao lưu văn hóa.
Bên cạnh đó, trường học và trạm y tế ở các xã thôn
cũng được xây dựng khang trang hơn, đầu tư hiện đại
hơn. Vào xã nào, người ta cũng nhận ra được những
ngôi trường cao tầng hay các trạm xá hai, ba tầng rộng
lớn và sạch đẹp. Ngoài ra cũng phải nói đến các cảnh
quan khác như nhà văn hóa, sân vận động, sân bóng đá,
bóng chuyền không ngừng xuất hiện và hiện đại hơn.
Các thôn xóm, làng bản đều được đầu tư xây dựng nhà
văn hóa kiên cố, dựng sân bóng để sinh hoạt. Đó là
những yêu cầu cứng để đạt chuẩn nông thôn mới.
Mạng lưới điện ở nông thôn được phát
triển lên đến tận miền núi, vùng sâu, vùng
xa. Hầu hết các xã đều đã có đường điện.
Điện là cơ sở vật chất quan trọng để hiện
đại hóa nông thôn. Có điện thì không chỉ
diện mạo làng xã thay đổi mà đặc biệt là
các sinh hoạt văn hóa trong gia đình
cũng thay đổi. Hàng loạt các trang thiết
bị, công cụ sản xuất được vận hành bằng
điện xuất hiện và làm thay đổi sâu sắc
đời sống sinh hoạt cũng như đời sống
sản xuất của người dân ở nông thôn.
Lượng điện tiêu dùng ở nông thôn đang
tăng lên hàng ngày và tăng gấp nhiều lần
vì nhu cầu sử dụng điện ngày một lớn
hơn. Nếu ngày trước chỉ thắp sáng thì
nay còn là nguồn năng lượng chính để
vận hàng các trang thiết bị như tivi, tủ
lạnh, máy giặt, điều hòa, nấu cơm, chạy
các máy sản xuất...
Đường xá là cơ sở vật chất ở nông thôn
thay đổi nhanh chóng nhất. Trước đây,
đường ở nông thôn chủ yếu là đường đất
nhỏ hẹp, một số làng có đường đá. Đường
đất hay đá thì cũng khó khăn cho việc di
chuyển vào mùa mưa bão. Nhưng hiện
nay, chỉ trong một thập kỷ xây dựng nông
thôn mới, đường làng ngõ xóm hầu hết
đều được bê tông hóa. Các đường lớn của
xã, liên xã, liên huyện, liên tỉnh đều được
đổ nhựa và mở rộng để xe có trọng tải khá
Cảnh quan nông thôn mới được hiện đại, bê tông hóa
nhưng cũng tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [35]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
nhau. Các sông ngòi thì ô nhiễm nặng hơn.
Trước đây, người dân có thể sử dụng nước ở
các sông ngòi từ tắm giặt, thậm chí để ăn
uống. Nhưng hiện nay, hầu hết các con sông
đều bị ô nhiễm nên không sử dụng được. Chế
độ nước ở các sông ngòi cũng thay đổi, không
còn theo mùa như trước kia. Các đồng ruộng
nhìn qua thì vẫn canh tác bình thường. Nhưng
để ý kỹ hơn thì thay đổi nhiều, nhất là hệ sinh
thái trong đó. Hàng triệu tấn hóa chất đã được
người dân sản xuất nông nghiệp đưa vào môi
trường đất, môi trường nước khiến cho nhiều
loài động vật bị tiêu diệt.
Tóm lại, cảnh quan nông thôn đang biến
đổi nhanh chóng dưới tác động của quá trình
xây dựng nông thôn mới. Làng xã được bê
tông hóa mạnh mẽ. Các gia đình cũng mái tôn
hóa nhanh chóng hơn, hiện đại hơn. Sự thay
đổi của làng xã theo hướng hiện đại hơn với
những kết cấu đồng bộ theo các tiêu chuẩn
Nhà nước đặt ra. Tuy nhiên, cũng vì bê tông
hóa, xi măng hóa, mái tôn hóa quá nhanh
chóng nên môi trường nông thôn bị ô nhiễm
nặng nề hơn và đặt ra nhiều vấn đề cần phải
giải quyết.
2. Cảnh quan và môi trường
Cảnh quan và môi trường luôn có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. Nói chính xác thì cảnh
quan cũng là một phần của môi trường, và là
một phương diện biểu hiện của môi trường.
Cảnh quan thay đổi cũng cho thấy môi trường
đang thay đổi. Và đương nhiên, khi môi
trường thay đổi thì cũng tác động lại làm thay
đổi cảnh quan.
Cảnh quan nông thôn đã và đang thay đổi
nhanh chóng như đã phân tích ở trên. Điều đó
khiến cho chúng ta phải đặt câu hỏi về môi
trường nông thôn sẽ như thế nào? Chúng ta
hãy hình dung môi trường nông thôn sẽ như
thế nào khi bề mặt nông thôn được bao phủ
bởi bê tông và mái tôn. Trước hết, hàng tỷ
khối bê tông được rải lên bề mặt nông thôn,
mà rộng hơn là bề mặt trái đất gây nên một
sức nặng lên cơ thể vốn đã nặng nề của nó.
Sức ép đó có thể tạo ra những đứt gãy trong
lòng đất và gây nên những hiểm họa mà loài
Nếu cảnh quan chung của làng xã thay đổi
nhanh chóng, thì cảnh quan riêng ở các gia đình
càng thay đổi nhanh chóng hơn. Không gian nhà
cửa thay đổi hoàn toàn so với trước. Những ngôi
nhà xây kiên cố rộng lớn hơn, được ngăn thành
các phòng với các trang thiết bị hiện đại ngày càng
xuất hiện nhiều hơn. Tỷ lệ nhà cao tầng, nhà nhiều
căn phòng ngày càng cao hơn. Kết cấu một thời
được ưu chuộng là vườn - ao - chuồng gần như
không còn tồn tại. Nhiều nhà trước đây có ao thì
cũng lấp lại hết. Chuồng để chăn nuôi cũng giảm
dần vì chăn nuôi hộ gia đình ít đi. Từ trong nhà,
ngoài sân và cổng đều được lát gạch hoặc bê tông
hóa. Các bờ rào ngăn giữa vườn của các gia đình
trước đây hoặc bằng hàng cây, hoặc được làm
bằng tre nứa thì nay được xây bằng bờ rào gạch
kiên cố và kín hơn. Các cánh cổng sắt chắc chắn
cũng thay thế cho những cánh cổng bằng tre nứa
hoặc để trống ở các gia đình. Nói chung là cảnh
quan “kín cổng cao tường” ngày một phổ biến ở
các gia đình nông thôn. Nhưng nổi bật nhất có lẽ
là mái tôn. Trong mười năm qua, diện tích mái tôn
ở nông thôn tăng nhanh chóng. Gần như gia đình
nào cũng có mái tôn để che phần sân, làm mái
nhà, mái bếp hay các công trình khác. Nếu từ trên
cao nhìn xuống thì cả làng, cả xóm như một kết
cấu được lợp bằng mái tôn lớn. Nếu cảnh quan
chung của nông thôn gắn với bê tông hóa, xi
măng hóa thì cảnh quan trong gia đình gắn với
mái tôn hóa.
Nếu cảnh quan trong làng thay đổi theo hướng
cơ giới, cơ khí hóa như vậy thì cảnh quan ngoài
làng cũng thay đổi nhanh chóng dưới tác động của
hóa học hóa. Cảnh quan ngoài làng là cảnh quan
bao quanh làng, chủ yếu là đồng ruộng, ao hồ,
sông ngòi, đồi núi và cũng là cảnh quan sản xuất
của người dân trong làng. Một điều dễ nhận thấy
là hàng loạt các ao hồ xung quanh các làng xã đã
bị biến mất. Ngày trước, hầu hết các làng xã đều
có nhiều ao hồ bao quanh. Đó là những khu vực
chứa nước trong làng. Vì nhiều điều kiện mà
người dân chưa thể khai thác hết các ao hồ để
trồng trọt. Nhưng gần đây thì ao hồ đã được san
lấp một mặt phục vụ canh tác, mặt khác để lấy đất
thổ cư do sức ép của tăng dân số. Sự biến mất của
hệ thống ao hồ cũng gây nên nhiều hệ lụy khác
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [36]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
sống. Nhưng trong nhiều năm đẩy mạnh hiện đại hóa
nông nghiệp, đặc biệt là hóa học hóa nông nghiệp,
người dân đã đưa hàng triệu tấn hóa chất vào môi
trường đất, nước làm cho hàng loạt các loại động thực
vật bị giảm dần. Những nguồn thực phẩm như tôm,
cua, lươn, cá, ốc, hến... trên đồng ruộng đều giảm, giờ
trở thành đặc sản. Đến con đỉa, vốn là loài rất phổ biến
ở ruộng nước ngày trước, thì giờ cũng trở nên hiếm
thấy. Điều đó cho thấy, để có được một lượng lương
thực đủ dùng cho bản thân, con người đã đổ vào môi
trường hàng triệu tấn hóa chất, để rồi nhận lại không ít
vấn đề nguy hiểm cho chính mình. Đó là hệ lụy của
nền nông nghiệp hóa chất. Chưa có một nghiên cứu
nào để tính toán được mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm
môi trường đến sức khỏe con người ở nông thôn nhưng
theo những ghi nhận được thì trong xã hội nông thôn,
bệnh ung thư đang tăng lên và lấy đi tính mạng của
nhiều người.
Thay đổi cảnh quan cũng gây nên nhiều hệ lụy khác.
Xin phân tích một ví dụ cụ thể mới xảy ra gần đây trên
địa bàn Nghệ An. Vào tháng 9/2019, thành phố Vinh
bị một trận ngập lớn sau khi mưa lớn kéo dài. Người
ta coi đây là trận ngập lịch sử đối với Vinh và gây thiệt
hại hàng trăm tỷ đồng trên nhiều phương diện khác
nhau. Có nhiều nguyên nhân gây nên trận ngập này,
trong đó có một nguyên nhân là do biến đổi cảnh quan
cả ở nông thôn lẫn thành thị ở Vinh và vùng xung
quanh. Ngày trước, các khu vực ven Vinh đều có một
hệ thống ao hồ bao quanh. Đó là những hồ nước có
chức năng điều hòa không khí và cũng làm cho hệ sinh
thái thêm đa dạng. Nhưng nhiều năm nay, cùng với đô
thị hóa và hiện đại hóa thì hệ thống ao hồ đó bị biến
thành đất thổ cư, đất xây dựng. Một chức năng quan
trọng của hệ thống ao hồ là điều hòa lượng nước khi
mưa lụt. Nó như những ngăn chứa nước khi mưa lớn
để giảm tải cho hệ thống mương máng, cống rãnh và
cả các dòng sông. Nhưng khi hệ thống ao hồ này biến
mất thì toàn bộ lượng nước mưa đổ xuống không
được giữ lại mà phải chảy đến chỗ thấp hơn ngay.
Bình thường là chảy ra sông. Nhưng khi nước sông
cũng dâng cao vì mưa từ thượng nguồn thì sẽ gây nên
ngập lụt.
Nhìn chung, quá trình xây dựng nông thôn mới làm
thay đổi nhanh chóng cảnh quan nông thôn và qua đó
tác động mạnh mẽ đến môi trường nông thôn. Nhiều
vấn đề nghiêm trọng liên quan đến ô nhiễm môi trường
người sẽ phải hứng chịu. Khi trọng lượng
trái đất tăng lên thì cũng gây nên nhiều
điều bất thường. Diện tích bê tông tăng
lên nhanh chóng thì cũng đồng nghĩa diện
tích đất, nước, đặc biệt là cây xanh cũng
sẽ giảm đi tương đương. Điều này ảnh
hưởng đến khí hậu của địa phương, của
khu vực và thế giới. Hơn nữa, những mái
tôn ở nông thôn, vốn đang tăng lên nhanh
chóng, là những lò hấp thụ nhiệt vô cùng
lớn. Khi tiến hành khảo sát một thôn nhỏ
vùng trung du Nghệ An với 165 hộ gia
đình thì thấy rằng trung bình mỗi hộ có
213m2 mái tôn. Nghĩa là chỉ một thôn đã
có 35.145m2 mái tôn. Cả nước có mấy
triệu hộ gia đình mà tính lên thì có cả tỷ
mét vuông mái tôn. Cùng với bê tông thì
mái tôn hấp thụ nhiệt và tạo ra sức nóng.
Nếu con người có những máy quạt điện,
máy điều hòa để trốn tránh khi nắng nóng
thì Trái đất không có. Nhiệt độ tăng lên
làm khí hậu nóng hơn, hiệu ứng nhà kính
cũng tăng thêm. Tất cả những điều đó
làm cho biến đổi khí hậu thêm nhanh
chóng và tác hại của nó thì không thể
lường được.
Vấn đề thứ hai cần quan tâm là cảnh
quan nông thôn thay đổi làm cho sự đa
dạng sinh thái ở nông thôn cũng giảm đi
nhanh chóng. Ngày trước, với hệ thống
sông ngòi, ao hồ nhiều và nguồn nước
sạch thì hệ sinh thái động thực vật cũng
đa dạng hơn. Nhưng sông ngòi ô nhiễm
làm cho hệ sinh thái cũng giảm sự đa
dạng. Đặc biệt, hệ thống ao hồ quanh các
làng từng là nơi cung cấp cho người dân
nguồn thực phẩm quan trọng cho cuộc
sống như tôm, cua, lươn, cá, ốc, hến...
Bản thân trong môi trường ruộng nước,
ao hồ cũng có nhiều loại sinh vật có giá
trị để bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh
trước đây, khi hoạt động sản xuất nông
nghiệp không đạt hiệu quả cao nhưng bù
lại người dân có thể khai thác được nhiều
nguồn thực phẩm từ đồng ruộng, ao hồ
quanh họ để tăng cường cải thiện cuộc
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [37]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Thứ hai là kiểm tra hoạt động của các xí
nghiệp, xưởng sản xuất gần các dòng sông để hạn
chế ô nhiễm sông suối, ô nhiễm nguồn nước. Hầu
hết các dòng sông đều đang ô nhiễm ngày một
nặng hơn. Mà ven các dòng sông là những vùng
dân cư nông thôn tập trung nhất nên cần phải coi
trọng. Bảo vệ các dòng sông hay bảo vệ nguồn
nước cần phải nhìn rộng ra, đặt nó trong một hệ
thống rừng - sông/suối - biển. Cần chú ý đến việc
xây dựng các bãi rác gần các dòng sông. Hiện nay
có nhiều địa phương dịch chuyển các bãi rác ra
các dòng sông, những chỗ vắng dân cư để đốt rác.
Điều này rất nguy hiểm cho các dòng sông. Ngoài
việc ô nhiễm nguồn nước thì nó còn là vấn đề tệ
hại khi lũ lụt dâng lên mang theo hàng ngàn tấn
rác trôi theo xuống khu vực hạ lưu và ra biển.
Thứ ba là phát triển các mô hình kinh tế sạch,
nông nghiệp sạch để hạn chế nông nghiệp hóa
chất, hạn chế các hoạt động sản xuất gây ô nhiễm
môi trường. Điều này cũng không dễ dàng nhưng
vẫn có thể làm được bởi khoa học - công nghệ
phục vụ sản xuất đang phát triển nhanh chóng. Vấn
đề là làm sao để hài hòa lợi ích cho người sản xuất,
người tiêu dùng và bảo vệ môi trường. Người dân
đang quá lạm dụng các loại hóa chất vào quá trình
sản xuất. Vậy nên cần phải làm sao để người dân
hiểu và thay đổi là vấn đề quan trọng.
Và cuối cùng, để bảo vệ môi trường nông thôn
thì không thể không nói đến vấn đề văn hóa, mà
quan trọng nhất là thay đổi thói quen của người
dân, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người
dân. Xây dựng nông thôn mới đã quan tâm đến
vấn đề xử lý rác thải, yêu cầu các hộ gia đình làm
được đặt ra từ sự biến đổi cảnh quan. Điều đó
cũng đặt ra vấn đề quan trọng là bảo vệ môi
trường trong quá trình xây dựng nông thôn mới
như thế nào cho phù hợp. Chúng ta không thể
không đầu tư phát triển nông thôn, nhưng cũng
không thể làm mọi thứ gây nguy hại cho môi
trường để rồi nhận lại những tác động tiêu cực
lớn hơn nhiều lần.
3. Bảo vệ môi trường nông thôn trong xây
dựng nông thôn mới
Như đã phân tích ở trên, xây dựng nông
thôn mới dù quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi
trường và xem môi trường là một tiêu chí để
xem xét, nhưng cũng có tác động mạnh mẽ gây
nguy hại cho môi trường. Để hạn chế điều đó
thì cần nhận thức lại các vấn đề phát triển nông
thôn gắn với phát triển bền vững.
Trước hết, cần hạn chế quá trình bê tông
hóa, xi măng hóa và mái tôn hóa ở nông thôn.
Vì những quá trình này gây ra tác hại quá
nghiêm trọng đối với môi trường. Để hạn chế
điều đó thì cần tìm kiếm những nguyên liệu
mang tính hài hòa với môi trường hơn. Nhiều
địa phương đang vận động người dân hạn chế
làm mái tôn mà thay vào đó là mái lá cây truyền
thống để mát mẻ hơn và ít gây tác động đến môi
trường hơn. Bên cạnh đó là sử dụng các loại
ngói nung từ đất để đỡ hấp thụ nhiệt hơn. Riêng
việc bê tông hóa là vấn đề lớn vì chưa tìm kiếm
được các nguyên liệu nào khác để thay thế nó
trong khi nhu cầu đi lại, giao thông vận chuyển
của người dân ngày một lớn hơn. Nhưng cũng
cần phải hạn chế sự ồ ạt bê tông hóa.
Phải xem môi trường là vấn đề quan trọng
trong đánh giá mức độ thành công của xây dựng nông thôn mới
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 8/2020 [38]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
thành từ từ, tích tiểu thành đại, và quan trọng nữa là
mọi người dân, mọi gia đình đều là nguồn tạo nên loại
chất thải này. Để hạn chế ô nhiễm môi trường từ rác
thải sinh hoạt thì cần phải có liệu pháp văn hóa. Trong
đời sống hàng ngày, cần phải nâng cao nhận thức của
người dân, hạn chế tâm lý cá nhân, ích kỷ của con
người trong trong xử lý rác thải sinh hoạt. Cần có
những biện pháp tuyên truyền hợp lý và thiết thực về
cách phân loại rác thải sinh hoạt, tác hại của các loại
sinh hoạt khác nhau đến đời sống người dân. Vận
động người dân hạn chế sử dụng các loại chất thải khó
phân hủy như túi nilon, thủy tinh, đồ da... Cần làm cho
người dân hiểu tác hại của rác thải không chỉ đối với
một người, một gia đình mà là cả cộng đồng, cả xã
hội. Và việc xử lý rác thải cũng cần cả cộng đồng, cả
xã hội cùng chung sức thực hiện. Bệnh tật không trừ
người giàu hay người nghèo, cán bộ hay người dân,
và rác thải cũng là nguồn gây nên bệnh tật. Cần tăng
cường vai trò của người dân trong việc xử lý rác thải
và bảo vệ môi trường qua các hương ước. Để người
dân cùng họp bàn về các cách xử lý, chế độ quản lý
và xử phạt trong quá trình xây dựng hương ước của
các thôn, xóm. Nâng cao vai trò của các tổ chức cộng
đồng trong việc quản lý thôn xóm, bảo vệ môi trường
và xây dựng văn hóa lành mạnh. Bên cạnh đó, chính
quyền địa phương cũng cần có chế tài xử phạt nghiêm
túc, đủ sức răn đe đối với các hành vi gây ô nhiễm môi
trường, vứt rác bừa bãi. Cao hơn nữa, cần có tầm nhìn
chiến lược, sâu xa hơn trong việc xử lý rác thải, tránh
các biện pháp địa phương cục bộ như hiện nay, đẩy
rác ra những nơi giáp ranh để trốn tránh trách nhiệm.
Nói tóm lại, sau một thập kỷ xây dựng nông thôn
mới đã làm thay đổi cơ bản cảnh quan nông thôn, qua
đó cũng tác động mạnh mẽ đến môi trường nông thôn.
Trong thời gian tới, khi đẩy mạnh xây dựng nông thôn
mới cần tập trung vào phát triển theo chiều sâu, nâng
cao chất lượng cuộc sống và tăng cường năng lực bảo
vệ môi trường nông thôn. Muốn vậy phải xem môi
trường là vấn đề rất quan trọng trong đánh giá mức độ
thành công của xây dựng nông thôn mới. Ngoài những
tiêu chí cứng đặt ra để theo dõi chất lượng môi trường
thì cũng cần có những chính sách phát triển văn hóa để
nâng cao nhận thức và năng lực bảo vệ môi trường cho
người dân ở nông thôn. Khi người dân hiểu và biết về
bảo vệ môi trường thì môi trường nông thôn may ra
mới được cải thiện./.
hố rác và phân loại rác. Yêu cầu các địa
phương phải có bãi rác và xử lý rác thải,
nhưng gần như vẫn chỉ là hình thức, thực
tế chưa hiệu quả. Rác thải nông thôn hiện
nay là vấn đề rất nghiêm trọng của đất
nước mà chưa có phương án giải quyết
hợp lý. Theo Cục Kiểm soát Ô nhiễm,
Tổng cục Môi trường, năm 2015, tại khu
vực nông thôn Việt Nam, mỗi năm phát
sinh 7 triệu tấn rác thải sinh hoạt; hơn
14.000 tấn bao bì, hóa chất bảo vệ thực
vật, phân bón các loại; 76 triệu tấn rơm
rạ và khoảng 47 triệu tấn chất thải chăn
nuôi (chưa tính một lượng chất thải lớn
từ sản xuất của các làng nghề), và tỷ lệ
thu gom rác thải sinh hoạt chỉ đạt 40-50%
tổng số rác thải. Ở Nghệ An, theo tổng
hợp của tỉnh năm 2015 thì tính riêng chất
thải rắn thải vào môi trường nông thôn là
290 tấn/ngày và dự báo đến 2020 là 430
tấn/ngày. Nghệ An cũng là tỉnh có số
điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực vật
nhiều nhất cả nước. Theo thống kê của
Bộ Tài nguyên và Môi trường, cả nước
có 240 điểm tồn lưu hóa chất bảo vệ thực
vật thì Nghệ An có 189 điểm, chiếm 80%.
Trong danh mục 100 khu vực ô nhiễm
đặc biệt nghiêm trọng vì hóa chất bảo vệ
thực vật thì Nghệ An có 55 điểm, chiếm
55%. Các điểm này đều ở nông thôn. Các
bãi rác lớn nhỏ xuất hiện nhanh chóng và
mức độ ô nhiễm môi trường ngày càng
cao. Hầu hết, các xã đều có 2-3 bãi rác
lớn và hàng chục bãi rác nhỏ ở các thôn
xóm. Địa điểm thường thấy của các bãi
rác là những khoảng trống giao nhau
giữa địa bàn các xóm hay giữa các xã.
Quanh các chợ lớn nhỏ đều là các bãi rác
không được phân loại và xử lý. Trong
các loại rác ở nông thôn, rác thải sinh
hoạt là một dạng đặc biệt, nó hình thành
hàng ngày, hàng giờ qua các sinh hoạt
của các cá nhân, các gia đình và số lượng
nhìn thấy ít hơn nên ít được quan tâm.
Nhưng thực tế, số lượng rác thải sinh
hoạt không hề nhỏ, chỉ là nó cứ hình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- canh_quan_va_moi_truong_trong_xay_dung_nong_thon_moi.pdf